Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TỔNG QUAN DU LỊCH 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 12 trang )

Trường Cao Đẳng Nghề Du Lịch Sài Gòn.
~Khoa Lữ Hành~

TỔNG QUAN DU LỊCH- KHÁCH SẠN.
Bài Thực Hành 01.

Giảng Viên: Hoàng Quốc Việt.
Sinh viên: Trịnh Thị Thuỳ Dung.
Lớp: CĐLH07N02.

Tháng 10/2014.


DI SẢN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM.
Hiện nay Việt Nam có 21 di sản Thế giới được UNESCO công nhận. Bao gồm:
DI SẢN THIÊN NHIÊN.
1. Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh).
Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) được UNESCO
liên tiếp công nhận vào năm 1994 với tiêu chuẩn giá
trị ngoại hạng về mặt thẩm mĩ, và năm 2000 theo tiêu
chuẩn về giá trị địa chất, địa mạo.

2. Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng (Quảng Bình).
Năm 2003, vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
(Quảng Bình) được UNESCO công nhận là di sản thiên
nhiên thế giới theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất, địa mạo.

DI SẢN VĂN HOÁ
3. Quần thể di tích Cố Đô Huế. (Thừa Thiên
Huế).
UNESCO đã vinh danh quần thể di


tích Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới, một
điển hình nổi bật của kinh đô phong kiến
phương Đông vào năm 1993.

4. Đô thị cổ Hội An. (Quảng Nam).
Được UNESCO công nhận năm 1999,
phố Cổ Hội An là sự kết hợp các nền văn hóa
qua các thời kỳ tại một thương cảng quốc tế và
Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị
châu Á truyền thống được bảo tồn một cách
hoàn hảo.


5. Thánh địa Mỹ Sơn. (Quảng Nam).
Là bằng chứng duy nhất của một
nền văn mình châu Á đã biến mất, thánh địa
Mỹ Sơn được UNESCO chính thức vinh
danh năm 1999.

6. Hoàng thành Thăng Long. (Hà Nội).
Khu quần thể kiến trúc đỉnh cao, mang
nhiều giá trị nhân văn này được chính thức nằm
trong danh sách Di sản văn hóa thế giới năm
2010.

7. Thành nhà Hồ. (Thanh Hoá).
Ngày 27/6/2011, UNESCO đã đưa di
tích Thành nhà Hồ (Thanh Hóa) vào danh
mục di sản văn hóa Thế giới. “Kỹ thuật xây
dựng các bức tường thành bằng đá lớn, kỳ vĩ,

đặc sắc chỉ có ở thành nhà Hồ. Đây được xem
như một hiện tượng đột biến vô tiền khoáng
hậu trong lịch sử xây dựng kiến trúc thành
quách tại Việt Nam và trong khu vực”.

DI SẢN VĂN HOÁ PHI VẬT THỂ.
8. Nhã nhạc cung đình Huế. (Thừa Thiên-Huế).
Năm 2003, nhã nhạc cung đình Huế,
còn gọi là Âm nhạc cung đình Việt Nam, được
UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản truyền
khẩu và phi vật thể của nhân loại. Đây là một
loại hình âm nhạc mang tính bác học của các
triều đại quân chủ trong xã hội Việt Nam suốt
hơn 10 thế kỷ, nhằm tạo sự trang trọng cho các
cuộc tế, lễ của cung đình như Tế Giao, Tế miếu,
Lễ Đại triều, Thường triều...


9. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Di sản này được UNESCO công nhận là
Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại
vào ngày 15/11/2005.

10. Dân ca quan họ. (Bắc Ninh).
Quan họ Kinh Bắc được Hội đồng chuyên
môn của UNESCO đánh giá cao về giá trị văn hóa,
đặc biệt về tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn,
kỹ thuật hát, phong cách ứng xử văn hóa, bài bản,
ngôn từ, trang phục, và được chính thức công nhận
năm 2009.


11. Ca trù. (miền Bắc Việt Nam)
Ngày 1/10/2009, ca trù được công nhận là
di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại cần
bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có
vùng ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam, có phạm vi
tới 15 tỉnh, thành ở phía Bắc.

12. Hội Gióng.
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền
Sóc, năm 2010 được công nhận là Di sản văn
hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại.


13. Hát xoan. (Phú Thọ).
Ngày 24/11/2011, hát xoan (Phú Thọ)
của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được
bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.

14. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Ngày 6/12/2012, UNESCO công nhận
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ
là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại với
những yếu tố thuộc đời sống tâm linh của người
Việt Nam đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, thể
hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và
gắn kết cộng đồng.

15. Đờn ca tài tử Nam Bộ Nam Bộ.

Với các tiêu chí: Được trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác; liên tục được tái
tạo thông qua trao đổi văn hóa, thể hiện sự hòa
hợp văn hóa và tôn trọng văn hóa riêng của các
cộng đồng, dân tộc, UNESCO chính thức vinh
danh đờn ca tài tử Nam Bộ là di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại năm 2013.

DI SẢN TƯ LIỆU.
16. Mộc bản triều Nguyễn.( Hiện đang bảo quản
tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV- Đà Lạt, Lâm
Đồng )
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu
thế giới đầu tiên tại Việt Nam được UNESCO
công nhận ngày 31/7/2009. Mộc bản triều
Nguyễn gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ
Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các
sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19, 20.


17. Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám. (Hà Nội).
Với giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, đầu
tháng 3/2010, 82 tấm bia tiến sĩ của các khoa thi dưới
triều Lê - Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử
Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di
sản tư liệu thế giới.

18. Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm
chùa Vĩnh Nghiêm. (Bắc Giang).
Chùa Vĩnh Nghiêm được mệnh danh là

“Đại danh lam cổ tự”, một trung tâm Phật giáo
lớn nhất của thời Trần, nơi có những văn bản Hán
tự được UNESCO công nhận năm 2012.

19. Châu bản triều Nguyễn.
Đầu năm 2014, Việt Nam đã trình hồ
sơ lên UNESCO đề cử Châu bản triều Nguyễn
trở thành di sản tư liệu thế giới. Ngày
14/5/2014, Châu bản triều Nguyễn của Việt
Nam được UNESCO công nhận là Di sản tư
liệu Chương trình Ký ức thế giới Khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương.

DI SẢN HỖN HỢP.
20. Quần thể danh thắng Tràng An. (Ninh
Bình).
Ngày 23 tháng 6 năm 2014,
tại Doha, với sự đồng thuận tuyệt đối của Ủy
ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng
Tràng An chính thức trở thành di sản hỗn hợp
đầu tiên của UNESCO ở Việt Nam khi đáp
ứng cả hai yếu tố nổi bật về văn hóa và thiên
nhiên.


CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT TOÀN CẦU.
21. Cao nguyên đá Đồng Văn. (Hà Giang).
Ngày 3 tháng 10 năm 2010, hồ sơ
"Công viên Địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn"
đã được Hội đồng tư vấn Mạng lưới Công viên

Địa chất Toàn cầu (GGN) của UNESCO chính
thức công nhận là Công viên địa chất toàn
cầu. Đây hiện là danh hiệu duy nhất ở Việt Nam
và thứ hai ở Đông Nam Á.

*
*

*

GIỚI THIỆU VỀ ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ.
Đờn ca tài tử Nam bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể và là một danh hiệu UNESCO ở Việt Nam có vùng ảnh hưởng
lớn, với phạm vi 21 tỉnh thành phía nam. Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19,
bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian .
Lịch sử hình thành và phát triển.
Đờn ca tài tử hình thanh vào cuối
thế kỉ 19 đầu thế kỷ 20 ở Nam Bộ. Các
nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn theo
phong trào Cần Vương vào Nam đã mang
theo truyền thống ca Huế vào vùng Nam
Bộ. Trên đường đi, các nhạc sĩ dừng chân
ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, từ
đó tiếng đờn cùng với giọng ca xứ Huế
mang thêm chút hương vị xứ Quảng. Khi
vào đến miền Nam thì tiếng đờn miền
Trung tiếp tục thay đổi, một số bài tuy
cùng tên nhưng đã khác xa so với ban
Ban tài tử Nguyễn Tống Triều dự hội chợ các nước thuộc địa
ở Marseille, Pháp, năm 1906

