Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho HS lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.82 KB, 38 trang )

PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 3.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Nội dung, chương trình môn Toán ở Tiểu học và nội dung, chương trình
môn Toán lớp 3.
- Các biện pháp giải toán lời văn.
Lớp 3D và 3B trường Tiểu học Phả Lại 2.
3. Tác giả:
Họ và tên: Trương Thị Thúy

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 08 – 6 - 1968
Trình độ chuyên môn: Đại học – Chuyên ngành GD Tiểu học
Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn
Trường Tiểu học Phả Lại 2
Điện thoại: 0944 256 128
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Phả Lại 2
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Sáng kiến được áp dụng đối với tất cả GV dạy Tiểu học.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: 20/9/2014.

NGƯỜI VIẾT

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Trương Thị Thúy

1



PHẦN 2: TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Đất nước ta đang trên đà phát triển, thực hiện Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Trong công cuộc đổi mới đang diễn ra từng ngày, từng
giờ trên khắp đất nước, đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản
lĩnh, năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, nắm bắt và làm chủ
khoa học kĩ thuật, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội đang phát triển.
Chính do nhu cầu này đã làm cho mục tiêu đào tạo trong nhà trường phải được
điều chỉnh một cách hợp lí. Trong chương trình giáo dục, môn Toán có vị trí rất
quan trọng. Nó là chìa khóa vạn năng để các em khám phá tri thức của nhân
loại. Trong khoa học kĩ thuật, Toán học giữ vị trí nổi bật hàng đầu. Nó có tác
dụng đối với nhiều ngành khoa học kĩ thuật trong sản xuất và chiến đấu. Nó là
môn thể thao trí tuệ, giúp ta rèn phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập,
phương pháp suy luận, giải quyết vấn đề và luyện trí thông minh, sáng tạo, trau
dồi tính cần cù, nhẫn lại, tinh thần vượt khó. Việc rèn luyện kiến thức Toán học
đặc biệt là kĩ năng giải toán cho HS còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng
cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mi,
ý chí tự lực vượt khó, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng, từng
bước hình thành và rèn luyện thói quen, khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt,
khắc phục cách suy nghĩ máy móc, rập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi,
sáng tạo. Để đáp ứng những yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn mới, nhà
trường nơi tôi công tác đã rất coi trọng việc đổi mới phương pháp dạy học,
nâng cao chất lượng giáo dục, đã áp dụng đổi mới phương pháp dạy học vào
các môn học nói chung và môn toán nói riêng nhưng hiệu quả chưa cao, qua
theo dõi, tình trạng thực tế hiện nay cho thấy HS thực sự lúng túng khi giải bài
toán có lời văn. Một số em gặp khó khăn khi tìm đường lối giải bài toán, chưa
biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Vậy làm thế
nào để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn?
Bản thân tôi đã nhiều năm dạy học, trăn trở, nghiên cứu qua thực tế giảng
dạy của mình tôi đã nảy sinh sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất

lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”, và kiểm nghiệm qua thực tế
giảng dạy để trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp.
Sáng kiến này áp dụng trong điều kiện thực tế của nhà trường và áp dụng
với tất cả GV dạy Tiểu học. Thời gian tôi bắt đầu áp dụng sáng kiến và kiểm
nghiệm thực tế ở năm học 2014-2015 với đối tượng là HS lớp 3, trường Tiểu
học nơi tôi công tác.
Bản sáng kiến có những điểm mới của vấn đề nghiên cứu so với các giải
pháp cũ thực hiện là:
- HS được luyện giải các bài toán có lời văn một cách bài bản, có hệ
thống.
- Phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
- Làm cho giờ học diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả.
Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi đối với tất cả GV, HS tiểu học trong
toàn quốc. Trong sáng kiến này, ngoài cơ sở lí luận và điều kiện thực tế tôi còn
đưa ra các giải pháp cơ bản sau:
2


Giải pháp thứ nhất: GV tìm hiểu, nắm chắc nội dung, chương trình, mục
tiêu, yêu cầu của môn Toán đối với cấp Tiểu học và đối với lớp mình dạy nói
riêng.
Giải pháp thứ hai: GV nắm vững quy trình giải bài toán có lời văn
Giải pháp thứ ba: Ôn tập, hệ thống lại kiến thức giải toán có lời văn đã học
Giải pháp thứ tư: Phát hiện lỗi sai của HS để đưa ra biện pháp sửa phù hợp
Giải pháp tứ năm: Hướng dẫn HS giải các bài toán có lời văn lớp 3 theo
bài bản để khắc phục những lỗi sai; trên cơ hướng dẫn HS, GV đưa ra những
lưu ý cần thiết giúp HS lưu ý khi giải toán;
Giải pháp thứ sáu: Rèn kĩ năng tính toán chính xác khi giải toán;
Giải pháp thứ bảy: Rèn tư duy sáng tạo cho HS năng khiếu khi giải toán.
Bằng các giải pháp cụ thể trên, sáng kiến đã có giá trị thiết thực trong việc

giảng dạy của GV và việc học của HS, làm chất lượng môn Toán đặc biệt là
việc giải toán có lời văn của HS được tốt hơn.
Kết quả thực nghiệm như vậy cho ta thấy bằng những giải pháp mà tôi đã
triển khai thực hiện đã đem lại kết quả rất đáng khích lệ. Việc học toán của HS
có nhiều tiến bộ so với trước đây. HS đã biết xác định đề bài, xác định dạng
toán, xác định đường lối giải bài toán một cách chính xác hơn, các em đã biết
đặt phép tính, viết câu trả lời cho từng phép tính cụ thể chính xác, linh hoạt,
không rập khuôn máy móc, biết trình bày bài giải một cách khoa học, thẩm mĩ
hơn. Đặc biệt là HS năng khiếu, các em đã phát huy được tính sáng tạo của
mình qua từng bài giải. Qua đó giúp học sinh từng bước phát triển tư duy, rèn
luyện phương pháp suy nghĩ và kĩ năng suy luận loogic, khêu gợi và tập dượt
khả năng phỏng đoán tìm tòi. HS biết vận dụng các kiến thức toán học vào
cuộc sống.
Để thực hiện áp dụng sáng kiến, tôi dã đưa ra một số khuyến nghị với các
cấp như sau:
- Đối với giáo viên: Cần học hỏi, tiếp thu, nghiên cứu tài liệu thực hành
đổi mới các phương pháp dạy Toán cho HS. Thường xuyên trau dồi chuyên
môn, nghiệp vụ cho bản thân.
- Đối với tổ chuyên môn: Thực hiện nghiêm túc việc tổ chức chuyên đề về
dạy toán, đặc biệt là dạy toán có lời văn để cho GV trong tổ nắm chắc phương
pháp giảng dạy, rèn luyện cho HS. Sau khi tổ chức chuyên đề, cần theo dõi sát
sao việc áp dụng chuyên đề, có đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm và bổ sung,
điều chỉnh nếu có, kịp thời giúp đỡ những giáo viên thực hiện chưa tốt việc dạy
giải toán cho HS.
- Đối với nhà trường: Cần quan tâm chú trọng đến việc tổ chức các các
hoạt động NGLL, các sân chơi trí tuệ để HS có cơ hội bộc lộ khả năng, vận
dụng kiến thức toán học của các em. Tổ chức các chuyên đề “dạy toán” ở các
khối lớp để GV học tập và trao đổi.
- Đối với ngành: Cần cung cấp sách giáo khoa, vở bài tập toán, sách tham
khảo kịp thời, đảm bảo chất lượng. Tổ chức chuyên đề “Hướng dẫn HS giải

toán” để GV trong các trường có điều kiện cùng trao đổi thảo luận.