đầu.
Bản chất phóng khoáng của con người và nếp sống tại miền Nam khiến cho các bài bản
không còn y khuôn bản gốc. Người đàn, người ca cũng không muốn giữ nguyên mà luôn có đôi
nét thêm thắt, thay đổi, tô điểm, khiến bài đờn đậm đà thấm thía hơn. Mặt khác do lòng luôn luôn
nhớ thương cội nguồn nên các điệu đờn ca tài tử đều phảng phất nỗi buồn và được người mộ điệu
ưa thích.
Vào khoảng cuối thế kỷ 19, đờn ca khi đó vẫn còn giữ nguyên gốc chủ yếu được phục vụ
tại các lễ hội địa phương ở Nam Bộ. các ban nhạc lễ lúc đó thường gồm các nhạc cụ gõ và dây
kéo vĩ. Do nhu cầu phục vụ càng về khuya, nhạc lễ cần phải chơi với âm lượng nhỏ theo yêu cần.
Từ đó các ban nhạc lễ thường được tổ chức một cách gọn lẹ hơn và bắt đầu dùng song lang thay
cho trống để giữ tiết tấu, cũng như bỏ bớt các nhạc cụ dây kéo chỉ còn đàn cò. Những ban nhạc
nhỏ gọn như vậy được gọi là nhóm đờn cây. Kể từ năm 1885 các nhóm đờn cây này được gọi là


ban đờn ca tài tử để có thể phân biệt với các ban nhạc lễ và nhạc hát bội đang thịnh hành song
song.
Còn một sự khác biệt nữa giữa đờn
ca tài tử và nhạc lễ là có sự góp mặt của
người hát. Do vậy ngoài hoà đàn với nhau,
ban nhạc tài tử còn tham gia vào việc đệm
đàn cho ca hát.
Đến đầu thế kỷ 20, đờn ca tài tử trở
thành phong trao ca nhạc phổ thông tại miền
Nam, nhất là tại các nhóm địa phương như
Bạc Liêu, Vĩnh Long, Long An, Mỹ Tho,
Sài Gòn… Các nhóm tài tử khối miền Đông
(vùng Sài Gòn-Chợ Lớn) cũng với các nhóm
Một ban nhạc Đờn ca Tài tử Sài Gòn (1911).
tài tử khối miền Tây (Vĩnh Long, Sa Đéc)
cũng được hình thành. Đứng đầu nhóm miền Đông là ông Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi)- một nhạc

sư từ Triều đình Huế cùng các nghệ sĩ khác như Cao Huỳnh Cư và Cao Huỳnh Điểu. Nhóm tài tử
khối miền Tây có ông Trần Quang Quờn- người Huế vào sống ở Vĩnh Long đứng đầu nhóm cũng
với các nghệ nhân Trần Quan Nhiệm, Nguyễn Liên Phong và Nguyễn Tư Ba. Các nghệ nhân này
chính là những nhà tiên phong trong công việc cố gắng biên soạn, sáng tác và giảng dạy nhạc tài
tử theo phong cách riêng, nền tảng cho đờn ca tài tử hiện nay.
Nghệ thuật biểu diễn trong đờn ca tài tử.
Cách thức biểu diễn của đờn ca tài tử khá đặc biệt, khác với ca trù và Nhã nhạc Huế
người hát chính thường là phụ nữ. Trong đờn ca tài tử nghệ sĩ nam và nữ đều có vai trò bình đẳng,
người đàn và người hát có vị trí tương đương nhau. Dàn nhạc của đờn ca tài tử thường có nhiều
nhạc cụ hơn của ca Trù và ca Huế. Trước đây, dàn nhạc đờn ca tài tử sử dụng các loại nhạc cụ
gồm đàn kim, đàn cò, đàn tranh song lang, ống tiêu. Khoảng từ năm 1920, lục huyền cầm (đàn
ghi-ta), hạ uy cầm (guitar Hawaii) và violon cũng đưuọc thêm vào dàn nhạc.
Ngày nay, đờn ca tài tử đã được mang lên sân khấu để biểu diễn tuy nhiên trước đây khi
mới du nhập vào Nam Bộ, đờn ca tài tử thường được ca hát bởi một nhóm người phần lớn là bạn
bè, làng xóm cũng tụ tập lại để chia sẻ niềm vui cho nhau nên trang cũng thường đơn giản, không
mấy ai để ý tới.

Khi biểu
nhạc
tử,trong
cácbiểu
nghệ
thường
Cácdiễn
loại nhạc
cụ tài
dùng
diễnsĩđờn
ca tài tửchú
như:trọng đến sự kết hợp của nhạc cụ có âm sắc khác

(từ
trái
qua)
đàn
guitale,
đàn
đáy,
đàn
tỳ
bà,
đàn
sến
dây, đàn
cò, đàn nguyệt,
đàn tranh.
nhau, ít thấy có sự kết hợp giữa các nhạc cụ có 3cùng
âmgáo,
sắc.đàn
Thường
thấy nhất
là song tấu đàn
kim và đàn tranh, là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắt, mà theo các chuyên gia thì được gọi là


sắt cầm hảo hiệp. Cũng có khi là tam tấu đàn kim- tranh-cò, kim- tranh- độc huyền, tranh- cò- độc
huyền. Nếu một ban nhạc tài tử có 3 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban tứ tuyệt, nếu có 4
nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban ngũ nguyệt.
Phần hay nhất trong đờn ca tài tử là phần rao của người đàn và lối nói cảu người hát.
Người đàn dùng rao- người ca dùng lối nói- để lên dây đàn và gợi cảm hứng cho bạn diễn, tạo
khôn khí cho dàn tấu. Ngoài ra khi trình diễn các nghệ sĩ có thể dùng tiếng đàn của mình để “đối

đáp” hoặc “thách thức” với người đồng diễn. Chính vì vậy mà nhạc tài tử luôn luôn sinh động và
hấp dẫn người nghe.
Đờn ca tài tử có một số lượng bài bản rất phong phú và đa dạng. Ngoài sử dụng một số
bài bản trong nhạc lễ, còn có các bài từ ca Huế, dân ca miền Trung, miền Nam, và một số lượng
lớn do các nghệ nhân bậc thầy sáng tác và cải biên. Do đặc tính ngôn ngữ và sinh hoạt riêng của
người miền nam mà nhạc miền Trung được phát triển đặc biệt trong nhạc tài tử. một số bài bài nổi
tiếng được nhiều người biết đến như: bài Bình Đán của ca Huế được phát triển thành Bình Đán
Văn trong nhạc tài tử, Lưu Thuỷ của Huế được cải biên thành Lưu Thuỷ Đoàn…
Về bài bản của đờn ca tài tử thì có nhiều nhưng đa số các bậc thầy cảu đờn ca và các
chuyên gia cho rằng đờn ca có 20 bài tổ được gọi là “Nhị thập huyền tổ bản” thuộc hai điệu Bắc
và điệu Nam. Trong 20 bản tổ có 7 bản lễ, 6 bản Bắc, 3 bản Nam và 4 bản Oán. Tương truyền các
bài bản này do ông bà Ba Đợi đúc kết và được xem như là những bài căn bản bản cho những
người bắt đầu bước vào nghệ thuật đờn ca tài tử. Từ năm 1945, ông Nguyễn Văn Thịnh thường
được gọi là ông Giáo Thịnh- một nhạc sư có uy tín tại Sài Gòn đã đúc kết và phổ biến một hệ
thống mới gọi là 72 bài cổ nhạc miền Nam được gọi là “Thất thập nhị huyền công”. Theo đó một
nghệ nhân sẽ được coi là bậc thầy nếu biết hết 20 bài bản tổ và để đạt được mức cao hơn nghệ
nhân đó cần biết hết 72 bài bản cổ miền Nam.
Con đường phát triển.
Nhạc tài tử phát triển mạnh ở miền Nam một phần là nhờ có khá nhiều lò dạy được mở ra
khắp lục tỉnh và Sài Gòn. Những ngày đầu chỉ có các gia đình khá giả mới có tiền mời thầy dạy ở
các tỉnh về nhà dạy cho con cái. Vào những năm của thập kỷ 40 và 50, các lò dạy tư nhân mới bắt
đầu phổ biến do các nghệ sĩ từ các tỉnh lân cận đổ về Sài Gòn mở. Thời bấy giờ các lò nổi tiếng
của nghệ sĩ Chín Phàng (từ Long An), Hai Đậu (từ Trà Vinh), Năm Long và Năm Được (từ Cần
Giuộc) đã đào tạo được nhiều danh ca, danh cầm.
Nhiều năm trở lại đây do chịu ảnh hưởng của sự du nhập của nhạc Tây Phương, các
phương tiện truyền thông hiện đại và một số nhận thức sai lạc của người dân về đờn ca tài tử nê
thể loại nhạc thính phòng đặc sắc của Việt Nam đang mất dần đi tính chính thống. Nhiều nơi đã
thay đổi không gian thính phòng của đờn ca tài tử để nghệ sĩ biểu diễn trong không gian sân khấunơi mà người nghe và người diễn tách biệt nhau. Thậm chí một số nghệ sĩ học thuộc lòng lời ca và
lời đàn, do đó mất đi tính ứng tác, ngầu hứng đặc trung của nghệ thuật đờn ca.
Nhận thức được tầm quan trọng của đườn ca trong nền âm nhạc truyền thống của Việt