3


PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Mục tiêu của xã hội
Mục tiêu của nước ta là đưa đất nước trở thành một nước có nền Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đòi hỏi phải có
một lớp người có sức khỏe, có trình độ chuyên môn vững vàng, biết áp dụng
những kiến thức, kết quả của khoa học vào thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Vì
vậy vấn đề đặt ra cho các nhà làm công tác giáo dục là phải đổi mới công tác
giáo dục và giảng dạy để góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Trong đó phương pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự tư duy của học
sinh (HS) được đặc biệt chú ý.
Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học là làm thế nào để HS phải
thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi suy nghĩ và sáng tạo
trong quá trình lĩnh hội tri thức, để có được tri thức ấy, nhằm phát triển và hoàn
thiện tri thức của mình. Trong giáo dục môn Toán góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục Tiểu học theo đặc trưng và khả năng của môn Toán. Cụ thể chuẩn bị
cho HS những tri thức, kỹ năng toán học cơ bản, cần thiết cho việc học tập
hoặc bước vào cuộc sống lao động.
Nhằm đáp ứng được những yêu cầu của xã hội đặt ra, ngành giáo dục và
đào tạo phải có những cải tiến, điều chỉnh, thay đổi về nội dung, chương trình
đồng thời đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Trong Luật giáo duc
Khoản 2, điều 124 đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học

tập cho HS.
1.2. Vị trí của của môn học
Trong trường tiểu học, mỗi môn học có vai trò khác nhau song tất cả đều
góp phần giáo dục và đào tạo những con người phát triển toàn diện. Cũng như
các môn học khác, môn Toán với tư cách là môn học độc lập nhưng giữ vai trò
vô cùng quan trọng, bởi: “Toán học là ông hoàng của khoa học”- (Gau- xơ). Nó
là chìa khóa vạn năng để các em khám phá tri thức của nhân loại. Như cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong khoa học kĩ thuật, Toán học giữ vị trí
nổi bật hàng đầu. Nó có tác dụng đối với nhiều ngành khoa học kĩ thuật trong
sản xuất và chiến đấu. Nó là môn thể thao trí tuệ, giúp ta rèn phương pháp suy
nghĩ, phương pháp học tập, phương pháp suy luận, giải quyết vấn đề và luyện
trí thông minh, sáng tạo, trau rồi tính cần cù, nhẫn lại, tinh thần vượt khó, yêu
tính chính xác, ham chuộng chân lí. Dù bạn phục vụ ở ngành nào, trong công
tác nào thì kiến thức và phương pháp Toán học cũng cần cho bạn”.
Việc rèn luyện kiến thức Toán học đặc biệt là kĩ năng giải toán cho HS
còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính
cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ, ý chí tự lực vượt khó, làm việc có
kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng, từng bước hình thành và rèn luyện
thói quen, khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy
móc, rập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi, sáng tạo.
4


1.3. Mục tiêu môn Toán ở cấp Tiểu học
Mục tiêu môn Toán ở cấp Tiểu học nhằm giúp HS:
Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số
thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn
giản.
- Hình thành các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải toán có nhiều ứng
dụng thiết thực trong đời sống.

- Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn
đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và giải quyết các vấn đề đơn giản, gần
gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; chăm học và hứng thú học tập
toán; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa
học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
1.4. Thực tế của nhà trường
Ở trong trường Tiểu học nơi tôi công tác, trong những năm học gần đây
đã áp dụng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn toán nói riêng
nhưng hiệu quả chưa cao, qua theo dõi, tình trạng thực tế hiện nay cho thấy HS
thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em còn chưa biết tóm tắt
bài toán, chưa biết phân tích đề để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để
trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Vậy làm thế nào để nâng cao
chất lượng giải toán có lời văn?
Bản thân tôi đã nhiều năm dạy học, trăn trở, nghiên cứu qua thực tế
giảng dạy của mình tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3”, và kiểm nghiệm qua thực tế
giảng dạy để trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp.
2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
2.1. Cơ sở lí luận
Nếu Tiểu học là cấp học nền tảng, là nền móng vững chắc cho các cấp học
khác thì lớp Một, lớp Hai, lớp Ba là viên gạch đầu tiên để có được nền móng
vững chắc đó, làm cho chất lượng ở các lớp sau cũng tốt hơn.
Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn
toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với
nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và
các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời
văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: Các khái niệm và các quy
tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc
giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn
luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo

viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến
thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc khắc phục. Việc kết hợp
học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho
học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp
học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời
sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống.
Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ
sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật
5


biện chứng: việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu cho các
em những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta và các nước
anh em, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần giáo
dục các em ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch v.v... Việc
giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số,
các phép tính, các đại lượng v.v... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực,
trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện
chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v..
Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng
lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài
toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực và các em cần phân
biệt cái gì đã cho và cái cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa
cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết
luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt
động trí tuệ có trong việc giải toán giúp phần giáo dục cho các em ý trí vượt
khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét
có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy
nghĩ, óc sáng tạo v.v...
Xuất phát từ vị trí môn toán ở tiểu học nên việc nâng cao hiệu quả của

việc dạy và học môn toán là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Giải bài toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài
toán thông qua những câu văn về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc có
liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời
văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che
đậy bản chất toán học của bài toán. Làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ
các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải
phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Việc dạy - học giải toán có lời văn giúp học sinh biết cách vận dụng
những kiến thức về toán, được luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu
được thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Qua đó học sinh được phát triển tư
duy, rèn luyện phương pháp giải toán hợp và khả năng diễn đạt (phân tích vấn
đề, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói và viết,….)
Chính vì vậy, giải toán có lời văn với học sinh lớp 3 là một yêu cầu cao và
khó. Nó được coi là một tiêu chuẩn cơ bản đánh giá trình độ hiểu biết và năng
lực vận dụng các kiến thức toán học của học sinh lớp 3.
Ngoài ra, qua việc dạy học sinh giải các bài toán lời văn giáo viên còn có
thể : Giúp học sinh từng bước phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp suy
nghĩ và kĩ năng suy luận loogic, khêu gợi và tập dượt khả năng phỏng đoán tìm
tòi.
- Giúp học sinh tập trung vận dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống.
- Rèn luyện cho học sinh những thói quen và đức tính tốt của một người
lao động như: ý trí tự lực vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có
kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng, từng bước hình thành và rèn luyện
thói quen, khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy
móc, rập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi, sáng tạo.
6


2.2. Cơ sở thực tiễn

Toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế. Nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc,
có liên quan đến cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có
lời văn là phải lược bỏ những yếu tố về lời văn đó che đậy bản chất toán học
của bài toán, hay nói cách khác là chỉ ra các mối quan hệ giữa các yếu tố toán
học chứa đựng trong bài toán và nêu ra phép tính thích hợp để từ đó tìm được
đáp số bài toán.
Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: Phần đã cho hay
còn gọi giả thiết của bài toán; Phần phải tìm hay còn gọi kết luận của bài toán.
Ngoài ra, trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải tìm
hay thực chất là mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận
của bài toán 3.
Thực hiện nhiệm vụ năm học, được tiếp cận với học sinh lớp Ba, được tiếp
cận với nội dung chương trình Toán 3, tôi nhận thấy đó là hệ thông kiến thức
liền mạch từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng. Không phải là
những kiến thức đơn lẻ mà còn có các bài toán có lời văn, có kiến thức về số
học, đại số, hình học và các yếu tố đo đại lượng. Trong đó kiến thức giải toán
có lời văn là mạch kiến thức khó nhất đối với HS. Khả năng tư duy lôgic của
các em còn hạn chế, HS chưa học tập một cách củ động, tích cực. Nhiều khi với
một bài toán có lời văn các em có thể đặt phép tính đúng nhưng trả lời chưa
hay, chưa chính xác, hay chưa lí giải được tại sao lại có phép tính như vậy.
Thực tế giảng dạy hiện nay tôi thấy HS thực sự lúng túng khi giải bài toán có
lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề bài để tìm
ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về,
thếu lôgic, ngôn ngữ toán học còn hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu
chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán và giải
toán còn thực hiện một cách máy móc, bắt chước, dập khuôn.
Chính vì vậy, trong quá trình dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên (GV) phải có
phương pháp hướng dẫn HS học toán, giải toán cụ thể để các em dễ nhớ, dễ
hiểu, đặc biệt là phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS trong

mỗi giờ học.
3. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
3.1. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện
Khi áp dụng sáng kiến tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau:
3.1.1. Thận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường; Chuyên môn của nhà
trường.
- Đa số GV hiểu rõ tầm quan trọng của việc dạy học giải toán có lời văn.
- GV nắm được phương pháp và hình thức dạy học giải toán có lời văn.
- Học sinh được học hai buổi/ngày. Đa số học sinh có ý thức học tập tốt.
3.1.2. Khó khăn
Việc dạy của giáo viên:
- Giáo viên phối kết hợp các phương pháp dạy học chưa linh hoạt.
- Bài giảng chưa thực sự thu hút học sinh.
7


- Một số GV chưa , chưa nắm bắt hết ý đồ của sách giáo khoa, chưa nắm
hết kiến thức chuẩn kiến thức, kỹ năng cần cung cấp cho HS, chưa xác định
được kiến thức trọng tâm của tiết học, môn học, mục tiêu cần đạt của nội dung
chương trình, chưa chú trọng nhiều đến cải tiến phương pháp giảng dạy, phù
hợp với HS của lớp mình, xem nhẹ nội dung giải toán có lời văn, chưa thật sự
dành nhiều thời gian nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp, thiếu sự nhiệt tình, ít
quan tâm đến hình thức trình bày bài giải, mới chỉ chú ý đến việc HS tìm ra kết
quả đúng mà chưa chưa làm cho HS hiểu tại sao phải làm như vậy cũng như
chưa có phương pháp chung khi dạy giải toán, dẫn đến học sinh thường viết
câu lời giải và trình bày bài ở vở một cách tùy tiện, cẩu thả. Một số giáo viên
thường máy móc phân tích, hướng dẫn không đúng trọng tâm của bài làm mất
nhiều thời gian học của HS.
Việc học của học sinh:

- Học sinh còn thụ động trong suy nghĩ, thường nôn nóng, đọc qua loa đề
bài, chưa chú ý đến các dữ kiện, dữ liệu của bài toán.
- Khả năng suy luận của học sinh còn hạn chế dẫn đến máy móc, bắt
chước, chỉ giải được các dạng toán có sẵn, khi gặp bài toán ở dạng biến đổi thì
không làm được.
- Kĩ năng tính toán còn thiếu chính xác dẫn đến khi giải toán hay sai kết
quả.
- Một số em chưa biết cách đặt lời giải cho yêu cầu của bài toán, chưa biết
cách trình bày bài toán.
- Một số HS chưa làm chủ kiến thức mà công nhận kiến thức một cách
máy móc, thụ động, áp đặt, vì vậy các em mau chán, dễ quên và không hứng
thú với việc học tập.
- Một số em còn ngại đọc đầu bài nên chưa hiểu rõ các thuật ngữ, cú pháp
của đề toán. Khả năng kiên trì trong giải toán có lời văn chưa cao. Nhiều em
còn chưa nắm vững bài toán, còn nhầm lẫn các yếu tố của bài toán như cái đã
cho và cái cần tìm. Sau khi tóm tắt bài toán minh họa sơ đồ, hình vẽ đoạn thẳng
HS còn bỏ sót các dữ liệu đề bài hoặc bỏ sót câu hỏi của bài toán trên sơ đồ
tóm tắt, chưa biết tóm tắt bài toán một cách hợp lí. Phân tích bài toán, xác định
những kiến thức tổng hợp cần vận dụng để giải bài toán còn lúng túng, còn máy
móc, thiếu linh hoạt. Vận dụng các công thức tính ngược còn yếu. Khả năng
suy luận chưa tốt. Tư duy tìm lời giải còn kém, chưa chính xác với nội dung
của bài toán; còn sai sót khi thực hành các kĩ năng tính toán để tìm đáp số; sai
do hiểu lầm, hiểu sai các tình huống thực tế.
Trong quá trình giải các em không phân tích, không tìm hiểu kỹ đề bài mà
đã vội viết ngay câu lời giải và phép tính nên dẫn tới lời giải hay sai, thực hiện
phép tính cũng không chính xác, còn nhầm lẫn giữa phép cộng, phép trừ, phép
nhân và chia, sai tên đơn vị, còn hay dập xóa dẫn đến chất lượng bài làm chưa
cao.
3.2. Khảo sát thực trạng
Với tinh thần đổi mới cách đánh giá HS theo nội dung Thông tư 30/2014,

không chấm điểm bằng điểm số, không xếp loại tốt, khá, trung bình, yếu mà chỉ
nhận xét bằng lời. Thực hiện theo tinh thần ấy nên tôi khảo sát bài làm của 30
8


HS lớp 3D là lớp sẽ chọn áp dụng các giải pháp của sáng kiến, cho kết quả như
sau:

Bài làm
Bài làm
Sai phép tính Sai cả phép
Lớp
số
đúng, trình đúng, sai tên hoặc sai câu
tính và câu
bày sạch
đơn vị
lời giải
lời giải
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
3D
30
11

36,7
7
23,3
8
26,7
4
13,3
Chỉ có 11 em bài làm đúng, trình bày sạch viết chữ đẹp, 7 em bài làm
đúng câu trả lời, đúng phép tính nhưng lại sai tên đơn vị, viết chữ chưa đẹp, 8
em viết sai 1 phép tính hoặc sai 1 câu lời giải. Đặc biệt 4 em chữ viết xấu, sai
cả phép tính và câu lời giải, trình bày bẩn, dập xóa.
Xuất phát từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng trên, là một GV
trực tiếp giảng dạy lớp 3, để tham gia tích cực, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
việc nâng cao chất lượng giáo dục đặc biệt là chất lượng môn toán của lớp, của
trường khiến tôi đi sâu vào nghiên cứu việc nâng cao chất lượng giải toán có lời
văn bằng nhiều biện pháp tích cực, phương pháp cụ thể sao cho phù hợp với
tâm sinh lí HS, góp phần đưa chất lượng học môn Toán của HS tốt hơn. Từ đó
giúp các em tư duy tốt hơn, tạo điều kiện học các mạch kiến thức khác tốt hơn.
4. Các giải pháp thực hiện
4.1. Giải pháp thứ nhất: GV tìm hiểu, nắm chắc nội dung, chương
trình, mục tiêu, yêu cầu của môn Toán đối với cấp Tiểu học và đối với lớp
mình dạy nói riêng.
4.1.1.Tìm hiểu nắm rõ mục tiêu môn Toán ở cấp Tiểu học
Mục tiêu môn Toán ở cấp Tiểu học nhằm giúp HS:
Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số
thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn
giản.
- Hình thành cá kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải toán có nhiều ứng
dụng thiết thực trong đời sống.
- Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn

đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và giải quyết các vấn đề đơn giản, gần
gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; chăm học và hứng thú học tập
toán; hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa
học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
4.1.2. Mục tiêu dạy học môn toán lớp 3
Môn Toán lớp 3, giúp HS:
- Biết đếm các số trong phạm vi 100 000.
- Biết đọc, viết, so sánh và sắp xếp các số các số trong phạm vi 100 000
theo thứ tự từ bé đến lớn hoặc ngược lại.
- Biết thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia trong phạm vi 100 000;
- Biết tính giá trị biểu thức số (có hoặc không có dấu ngoặc);
- Biết tìm một thành phần chưa biết của phép tính;
9


- Biết tìm một trong các phần bằng nhau của một số (trong phạm vi các
phép chia đơn giản đã học);
- Biết đo và ước lượng các đại lượng: độ dài, khối lượng, thời gian, tiền
Việt Nam thường gặp trong cuộc sống hàng ngày;
- Biết đọc, viết, so sánh các đơn vị đại lượng đã học; mối quan hệ giữa các
đơn vị cùng đại lượng; biết chuyển đổi các đơn vị đo;
- Biết sử dụng lịch và đồng hồ khi đo thời gian, nhận biết bước đầu về thời
điểm và khoảng thời gian; biết sử dụng tiền Việt Nam trong sinh hoạt hàng
ngày….
- Có hiểu biết ban đầu về diện tích của một hình và đơn vị đo diện tích
(cm2);
- Biết thêm về hình chữ nhật và hình vuông: nhận biết các yếu tố của một
hình (góc, cạnh, đỉnh) và đặc điểm của hình chữ nhật, hình vuông. Biết tính chu
vi và diện tích của hình chữ nhật và hìmh vuông;
- Bước đầu vận dụng các kiến thức, kĩ năng của môn Toán để giải quyết

các vấn đề đơn giản thường gặp;
- Giải bài toán có lời văn (có không quá hai bước tính);
- Thực hành xác định góc vuông và góc không vuông bằng ê ke. Thực
hành vẽ góc vuông, góc không vuông, vẽ hình chữ nhật và hình vuông;
Tiếp tục giúp HS:
- Phát triển năng lực tư duy (so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hoá, khái quát hoá);
- Phát triển trí tưởng tượng không gian, tập nhận xét các số liệu thu thập
được.
- Diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, đúng các thông tin.
- Tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành toán.
4.1.3. Tìm hiểu, nắm nội dung chương trình môn Toán lớp 3
Chương trình môn Toán lớp 3 là một bộ phận của chương trình môn Toán
ở Tiểu học. Chương trình này tiếp tục thực hiện những đổi mới về giáo dục
Toán học ở lớp 1 và 2; góp phần thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, nhằm đáp ứng những yêu cầu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Sách giáo khoa Toán 3 được biên soạn theo tinh thần đổi mới, làm rõ quá
trình hình thành kiến thức, có tác dụng định hướng về cách dạy cho giáo viên.
Sách giáo khoa trình bày theo hướng mở, không thông báo tường minh
kiến thức tạo cơ hội để học sinh suy nghĩ tìm tòi. Hệ thống bài tập đa dạng phát
huy được khả năng sáng tạo của học sinh. Như vậy sách giáo khoa Toán 3 có ý
nghĩa như một đồ dùng dạy - học quan trọng của HS, GV. Biết sử dụng khai
10


thác tác dụng của sách giáo khoa Toán 3 trong dạy – học toán sẽ đem lại hiệu
quả cao.
Chương trình nội dung toán lớp 3 gồm có 5 mạch kiến thức:
- Số học

- Đại lượng và đo đại lượng
- Yếu tố hình học
- Yếu tố thống kê
- Giải bài toán có lời văn
Trong năm mạch kiến thức thì các bài toán lời văn đươc sắp xếp xen kẽ
với các mạch kiến thức khác.
Nội dung chủ yếu dạy học giải toán có lời văn trong Toán 3 bao gồm:
- So sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị;
- Bài toán liên quan đến rút về đơn vị;
- So sánh số lớn gấp mấy lần số bé;
- Tìm một trong các phần bằng nhau của một số;
- Gấp một số lên nhiều lần;
- Giảm đi một số lần;
- So sánh số bé bằng một phần mấy số lớn;
- Giải bài toán bằng hai phép tính;
- Giải bài toán có nội dung hình học (tính chu vi, diện tích hình chữ nhật,
hình vuông).
Kế thừa bài toán có lời văn ở lớp 1, 2; mở rộng, phát triển nội dung giải
toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của HS lớp 3.
Đặc biệt là các bài toán giải bằng hai phép tính là dạng toán lời văn mới
đối với học sinh.
Dạng bài giải toán hợp lớp 3 được sắp xếp theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn “chuẩn bị học sinh bước vào giải toán hợp”, học
sinh được làm quen với các “tình huống” của bài toán có hai câu hỏi a và b.
Giai đoạn 2: Giai đoạn “chính thức học giải toán hợp”. Giai đoạn này học
sinh biết thế nào là bài toán hợp (cấu tạo của bài toán gồm hai phần: giả thiết
(bài toán cho biết gì) và kết luận (bài toán hỏi gì), muốn đạt được yêu cầu của
bài toán thì các em phải tự đi tìm cái mà bài toán không yêu cầu tìm ở phần kết
luận đây là một bước giải mới đối với học sinh lớp 3.
4.2. Giải pháp thứ hai: GV nắm vững quy trình giải bài toán có lời

văn
Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau:
Bước 1: Đọc và phân tích đề bài: Trước hết cần đọc cẩn thận đề toán, suy
nghĩ về ý nghĩa bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán.
Chớ vội tính toán khi chưa đọc kỹ đề toán.
Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa các đã cho và cái cần tìm
Diễn đạt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán,
hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ.
Bước 3: Lập kế hoạch giải toán
11


HS phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán phải thực hiện phép
tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì, có
thể làm tính gì, phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không?
Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán.
Bước 4: Trình bày bài giải
Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực
hiện phép tính cần kiểm tra đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có
dựa trên cơ sở đúng đắn không?
Bước 5: Kiểm tra
Giải xong bài toán, cần thử lại xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu
hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? Trong một
số trường hợp, GV nên khuyến khích HS năng khiếu tìm cách giải khác ngắn
gọn và hay hơn.
4.3. Giải pháp thứ ba: Ôn tập, hệ thống lại kiến thức giải toán có lời
văn đã học
Hệ thống lại kiến thức ở lớp 1:
Hệ thống lại kiến thức đã học ở lớp 1, 2 là tối cần thiết. Ở lớp 1, các em đã
học các bài toán đơn giản, giải bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính

trừ, chủ yếu là các bài toán thêm bớt một số đơn vị. Loại toán này đơn giản
nhưng cũng phải củng cố cho các em nắm vững thì mới làm được các bài toán
lớp trên.
Ví dụ 1:
Nhà Hà có 6 con gà, mẹ mua thêm 3 con gà. Hỏi nhà Hà có mấy con gà?
Ví dụ 2: Đàn vịt có 4 con ở trên bờ và 5 con ở dưới ao. Hỏi đàn vịt có bao
nhiêu con?
Ví dụ 3: Lớp 1A có 36 bạn, trong đó có 16 bạn nam. Hỏi lớp 1A có bao
nhiêu học sinh nữ?
Ví dụ 4: Nhà Hùng có 8 con gà, mẹ đem bán 5 con gà. Hỏi nhà Hùng còn
mấy con gà?
Đây là những bài toán có dữ kiện cụ thể. Các em cần suy nghĩ làm tính
cộng hay tính trừ là đúng và chú ý dựa vào câu hỏi mà trả lời cho đúng.
Hệ thống lại kiến thức ở lớp 2:
Ở lớp Hai các em được ôn lại các dạng toán lớp Một và luyện thêm các
dạng toán mới. Giải các bài toán bằng một phép tính cộng hoặc trừ hoặc nhân
hoặc chia (trong đó có các bài toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị; bài toán
nhân, chia).
Ví dụ 1: Thùng to đựng 72lít dầu. Thùng bé đựng được ít hơn thùng to 17
lít dầu. Hỏi thùng bé đựng được bao nhiêu lít dầu?
Ví dụ 2: Chị hái được 18 quả hồng. Mẹ hái được nhiều hơn chị 12 quả
hồng. Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả hồng?
Ví dụ 3: Có 45 kg gạo chia đều vào 5 túi. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu ki- lô gam gạo?
12


Ví dụ 4: Người ta trồng 40 cây chuối thành các hàng bằng nhau, mỗi hàng
có 5 cây. Hỏi trồng được bao nhiêu hàng như thế?
Ví dụ 5: Mỗi đĩa đựng 3 quả cam. Hỏi 9 đĩa như thế đựng được bao nhiêu
quả cam?

Đây là các bài toán cũng có dữ kiện cụ thể. GV hướng dẫn cho HS nhận
xét dữ kiện, tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải, suy nghĩ làm tính cộng hay tính
trừ hay tính nhân hay tính chia là đúng và chú ý dựa vào câu hỏi mà trả lời cho
đúng.
Bằng cách hệ thống hóa kiến thức đã học ở lớp 1, lớp 2, GV đã giúp cho
HS nắm chắc kiến thức các dạng toán đã học, từ đó các em sẽ học tốt kiến thức
toán lớp 3. Với cách làm này, học sinh mạnh dạn tự tin vào bản thân, dần ham
thích giải toán, để thể hiện khả năng của chính mình.
Vai trò của người GV rất quan trọng. Khi các em phát biểu tìm ra đường
lối giải bài toán, dù đúng hay sai, giáo viên cần phải có lời động viên hợp lí.
Nếu học sinh phát biểu sai hoặc chưa đúng, GV cần động viên khuyến khích
các em bằng các câu nhẹ nhàng, giúp các em cố gắng suy nghĩ làm bằng được,
khích lệ các em để các em không bỏ cuộc, chứ không nên nói “sai rồi, không
đúng...” gây mất hứng thú học tập của HS, làm cho các em tự ti, chán học.
4.4. Giải pháp thứ tư: Phát hiện lỗi sai của HS để đưa ra biện pháp
sửa phù hợp
Mặc dù tôi đã hướng dẫn rất kĩ các bước khi giải một bài toán hợp theo
các bước sau:
Bước 1: Tóm tắt bài toán.
Bước 2: Tìm lời giải cho bài toán.
Bước 3: Trình bày bài giải.
Bước 4: Viết đáp số.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy khi bước vào dạng toán hợp, học sinh còn
bỡ ngỡ khi trình bày bài giải hoàn chỉnh. Khi thực hiện một bài giải thì rất
nhiều em viết sai câu lời giải ở bước giải thứ nhất. Bởi vì giai đoạn này năng
lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn rất
kém, việc vận dụng tổng hợp kiến thức còn hạn chế. Đặc biệt ở lứa tuổi này
các em còn chủ quan, cho rằng chỉ cần tìm ra đáp số đúng là được, không chú
ý đến việc viết câu lời giải thế nào cho hợp lí.
Tất cả các lỗi trên do các em chưa đọc kĩ đầu bài, chưa hiểu rõ nội dung

bài toán, chưa tìm ra bài toán cần tìm gì?, một số em khả năng diễn đạt còn
hạn chế. Mặt khác, có một số học sinh trả lời miệng thì đúng nhưng khi viết lại
lúng túng và diễn đạt sai.
Thực tế cho thấy khi dạy mảng kiến thức này, giáo viên các lớp chưa thật
sự đi sâu vào phương pháp tìm lời giải, mỗi cô lại hướng dẫn trình bày một
kiểu, một cách khác nhau, dẫn đến sự bất hợp lí. Qua quá trình giảng dạy, tôi
thấy học sinh thường mắc một số lỗi như sau:
- Lỗi viết câu lời giải chưa đúng ở bước giải thứ nhất:
Ví dụ 1 (bài 3- trang 50): Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao gạo
5 kg. Hỏi cả hai bao có tất cả bao nhiêu ki- lô- gam gạo và ngô?
13