Nam, ngày nay đã có nhiều nhà nghiên cứu dân tộc, nhạc học ở trong và ngoài nước đang tìm
cách sưu tầm và hệ thống hoá các bài bản của nhạc tài tử, thống kê, sưu tầm và nghiên cứu các bài
bản của nghệ thuật đườn ca. Năm 2010, Bộ văn hoá- Thể thao và Du lịch đã có văn bản đề nghị
19 tỉnh thành phố trong đó có Tp.Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình Phước, Vình Long, Bạc Liêu, Cà
Mau...nhanh chóng có kế hoạch điều tra, nghiên cứu, kiểm kê về di sản văn hoá phi vật thể Đờn
ca tài tử ở địa phương để chuẩn bị cho việc lập hồ sơ trình UNESCO.
Thế mạnh của đờn ca tài tử chính là sự tồn tại khá vững chắc trong cộng đồng dân cư của
bộ môn nghệ thuật này. SUốt từ TP. HỒ CHí Minh đến các tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ, Bạc Liêu...
đâu đâu cũng thấy các câu lạc bộ đờn ca tài tử.


Theo kết quả bước đầu trong công tác kiểm kê nghệ thuật đờn ca tài tử thì hiện nay tại các
địa phương có 2019 câu lạc bộ; khoảng 22634 thành viên tham gia, 2850 nhạc cụ trong các câu
lạc bộ; 120 đầu tư liệu xuất bản về Nghệ thuật Đờn ca tài tử tại 14 địa phương. Hệ thống bài bản
của đờn ca rất phong phú, trong đó, quan đó quan trọng nhất gồm 20 bài tổ gồm: 6 bài Bắc (Lưu
Thuỷ, Phú Lục, Tây Thi, Cổn Bản, Bình Bán, Xuân Tình), 3 bài Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Nam
Đảo), 4 bài Oán( Tứ Đại Oán, Giang Nam, Phụng Hoàng, Phụng Cầu), 7 bài nhạc lễ (Xàng Xê,
Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Vạn Giá, Tiểu Khúc); thường là những bài
lớn rất dài và phức tạp và đạt trình độ “cổ điển” về nhạc lý. Ngoài ra còn có các bài lý, ngâm, 8
bài ngự... và nhiều bài mới đưuọc sáng tác.
Đờn ca tài tử “Như cơm ăn nước uống”.
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan phân tích 6 đặc trưng nổi bật khiến đờn ca tài tử trở thành báu
vật. Thứ nhất, đờn ca tài tử là một tập tục không thể thiếu trong sinh hoạt của người dân Nam bộ
khoảng 100 năm nay, đối với người dân “như cơm ăn nước uống”.
Thứ hai, đây thật sự là loại hình giải trí của người dân Nam bộ, so với tất cả các nghệ thuật
cổ truyền Việt Nam thì đây là nghệ thuật duy nhất không phụ thuộc vào không gian văn hóa, hoặc
các không gian trình diễn theo mùa vụ. “Cứ hứng lên thì chơi, gặp nhau thì chơi, thương nhau thì
cũng chơi, và hội hè, ma chay cưới hỏi cũng đều chơi”.
Điểm thứ ba, đó là một lối hòa đàn trác tuyệt, mà ở đấy tính ngẫu hứng được đặt lên trên
hết. Và ở trong tính ngẫu hứng ấy, thú vị ở chỗ mỗi lần đánh một bản đàn thì hầu như đó là những