Với bài toán trên, có một số học sinh viết câu trả lời ở bước giải thứ nhất
như sau:
- Bao ngô nặng hơn bao gạo số ki – lô –gam là:
- Cả hai bao đựng số ki- lô- gam là:
Ví dụ 2 (bài 2 – trang 119): Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài
1215m, đội đã sửa được

1
quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải sửa
3

bao nhiêu mét đường nữa?
Với bài toán trên, một số học sinh viết câu lời giải ở bước giải thứ nhất
như sau:
-

1

quãng đường đã sửa là:
3

- Còn lại quãng đường của đội công nhân là:
Ví dụ 3 (bài 4 – trang 103): Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l dầu,
buổi chiều bán được gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được bao
nhiêu lít dầu?
Với bài toán trên, có một số học sinh viết câu trả lời ở bước giải thứ nhất
như sau:
- Số lít dầu buổi chiều bán gấp 2 lần ở buổi sáng là:
- Số lít dầu bán ở cả hai buổi là:
Ví dụ 4 (bài 4 – trang 120): Một sân vân động hình chữ nhật có chiều
rộng là 95m và chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi sân vận động đó?
Với bài toán này, có một số học sinh viết câu lời giải ở bước tính thứ nhất
như sau:
- Chiều dài gấp ba lần chiều rộng số m là:
- Chu vi sân vận động dài số m là:
Ví dụ 5 (bài 2-trang 129): Muốn lát nền 6 phòng như nhau cần 2550 viên
gạch. Hỏi muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch?
Với bài toán này, một số học sinh viết câu lời giải ở bước tính thứ nhất
như sau:
- Số viên gạch xếp đều như nhau là:
- Số viên gạch xếp đều trong 7 căn phòng là:
Tất cả các lỗi trên là do các em chưa đọc kĩ nội dung bài toán, chưa hiểu
rõ bước giải thứ nhất, một số em khả năng diễn đạt còn hạn chế.
- Lỗi về viết phép tính
Ví dụ 3: Một số học sinh viết phép tính ở bước giải thứ nhất như sau:
2 x 432= 864 (l)
432 x 2 = 864 (dầu)
Ví dụ 4: Một số học sinh viết phép tính ở bước giải thứ nhất như sau

3 × 95 = 285 (m)
Ví dụ 5: Một số học sinh viết phép tính ở bước giải thứ nhất như sau:
550 : 6 = 425 (gạch)
2550 : 6 = 425 (phòng)
4.5. Giải pháp tứ năm: Hướng dẫn HS giải các bài toán có lời văn lớp
3 theo bài bản để khắc phục những lỗi sai
14


4.5.1. Lựa chọn cách trình bày tóm tắt hợp lý
Như chúng ta đã biết, phần tóm tắt bài toán không phải là một thành phần
trong khâu trình bày bài giải, nhưng là phần quan trọng giúp học sinh có cái
nhìn tổng thể về toàn bộ nội dung bài toán, từ đó tìm được mối liên hệ cần thiết
giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua đó, giúp các em biết lựa chọn phép tính
thích hợp. Đối với lớp 3 (cũng như đối với học sinh tiểu học nói chung), sử
dụng sơ đồ đoạn thẳng để tóm tắt là hợp lí nhất. Sơ đồ đoạn thẳng không những
giúp các em có một cái nhìn khái quát về bài toán mà còn giúp các em nhận ra
cái đã biết, cái phải tìm và mối liên hệ giữa chúng. Trong những trường hợp
không thể sử dụng được sơ đồ đoạn thẳng thì ta mới nên dùng quy ước bằng lời
để tóm tắt.
Một điều giáo viên cần ghi nhớ là để học sinh làm tốt các bài toán hợp thì
giáo viên cần hướng dẫn học sinh rèn luyện tốt kĩ năng giải các bài toán đơn.
Vì vậy, việc rèn cho học sinh thuần thục khâu tóm tắt các bài toán đơn (chủ yếu
bằng sơ đồ đoạn thẳng) là không thể thiếu. Việc thuần thục khâu tóm tắt bài
toán đơn không những giúp học sinh nhanh chóng tìm ra lời giải, mà nó còn là
cơ sở giúp học sinh có kĩ năng tóm tắt và giải các bài toán hợp.
Các ví dụ minh họa:
Bài toán 1 (bài 3- trang 50): Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao
gạo 5 kg. Hỏi cả hai bao có tất cả bao nhiêu ki- lô- gam?
Học sinh đọc thầm và trả lời câu hỏi

Bài toán cho biết gì? (Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 15
kg)
Bài toán hỏi hỏi gì? (Cả hai bao đựng bao nhiêu kg)
Tôi hướng dẫn học sinh tự tóm tắt như sau:
Tóm tắt:
27kg
Bao gạo:
5kg
?kg
Bao ngô:
Bài toán 2 (bài 2 – trang 119): Một đội công nhân phải sửa quãng đường
dài 1215m, đội đã sửa được

1
quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải
3

sửa bao nhiêu mét đường nữa?
Học sinh đọc thầm và trả lời câu hỏi:
- Bài toán cho biết gì? (Đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m,
đã sửa được

1
quãng đường)
3

- Bài toán hỏi gì? (còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa?)
Tôi hướng dẫn học sinh tự tóm tắt như sau:
Tóm tắt:
Phải sửa: 1215m.

Đã sửa :

1
quãng đường.
3

15


Còn : …..m?
Hoặc tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:
1215m
Đã sửa
?m
Bài toán 3 (bài 4 – trang 103): Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l
dầu, buổi chiều bán được gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được
bao nhiêu lít dầu?
Học sinh đọc thầm và trả lời câu hỏi:
- Bài toán cho biết gì? (buổi sáng bán được 432l dầu, buổi chiều bán được
gấp đôi buổi sáng)
- Bài toán hỏi gì? (Cả hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu?)
Từ đó tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán như sau:
Tóm tắt:
432 l dầu
Buổi sáng
? lít dầu
Buổi chiều:
Bài toán 4: Một sân vân động hình chữ nhật có chiều rộng là 95m và
chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi sân vận động đó?
Học sinh đọc thầm và trả lời các câu hỏi:

- Bài toán cho biết gì? (sân vận động hình chữ nhật, có chiều rộng 95m,
chiều dài gấp 3 lần chiều rộng)
- Bài toán hỏi gì? (Tính chu vi sân vận động)
Từ đó hướng dẫn học sinh viết tóm tắt:
Tóm tắt
Chiều rộng
: 95m.
Chiều dài gấp : 3 lần.
Chu vi
: ….. mét?
Bài toán 5 (bài 2-trang 129): Muốn lát 6 nền phòng như nhau cần 2550
viên gạch. Hỏi muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch?
Học sinh đọc thầm và trả lời các câu hỏi:
Bài toán cho biết gì? (lát 6 nền phòng như nhau cần 2550 viên gạch)
Bài toán hỏi gì? (lát nền 7 căn phòng cần bao nhiêu viên gạch)
Từ đó hướng dẫn học sinh viết tóm tắt
Tóm tắt:
6 phòng : 2550 viên gạch
7 phòng : …… viên gạch?
Lưu ý: Khi hướng dẫn HS vẽ sơ đồ, GV cần lưu ý các em dóng thẳng các
vị trí đầu mút có giá trị so sánh. Với các bài toán dạng chia phần hoặc gấp,
giảm, các đoạn thẳng tỉ lệ được chia đều trên sơ đồ cần đảm bảo tính chính xác
tuyệt đối (sử dụng thước có chia vạch cm hoặc dòng kẻ ô li). Còn những bài
16


toán dạng hơn, kém (hoặc nhiều hơn, ít hơn) thì các phần được chia ra chỉ
mang tính ước lệ song cũng phải đảm bảo được sự chính xác tương đối (ước
lượng bằng mắt).
Khi hướng dẫn HS đặc biệt quan tâm đến HS trung bình và yếu để kịp thời

giúp đỡ các em.
4.5.2. Hướng dẫn HS viết câu lời giải (Câu trả lời):
Ở lớp Ba, các bài toán hợp chỉ dừng lại ở 2 bước tính. Vấn đề mấu chốt
khi dạy HS giải các bài toán này nằm ở chính đặc điểm của dạng toán. Đó là
làm sao cho HS nhận biết được đó là một bài toán hợp (bài toán phải giải bằng
2 phép tính). Thực tế cho thấy, rất nhiều HS sau khi đọc xong một đề toán hợp,
không biết rằng bài toán cần phải giải bằng 2 bước tính. Thế là tóm luôn câu
hỏi để đặt câu trả lời, để rồi chẳng biết phải chọn phép tính nào cho đúng. Để
giúp HS tránh được sai sót này, giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi
để giúp HS đi tìm lời giải của bài toán. Đây chính là quá trình phân tích bài
toán để tìm câu trả lời. Nói chính xác là để tìm đúng thứ tự của 2 bước tính.
Quá trình phân tích bài toán hai phép tính ta tách một bài toán hợp (mà HS
chưa giải được) thành 2 bài toán đơn (loại toán mà HS quá quen thuộc). Điều
này sẽ giúp HS dễ dàng giải chính xác bài toán.
Quá trình phân tích bài toán để tìm lời giải phải theo kiểu đi ngược từ câu
hỏi đến cái đã cho. Nhưng trong thực tế, rất nhiều giáo viên đều có chung
phương pháp là hướng dẫn học sinh đi xuôi từ cái đã cho đến câu hỏi.
Ví dụ:
Bài toán 1 (bài 3- trang 50): Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao
gạo 5 kg. Hỏi cả hai bao có tất cả bao nhiêu ki- lô- gam gạo và ngô?
GV thường hướng dẫn học sinh giải từng bước như sau:
- Bài toán cho biết gì ? (Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5
kg)
Vậy muốn biết ngô nặng bao nhiêu ki – lô- gam em làm thế nào?
Lấy 27 + 5 = 32 (kg)
Bây giờ đã biết bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng 32kg. Vậy muốn biết cả
hai bao nặng bao nhiêu ki – lô - gam, em làm thế nào ?
Lấy 27 + 32 = 59 (kg)
Thực tế, cách trên rất dễ thực hiện, nó vừa làm cho bài giảng trở nên nhẹ
nhàng, lại vừa làm cho HS đỡ mệt óc vì không phải động não nhiều. Đó chính

là cách giải bài toán theo lối tổng hợp. Ở đây, bám theo lời văn của đề bài, ta
lần lượt giải 2 bài toán đơn:
Bài toán 1: .. Tìm số kg ngô.
Bài toán 2: ..Tìm số kg ở cả hai bao.
Kết hợp (tổng hợp) lại ta có cách giải bài toán đã cho. Song cách làm này
không đặc trưng cho phương pháp tìm cách giải của các bài toán trong toán học
và trong thực tế. Do đó, nó không giúp học sinh nắm được đường lối chung để
giải các bài toán, không giúp HS giải được các bài toán khó hơn trong toán học
và trong cuộc sống sau này. Tuy vậy, phương pháp này lại có thể áp dụng hữu
hiệu cho những HS yếu kém, bởi ở những HS này, kĩ năng phân tích và tổng
hợp rất hạn chế, cần dẫn dắt từng bước nhỏ thì các em mới hiểu ra vấn đề. Vì
17


vậy, GV cần có sự điều chỉnh trong cách dạy và nên nhớ chỉ nên dùng một cách
rất hạn chế phương pháp trên.
Vậy để giúp HS tìm ra lời giải của bài toán, GV cần hướng dẫn HS suy
nghĩ đi từ câu hỏi của bài toán đến những cái đã cho. Cách phân tích bài toán
như vậy có làm cho HS hơi mệt óc vì phải động não, song đổi lại, các em sẽ trở
nên thông minh hơn, đầu óc sẽ dần dần tinh tế hơn. Vì vậy, nên sử dụng cách
đó thường xuyên. Đặc biệt, với những đối tượng HS khá, giỏi thì đây là phương
pháp hữu hiệu nhất. Với những phương pháp này thì bài toán 1 (Tr50 – Toán 3)
(đã nêu ở trên) ta có thể hướng dẫn học sinh suy nghĩ như sau:
- Bài toán đã cho biết gì ? ((Bao gạo nặng 27kg, bao ngô nặng hơn bao
gạo 5 kg)
- Bài toán hỏi gì ? (Cả hai bao đựng bao nhiêu kg?)
Đây là 2 câu hỏi giúp HS nắm rõ đâu là điều kiện của bài toán (cái đã
biết), đâu là câu hỏi của bài toán (cái cần tìm) nên GV cần cho vài HS nhắc lại
để các em nắm chắc nội dung cũng như yêu cầu của đề).
- Muốn biết cả hai bao nặng bao nhiêu ki – lô - gam em làm thế nào?

(Lấy số ki – lô - gam ở bao gạo cộng với số li – lô - kam ở bao ngô)
- Số kg ở bao gạo đã biết chưa ? ( Biết rồi: 27kg)
Số kg ngô biết chưa ? (Chưa)
- Vậy muốn biết số kg ở bao ngô em làm thế nào?
(Lấy số kg ở bao gạo cộng với 5)
Vậy để giải bài toán này, trước hết ta phải đi tìm cái gì?
(Trước hết ta phải tìm số kg ngô ở bao ngô)
- Em đạt câu lời giải cho bước tính thứ nhất: (Bao ngô nặng số ki – lô –
gam là:)
- Còn câu lời giải ở bước tính thứ hai, các em chỉ cần dựa vào câu hỏi của
bài toán để viết câu lời giải: (Cả hai bao gạo và ngô nặng số ki – lô – gam là:)
- Quá trình suy nghĩ trên không những giúp HS tách được bài toán đã cho
thành hai bài toán đơn (loại toán các em đã quá quen thuộc) mà còn giúp các
em biết cần phải suy nghĩ từ đâu và thứ tự thực hiện các bước như thế nào.
Bài toán 2: (trang 119- Toán 3): Một đội công nhân phải sửa quãng
đường dài 1215m, đội đã sửa được

1
quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn
3

phải sửa bao nhiêu mét đường nữa?
Hướng dẫn học sinh suy nghĩ như sau:
- Bài toán cho biết gì? (Đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m,
đội đã sửa được

1
quãng đường)
3


- Bài toán hỏi gì? (đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường
nữa)
Muốn biết quãng đường còn phải sửa ta làm thế nào? (Ta lấy quãng
đường phải sửa trừ đi quãng đường đã sửa)
Quãng đường phải sửa biết chưa? (biết rồi: 1215m)
Quãng đường đã sửa biết chưa? (chưa biết)
18


Vậy muốn tìm quãng đường còn phải sửa ta phải biết gì? (tìm số mét
đường đã sửa).
Tìm quãng đường đã sửa ta làm thế nào? ( lấy 1215 chia cho 3)
Đặt câu lời giải cho bước tính thứ nhất:
Số mét đường đội công nhân đã sửa là:
- Còn câu lời giải ở bước tính thứ hai, các em chỉ cần dựa vào câu hỏi của
bài toán để viết câu lời giải: (Quãng đường đội công nhân còn phải sửa là:)
Bài toán 3 (bài 4 – trang 103): Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l
dầu, buổi chiều bán được gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được
bao nhiêu lít dầu?
Hướng dẫn học sinh suy nghĩ như sau:
Bài toán cho biết gì? (buổi sáng bán được 432l dầu, buổi chiều bán được
gấp đôi buổi sáng)
Bài toán hỏi gì? (Cả hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu)
Muốn biết số lít dầu cửa hàng bán trong cả hai buổi ta làm thế nào? (ta lấy
số lít dầu bán được trong buổi sáng cộng với số lít dầu bán được trong buổi
chiều).
Số lít dầu bán trong buổi sáng biết chưa? (biết rồi: 432 l)
Số lít dầu bán trong buổi chiều biết chưa? (chưa biết)
- Khi giải bài toán này, trước hết ta phải tìm cái gì? (Trước hết ta phải tìm
số lít dầu bán trong buổi chiều)

- Vậy muốn biết số lít dầu bán trong buổi chiều ta làm thế nào? (Ta lấy số
lít dầu bán trong buổi sáng nhân với 2)
- Đặt câu lời giải cho bước tính thứ nhất:
(Số lít dầu cửa hàng bán trong buổi chiều là: Hoặc Buổi chiều cửa hàng
bán được số lít dầu là)
- Còn câu lời giải ở bước tính thứ hai, các em chỉ cần dựa vào câu hỏi của
bài toán để viết câu lời giải:
(Số lít dầu cửa hàng bán được trong cả hai buổi là: Hoặc Cả hai buổi cửa
hàng bán được số lít dầu là:)
Bài toán 4: Một sân vân động hình chữ nhật có chiều rộng là 95m và
chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi sân vận động đó?
Hướng dẫn học sinh suy nghĩ như sau:
Bài toán cho biết gì? (sân hình chữ nhật: chiều rộng 95m, chiều dài gấp 3
lần chiều rộng)
Bài toán hỏi gì? (tính chu vi sân vận động đó?)
Muốn tính chu vi sân vận động đó ta làm thế nào? (Ta lấy chiều dài cộng
với chiều rộng rồi nhân với 2)
Chiều rộng biết chưa? (biết rồi: 95m)
Chiều dài biết chưa? (chưa biết)
Khi giải bài toán này, trước hết ta phải tìm cái gì? (tìm chiều dài sân vận
động đó)
Tìm chiều dài sân vận động ta làm thế nào? (ta lấy chiều rộng nhân với 3)
Đặt câu lời giải cho bước tính thứ nhất: (Chiều dài sân vận động là:)
19