cuộc đối thoại bằng âm thanh. Có lẽ đây là một trong những nghệ thuật ngẫu hứng, có thể nói là
duy nhất ở Việt Nam. Cho nên, người ta thường gọi là “quăng bắt”, tức là làm sao người hòa đàn
cùng với mình hiểu được tâm tư tình cảm của mình, để cùng hòa nhập, tung hứng.
Điểm thứ tư rất quan trọng là, đờn ca tài tử đã xác định được cách hoàn thiện “nhạc ngữ”
của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Trước đó chỉ có ca trù là xác định được, nhưng chưa rành mạch,
không rõ ràng, không khúc chiết… Có thể nói, đờn ca tài tử là nghệ thuật đã đúc kết và hoàn thiện
được nhạc ngữ cổ truyền của người Việt Nam.
Điều thứ năm là đã tạo được các “ngón đờn” để thỏa mãn hàng loạt cung bậc tình cảm.
Những nghệ sĩ tài tử Nam bộ đã tìm ra được các phương pháp bấm ngón đàn, tạo ra nhiều nhạc
ngữ khác nhau, khi vui, khi buồn, khi oán hận… Điều trác tuyệt là ở chỗ này. Có nhiều người nói,
“cái hơi” trong đờn ca tài tử đóng vai trò quan trọng. Mà hơi được tạo ra từ các “ngón bấm” (các
ngón rung, ngón nhấn, ngón vuốt, rồi ngón mổ...). Đấy là ngón đờn tạo ra các hơi trên thang bậc
ngũ cung.
Cuối cùng, đờn ca tài tử vẫn đang được
người dân Nam bộ yêu mến, vẫn đang được trao
truyền cho nhau, như thuở nào.

Bước đường đến với UNESCO.
Trên hành trình đưa nghệ thuật đờn ca tài tử với
UNESCo, chính quyền địa phương ở các tỉnh miền Nam đã tích
GS. Trần Văn Khê biểu diễn cùng các
nhạc sư.


cực mở các lớp dạy nhằm phổ biến nghệ thuật đờn ca. Bên cạnh đó các tỉnh cũng chủ động tổ
chức các liên hoan, giao lưu đờn ca cấp tỉnh hoặc liên tỉnh. Sở Văn hoá, Thể thao & Du lịch
TP.Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức buổi Toạ đàm với chủ đề “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá phi vật thể nghệ thuật Đờn ca tài tử”. Buổi toạ đàm đã thu hút đông đảo nghệ nhân, nhạc sĩ và
những người yêu thích đờn ca tài tử tham dự. Trong buổi toạ đàm đã có 19 bài tham luận của 16
tác giả và 6 ý kiến phát biểu chính thức đã tập trung vào hai nội dung: “Những vấn đề quan trọng

khẳng định giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử” và “Những yếu tố hình thành đờn ca tài tử”. Kết thúc
buổi toạ đàm đã có kết luận: Nghệ thuật Đờn ca Tài tử là di sản văn hoá âm nhạc đặc sắc, tiêu
biểu cho dân tộc Việt ở Nam Bộ, là bộ môn nghệ thuật cần được bảo tồn trong chính đời sống của
người dân.
Để hoàn thiện Hồ sơ Khoa học gửi UNESCo trước ngày 31-3-2011, Bộ văn hoá, Thể
thao-Du lịch đã tổ chức Hội thảo quốc tế “Nghệ thuật Đờn ca Tài tử và những lối hoà đàn ngẫu
hứng” trong 3 ngày, từ 9 đến 11 tháng 1 năm 2011. Hội thảo có trên 120 đại biểu tham gia chính
thức với 33 tham luận khoa học, trong đó có 7 tham luận của các nhà khoa học học nổi tiếng như
GS.TS Yamaguti Osamu (người Nhật- là người từng hộ trợ tích cực trong việc đưa quan họ Bắc
Ninh trở thành di sản thế giới được UNESCO công nhận). Hội thảo là sự kiện quan trọng, có tính
then chốt trong chiến dịch quản bá nâng cao hình ảnh nghệ thuật đờn ca tài tử rộng rãi trong cộng
đồng thế giới, tạo tiếng vang đủ sức thuyết phục các nhà nghiên cưu, các nhà khoa học- những
người có vai trò then chốt trong việc quyết định công nhận Nghệ thuật đờn ca tài tử là di sản văn
hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại, tiêu biểu của Việt Nam. Hội thảo cũng đã khẳng định và
nâng cao được nhận thức của cộng đồng trong nước và quốc tế về giá trị truyền thống của nghệ
thuật đờn ca tài tử.
Ngày 5-12-2013, tại phiên họp của Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể của Tổ chức UNESCO diễn ra tại thủ đô Baku, nước Cộng hòa Azerbaijan, loại hình nghệ
thuật đờn ca tài tử Nam bộ của Việt Nam chính thức được ghi danh vào danh sách di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại với sự ủng hộ tuyệt đối của 24 quốc gia thành viên. Từ đây, đờn
ca tài tử không chỉ là di sản của nhân dân Việt Nam mà còn là của toàn thế giới, được thế giới bảo
hộ và giữ gìn. Đây là một bước chuyển mình vô cùng quan trọng, mở ra nhiều tiềm năng, cơ hội
cho sự phát triển đất nước về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.
Tối ngày 11/02/2014 Tại Hội trường Thống Nhất (quận 1, TP HCM), bà Katherine
Muller Marin, đại diện Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
đã trao Bằng vinh danh Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ. Đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ 8
của Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa đại diện của nhân loại và được bảo vệ
ở cấp độ quốc tế, thể hiện sự trân trọng và ngưỡng mộ của cộng đồng quốc tế đối với loại hình
nghệ thuật độc đáo này của Việt Nam.
"Đây là một minh chứng sinh động về sức lan tỏa của văn hoá truyền thống Việt Nam