Còn câu lời giải ở bước tính thứ hai, các em chỉ cần dựa vào câu hỏi của
bài toán để viết câu lời giải: (Chu vi sân vận động đó là:)
Với HS lớp 3 bước đầu các em làm quen với toán lời văn giải bằng hai
bước tính như vậy, tôi thấy dựa vào cách hướng dẫn như vậy HS mới hiểu và

nắm được cách trả lời ở bước giải thứ nhất được chính xác hơn. Vậy nên đòi
hỏi GV phải hướng dẫn tỉ mỉ như vậy thì các em mới trả lời được.
4.5.3. Hướng dẫn viết phép tính
Sau khi hướng dẫn HS viết lời giải xong thì bước tiếp theo là hướng dẫn
HS viết phép tính. Đó là một bước không kém phần quan trọng, mặc dù các em
đã được học ở lớp 1, 2. Tuy nhiên GV cần cho học sinh nắm chắc đơn vị của
phép tính và bao giờ cũng đặt số mang đơn vị của phép tính đứng trước.
Ví dụ:
Bài toán 3 (bài 4 – trang 103): Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l
dầu, buổi chiều bán được gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được
bao nhiêu lít dầu?
GV cần cho HS xác định đơn vị của phép tính:
Ở bước giải thứ nhất đơn vị của phép tính là gì? (lít)
Vậy khi viết phép tính thì ta viết số có đơn vị là đơn vị của phép tính
đứng trước.
Với bài toán trên phép tính ở bước giải thứ nhất ta viết như sau:
432 × 2 = 864 (l)
Không viết: 2 × 432 = 864 (l)
Hoặc : 432 x 2 = 864 (dầu)
Bài toán 5 (bài 2-trang 129): Muốn lát 6 nền phòng như nhau cần 2550
viên gạch. Hỏi muốn lát nền 7 căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch?
Với bài toán trên đợn vị của phép tính ở bước giải thứ nhất là gì (viên)
Vậy với bài toán trên phép tính ở bước giải thứ nhất ta viết phép tính như
sau:
2550 : 6 = 425 (viên)
Không viết : 2550 : 6 = 425 (gạch)
Trong toán học thì các “thuật ngữ toán học” là rất cần thiết nếu học sinh
nhớ và hiểu được thì sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách nhanh và dễ
dàng nhất. Bên cạnh đó cũng giúp các em nắm chắc từng dạng toán để khi giải
toán các em không bị nhầm lẫn đơn vị.

4.5.4. Trình bày bài giải
Khi đã tìm được cách giải bài toán thì việc cuối cùng cần làm là trình bày
bài giải. Phần trình bày bài giải các bài toán hợp (ở lớp 3) bao gồm 2 câu lời
giải, 2 phép tính và đáp số. Hầu hết các bài toán có lời văn đều có chung một
cấu trúc trình bày bài giải: Sau mỗi câu lời giải là một phép tính tương ứng,
cuối cùng ghi đáp số ở góc bên phải. Giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày
sao cho vừa khoa học, vừa đẹp mắt hay nói cách khác là mang tính thẩm mỹ
cao. Tôi đã hướng dẫn học sinh trình bày như sau:
Chữ “bài giải” viết ở giữa dòng.
Câu trả lời viết cách lề 1 ô (nếu câu trả lời ngắn có thể cách lề 2 hoặc 3 ô
cho cân đối ở giữ dòng), chữ đầu câu viết hoa, cuối câu ghi dấu “:”
20


Phép tính cách lề 2 ô hoặc cân đối ở giữa dòng; chú ý viết đúng khoảng
cách giữa số, dấu phép tính không quá dày hoặc quá thưa; khoảng cách bằng
một con chữ o là vừa đủ.
Đáp số viết dưới dấu bằng của phép tính thứ hai.
GV nhắc nhở, yêu cầu HS trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý
câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt; viết chữ và số phải đẹp.
Ví dụ :
Bài giải
Số viên gạch lát nền mỗi căn phòng là:
2550 : 6 = 425 (viên)
Số viên gạch lát nền 7 căn phòng là:
425 x 7 = 2975 (viên)
Đáp số: 2975 viên gạch.
Ví dụ
Chiều dài sân vận động là:
95 x 3 = 285 (m)

Chu vi sân vận động là:
(285 + 95) x 2 = 760 (m)
Đáp số: 760m
Thường thì câu trả lời đặt trước rồi phép tính viết sau ngay dòng dưới,
tuy nhiên, ở lớp 3 cũng có những bài toán mà câu trả lời lại phải đặt sau phép
tính. Chẳng hạn:
Bài toán: Người ta lắp bánh xe vào ô tô, mỗi ô tô cần phải lắp 4 bánh xe.
Hỏi có 1250 bánh xe thì lắp được nhiều nhất bao nhiêu ô tô như thế và còn thừa
mấy bánh xe? (Bài 2 – Trang 118 – Toán 3).
Với loại bài như thế này, ta có thể trình bày bài giải như sau:
Bài giải
Thực hiện phép chia, ta có:
1250 : 2 = 312 (dư 2)
Vậy 1250 bánh xe lắp được nhiều nhất vào 312 xe và còn thừa 2 bánh xe.
Đáp số: 312 xe; thừa 2 bánh xe
Bài toán: Một lớp học có 33 học sinh, phòng học của lớp đó chỉ có loại
bàn hai chỗ ngồi. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu bàn học như thế? (Bài 2- Trang 71).
Với loại bài như thế này, ta có thể trình bày bài giải như sau:
Bài giải
Thực hiện phép chia, ta có:
33 : 2 = 16 (dư 1)
Số bàn có hai học sinh ngồi là 16 bàn, còn 1 học sinh nữa nên cần có thêm
một bàn nữa.
Vậy số bàn cần có ít nhất là:
16 + 1 = 17 (cái)
Đáp số: 17 cái bàn.
Lưu ý: Việc đặt câu lời giải ở các bài toán đơn cũng như các bài toán hợp
không có gì khó khăn. Tuy nhiên, nếu để ý một chút, ta sẽ thấy nội dung câu lời
21



giải thường có 2 phần: Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi cái cần tìm
biểu thị.
Ví dụ:
Số lít dầu / đựng ở thùng thứ hai:
Cái cần tìm
Phạm vi cái cần tìm biểu thị
Khi hướng dẫn HS đặt câu lời giải, nhiều GV không chú ý đến điều này
nên không có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng HS trả lời theo cảm
tính, lúc thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những trường hợp nội dung
câu trả lời chỉ có một phần (Phần 1) thì mỗi phép tính thường có 2 cách trả lời,
có thể đặt phần 2 lên trước, phần 1 để sau (hoặc ngược lại).
Để có sự nhất quán, GV cần hướng dẫn HS và quy định rõ ràng là đặt
phần 1 (cái cần tìm) lên trước rồi mới đến phần 2 (phạm vi cái cần tìm biểu
thị).
Ví dụ: Nên trả lời:
Số lít dầu đựng ở thùng thứ hai là:
Hoặc:
Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:
Cách trả lời nào cũng đúng, nhưng trả lời theo cách thứ nhất không những
khúc triết, rõ ràng hơn mà còn giúp học sinh ghi đúng ngay tên đơn vị (danh
số) sau khi thực hiện phép tính.
Khi viết câu lời giải, giáo viên cũng cần lưu ý học sinh không được viết tắt
các đơn vị đo lường. (VD: Không được viết “kg” mà phải viết là “ki - lô gam”, không viết “m” mà phải viết là “mét”, không viết “l’’ mà viết “líl”…),
các đơn vị này chỉ viết tắt khi đứng sau một số thực (VD: 5kg, 10m, 124l…).
Bên cạnh việc hướng dẫn HS viết câu lời giải đúng, GV cũng cần lưu ý
hướng dẫn viết tên đơn vị (danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số cho phù
hợp. Các danh số thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như: con gà, cái
thuyền, kg gạo,…Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta chỉ cần ghi đơn
vị chỉ lượng đứng trước là: con, cái, kg,…Nhưng khi ghi đáp số ta cần phải ghi

đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo, l dầu.
4.5.5. Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải
Qua quá trình quan sát HS giải toán, dễ dàng thấy rằng HS thường coi bài
toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi GV hỏi: “Em
có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm
tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen
đối với HS. Cho nên khi dạy giải toán, GV cần hướng dẫn các em thông qua
các bước:
- Đọc lại lời giải.
- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn
diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
- Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
Đối với HS giỏi, GV có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập
phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát
triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của các em.
4.6. Giải pháp thứ sáu: Rèn kỹ năng tính toán chính xác khi giải toán
22