trong dòng chảy hội nhập của văn hóa thế giới, tạo cơ hội để người dân trên toàn thế giới niềm
hân hạnh được thưởng thức và hiểu rõ hơn về nền văn hóa tươi đẹp và phong phú của Việt Nam",
bà Katherine Muller Marin nói. Vị này cũng cho biết UNESCO đánh giá cao thành công của Việt
Nam trong nỗ lực bảo vệ văn hóa phi vật thể vào các chính sách quốc gia trong hơn một thập kỷ
qua nhằm nâng cao nhận thức và hành động thực hiện Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di
sản văn hóa.


Phát biểu tại buổi lễ, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng cho rằng việc UNESCO vinh danh Nghệ thuật
Đờn ca tài tử Nam Bộ thể hiện sự trân trọng và ngưỡng
mộ của cộng đồng quốc tế đối với loại hình nghệ thuật
độc đáo này của Việt Nam. "Đây không chỉ là niềm tự
hào của đồng bào Nam Bộ, của người Việt Nam chúng
ta mà còn góp phần thiết thực vào việc giữ gìn sự đa
dạng các biểu đạt văn hóa trong kho tàng văn hóa thế
giới"
Theo đó, Nghệ thuật Đờn ca tài tử đã đáp
ứng được các tiêu chí như: Được trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác thông qua giáo dục chính thức và
Bà Katherine Muller Marin, Trưởng đại diện UNESCO
tại Việt Nam, trao bằng vinh danh nghệ thuật đờn ca
không chính thức tại khắp 21 tỉnh phía Nam; liên tục
được tái tạo thông qua trao đổi văn hóa với các dân tộc tài tử Nam bộ.
khác nhau, thể hiện sự hoà hợp và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc...
Chương trình hành động quốc gia bảo vệ nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ (2014 - 2020)
1- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt là
thế hệ trẻ đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ
nói riêng.
2- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành, sáng tạo và truyền dạy nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ

trong các gia đình, các nhà trường, câu lạc bộ và cộng đồng nhằm nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần
của cộng đồng và nhân dân địa phương.
3- Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt
động kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa, truyền dạy, trình diễn... để bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam bộ; đưa nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở đào
tạo chuyên ngành.
4- Hỗ trợ cộng đồng phục hồi, lưu truyền các “bài Tổ”, các tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội liên
quan đến nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ; mở rộng các hình thức và môi trường sinh hoạt mới, phù hợp
với mục tiêu bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ trong cuộc sống đương đại.
5- Phối hợp với các cơ quan truyền thông, các hội nghề nghiệp tổ chức thường xuyên và định kỳ các
chương trình giới thiệu, quảng bá về nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ dưới nhiều hình thức nhằm giáo dục
thẩm mỹ, cảm thụ nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ tới công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
6- Có chính sách đãi ngộ, khen thưởng và phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước cho các nghệ nhân đờn
ca tài tử có nhiều đóng góp xuất sắc trong việc bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử.
7- Tạo mọi điều kiện để nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ có nhiều cơ hội giao lưu, trình diễn ở nước
ngoài; thường xuyên tổ chức liên hoan nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ ở các địa phương; định kỳ 3 năm
một lần tổ chức Liên hoan nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ toàn quốc.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×