Trong thực tế, nhiều HS tiếp thu, hiểu đề nhanh và biết chọn cách giải
đúng, tuy nhiên lại hay tính toán sai, dẫn đến không đúng đáp số. Vì vậy GV
phải nhắc nhở HS khi làm bài phải luôn tính toán thật cẩn thận, không chủ
quan; phần trình bày phải khoa học, rõ ràng. Nếu là các phép tính cộng, trừ,
nhân, chia nằm trong bảng, phải học thuộc lòng để vận dụng nhanh. Nếu ở
ngoài bảng, các em phải thận trọng đặt phép tính theo cột dọc, làm ngoài giấy
nháp, kiểm tra kết quả rồi mới chép vào vở.
Bên cạnh, đó GV cần rèn luyện kỹ năng tính nhẩm, từ đơn giản đến phức
tạp để giúp các em thực hiện nhanh hơn quá trình giải toán đồng thời trang bị
thêm một số kinh nghiệm trong việc kiểm tra lại kết quả sau khi hoàn thành bài

toán. Điều này sẽ giúp các em hạn chế sai sót trong quá trình làm bài và cũng là
điều kiện để rèn luyện kỹ năng tính toán, tính cách cẩn thận cho học sinh.
Giúp các em ghi nhớ, xác định phép tính khi thực hiện, thông thường
thì:
- Nhiều hơn một số đơn vị: Làm tính cộng
- Ít hơn một số đơn vị: Làm tính trừ
- Gấp một số lên nhiều lần: Làm tính nhân
- Giảm đi một số lần: Làm tính chia
- So sánh số lớn hơn số bé bao nhiêu đơn vị: Làm tính trừ
- So sánh số bé ít hơn số lớn bao nhiêu đơn vị: Làm tính trừ
- So sánh số lớn gấp mấy lần số bé: Làm tính chia
- So sánh số bé bằng một phần mấy số lớn: Làm tính chia như “So sánh số
lớn gấp mấy lần số bé” và thêm một câu kết luận.
Sau khi rèn luỵên một số bài toán cơ bản, để phát triển tư duy của học
sinh, tôi nâng cao hơn một bước bằng cách thông qua bài toán “gốc”có dạng
trên tôi cho học sinh nâng cao tư duy lên một bước với những dữ kiện trên mà
cách giải lại làm ngược lại với phép tính trên.
Đối với các bài toán có nội dung hình học:
Yêu cầu HS trước tiên phải hiểu và thuộc công thức tính chu vi, diện tích
và biết vận dụng vào từng trương hợp, kết hợp với vốn sống, vốn hiểu biết của
mình.
Ví dụ:
Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép
bởi 3 viên gạch như thế?
Muốn tìm được chu vi hình chữ nhật ghép bởi ba viên gạch hình vuông
cạnh 20 cm, ta phải tìm chiều dài, và chiều rộng là bao nhiêu?
Chiều rộng? (Chiều rộng chính là cạnh viên gạch hình vuông)
Chiều dài? (Chiều dài chính là cạnh của 3 cạnh viên gạch hình vuông ghép
lại)
Từ đó ta tìm được chu vi hình chữ nhật.

4.7. Giải pháp thứ bảy: Rèn tư duy sáng tạo cho HS năng khiếu khi
giải toán
Như chúng ta đã biết, biểu hiện của học sinh giỏi toán có khả năng diễn
đạt tốt, có khả năng suy luận có căn cứ, rõ ràng. Tính toán nhanh, chính xác. Có
sự quan sát tinh tế, mau phát hiện ra cách giải quyết vấn đề theo hướng hợp lí
23


hơn, độc đáo hơn. Có khả năng chuyển từ trừu tượng khái quát sang cụ thể và
ngược lại. Chính vì vậy trong khi dạy toán, nhất là khi dạy gải toán có lời văn,
GV phải luôn chú ý phát huy tính sáng tạo của nhóm HS năng khiếu này bằng
cách:
Trên cơ sở chuẩn kiến thức- kĩ năng, nâng yêu cầu bài tập ở mức cao hơn,
mang tính tổng hợp hơn về kiến thức, kĩ năng, tăng nội dung thực hành, giải
quyết các vấn đề gắn với thực tiễn đời sống, tăng cường các bài toán rèn luyện
khả năng diễn đạt và bài toán có nội dung suy luận (tính nhanh, giải bằng nhiều
cách,...)
Tìm cách giải khác hay hơn, ngắn gọn hơn đối với cách giải vừa thực
hiện.
Nâng dần độ khó đối với bài toán có lời văn bằng cách:
Giữ nguyên bài toán mẫu, thay số liệu.
Thay tình huống bài toán bằng tình huống tương tự cùng bản chất về mối
quan hệ.
Cho tình huống mở, HS tự điền dữ liệu và thực hiện.
Cho dữ liệu, HS tự đặt tình huống và thực hiện.
Đa dạng hóa các hình thức và phương pháp dạy học, tăng cường tính chủ
động, độc lập, sáng tạo của HS.
- Luôn lắng nghe các em trình bày ý kiến, khuyến khích HS phát biểu và
xây dựng niềm tin cho HS.
Ví dụ :

Tính chiều dài hình chữ nhật, biết nửa chu vi hình chữ nhật là 60m và
chiều rộng là 20m.
Sau khi hướng dẫn học sinh giải, để những HS có năng khiếu phát huy
khả năng tư duy của mình, GV có thể nâng cao thêm một bước bằng bài toán.
Ví dụ 2: Tính chiều dài hình chữ nhật, biết chu vi hình chữ nhật là 60m và
chiều rộng là10m.
Những HS giỏi sẽ phát hiện ra cần phải tìm nửa chu vi hình chữ nhật trước
rồi tiếp tục giải như bài toán trên.
Ví dụ 3: Một cửa hàng có 26550kg xi măng, cửa hàng đã bán được

1
số xi
3

măng đó. Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu kg xi măng?
GV hướng dẫn giải bài toán theo các đối tượng HS như sau:
Bước 1: Đọc và phân tích đề bài
- GV Gọi 2 HS đọc đề bài, cả lớp đọc thầm
- Bài toán cho biết gì? (có 26550kg xi măng, đã bán

1
số xi măng)
3

- Bài toán hỏi gì? (Cửa hàng còn lại bao nhiêu kg xi măng)
Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm
- Tóm tắt nội dung bài toán (2 HS tóm tắt nội dung bài
- Bán được

1

số xi măng nghĩa là thế nào? (số xi măng được chia làm 3
3

phần thì đã bán được một phần)
24


Ta tóm tắt thế nào? (tùy theo trình độ HS có thể tóm tắt bằng lời hoặc
bằng sơ đồ đoạn thẳng)
Có: 26550kg xi măng
Đã bán:

1
số xi măng
3

Còn lại: ....kg xi măng?
Hoặc HS năng khiếu có thể tóm tắt như sau:
26550kg

?kg
Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán
- Muốn biết cửa hàng còn lại bao nhiêu kg xi măng ta phải biết gì?
(Ta phải biết số xi măng đã bán)
- Quan sát tóm tắt, nêu cách tìm

1
số xi măng đã bán?
3


26550 : 3= 8850 (kg)
- Muốn tìm số xi măng còn lại ta làm thế nào? (Lấy số xi măng có ban đầu
trừ đi số xi măng đã bán).
Đối với đối tượng HS năng khiếu GV cần hướng dẫn HS quan sát sơ đồ,
lập luận được số xi măng còn lại gấp 2 lần số xi măng đã bán. Vậy khi tìm số xi
măng còn lại ta chỉ lấy số xi măng đã bán nhân với (3-1)
Lưu ý diễn đạt câu lời giải bằng nhiều cách khác nhau.
Khuyến khích HS khá giỏi làm gộp các phép tính.
Bước 4: HS trình bày bài giải
Cách 1:
Cửa hàng đã bán số ki- lô -gam xi măng là:
26550 : 3= 8850 (kg)
Cửa hàng còn lại số ki- lô -gam xi măng là:
26550 – 8850 = 17700 (kg)
Đáp số: 17700kg xi măng
Cách 2 (HS năng khiếu):
Cửa hàng đã bán số ki- lô -gam xi măng là:
26550 : 3= 8850 (kg)
Cửa hàng còn lại số ki- lô -gam xi măng là:
8850 x (3 – 1) = 17700 (kg)
Đáp số: 17700kg xi măng
Bước 5: Kiểm tra
Kiểm tra lại bài giải xem đã đúng với câu hỏi của bài toán chưa, kết qủa
có đúng chưa, đơn vị có đúng không?
Có thể cho HS nêu thêm các cách viết câu lời giải khác nhau.
25


×