Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu Luận Nghèo đói ở Trung Du miền núi Bắc Bộ thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.91 KB, 30 trang )

ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

LỜI MỞ ĐẦU
“Xóa đói giảm nghèo” là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm
giải quyết đói nghèo và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Năm 1989, Việt Nam
chuyển sang kinh tế thị trường, trong sanr xuất nông nghiệp thực hiện giao khoán
đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu
gạo, và giữa vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an
ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao
gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã
nghèo).
Đầu thaập niên 90, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số
liệu trẻ em síauy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991,
vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển
khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo.
Cho đến nay, con số tỷ lệ nghèo đói vẫn đang còn là con số đáng lo ngại
cho đất nước. Là vấn đề quan tâm trăn trở của các nhà quản lý và các nhà hoạch
định chính sách phát triển. Trong đó, đói nghèo ở các tỉnh trung du miền núi Bắc
Bộ là vấn đề đáng quan tâm và nan giải hơn cả trong công tác xoá đói giảm nghèo.
Đây là vùng có tỷ lệ đói nghèo cao và chiếm tỷ trọng cao trong đói nghèo quốc gia
(chiếm 32.6%). Chính vì vậy em lựa chọn đề tài “Nghèo đói ở trung du miền núi
Bắc Bộ _ thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ tình trạng nghèo đói của “điểm
nóng” nghèo của Việt Nam. Bên cạnh đó vấn đề đặt ra là Chính phủ cần có các
chính sách và vùng cần phải lựa chọn hướng đi như thế nào để thực hiện mục tiêu
xoá đói nghèo đến năm 2020 và phát triển trong những điều kiện mới.
Nội dung đề án môn học kinh tế phát triển này của em gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về nghèo đói.(Chương này tập trung nghiên cứu
bản chất và nội dung, nguyên nhân của nghèo đói).


Chương II: Thực trạng nghèo đói ở các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ.
(Chương này tập trung phân tích thực trạng nghèo đói của vùng và các yếu tố tác
động đến nghèo đói vùng).
Chương III: Giải pháp giải quyết nghèo đói ở các tỉnh trung du miền núi
Bắc Bộ đến năm 2020. ( Chương này em tập trung nghiên cứu và đưa ra các
phương hướng cho công tác giải quyết đói nghèo trên lãnh thổ vùng).

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

1

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO ĐÓI
I.

KHÁI NIỆM NGHÈO ĐÓI
I.1. Khái niệm nghèo đói

Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tuỳ theo tình trạng phát triểnkinh tế xã hội và tập quán của địa phương. 1
Nghèo đói nói chung là nghèo đói đa chiều, về thu nhập, giáo dục, y tế sức khoẻ, tài sản, tiếng nói,… Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này em sẽ đi sâu
phân tích về nghèo đói về thu nhập của khu vực trung du miền núi Bắc Bộ.
Nghèo đói tuyệt đối về thu nhập: là tình trạng không đảm bảo mức thu nhập

hay chi tiêu tối thiểu cần thiết để đáp ứng nhu cầu vật chất tối thiểu để con người
có thể tiếp tục tồn tại.
Nghèo đói tương đối về thu nhập: là mức thu nhập không đảm bảo mức tiêu
chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định.
I.2. Khái niệm ngưỡng nghèo
Hiện nay ở Việt Nam , có hai phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói
như sau:
Phương pháp dựa vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người. Đây là
phương pháp được Tổng cục Thống kê sử dụng. Phương pháp này đã xác định hai
ngưỡng nghèo.

Ngưỡng nghèo là số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hàng
ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng tối thiểu.

Ngưỡng nghèo chung: ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho lương
thực và hàng hoá phi lương thực.
Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình. Phương pháp này được
Bộ lao động – Thương binh – Xã hội sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của
chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia.
Theo phương pháp này, Bộ lao động – Thương binh và xã hội đưa ra ba
mức thu nhập bình quân tính làm ngưỡng nghèo cho ba vùng hiện nay là:
1

Được đưa ra trong hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng
Kốc, Thái Lan 9/1993

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

2


LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN



Vùng hải đảo và vùng núi nông thôn: 80.000 đồng/ tháng/ người.



Vùng đồng bằng nông thôn: 200.000 đồng/ tháng/ người.



Khu vực thành thị: 260.000 đồng/ tháng/ người.
I.3. Khái niệm khoảng cách nghèo

Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo
với ngưỡng nghèo. Được tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo.
Khoảng cách nghèo cho phép chúng ta thấy được mức sống dưới mức tối
thiểu của người nghèo. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng để chúng ta xem xét mức độ
nghèo. Cho biết mức cần cố gắng đạt được để có thể thoát nghèo.
Khi so sánh các nhóm dân cư trong cùng một nước, khoảng cách nghèo cho
biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm.
Theo cơ sở trên em rút ra đối tượng nghiên cứu của bài viết này là những
người dân có mức thu nhập dưới ngưỡng nghèo thuộc vùng trung du miền núi Bắc
Bộ.

II.

NGUYÊN NHÂN CỦA NGHÈO ĐÓI

II.1. Nguyên nhân do trình độ phát triển thấp kém của các nước đang
phát triển
Ở các nước đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật thường thấp kém.
Những người nghèo thường tập trung trong khu vực nông thôn, hoạt động trong
khu vực nông nghiệp và trong khu vực kinh tế thành thị phi chính thức.
Đặc biệt ở vùng núi, người dân còn quá nghèo nàn về thông tin và hiểu biết
để có thể tự tạo cho mình thu nhập đủ để có thể trang trải co cuộc sống hàng ngày.
Khả năng đa dạng hoá thu nhập của họ càng trở nên khó khăn hơn.
Nhìn chung các hộ miền núi có quy mô dân số tương đối cao so với mức
trung bình của cả nước. Số nhân khẩu bình quân của các hộ miền núi trong điều tra
là 5,9 người, kể cả trẻ em dưới 10 tuổi và 0,4 người lớn trên 60 tuổi (so với mức
trung bình khu vực nông thôn của cả nước là 4,47 người/hộ). Tuy nhiên, có sự
khác nhau khá lớn về quy mô của hộ và trình độ của chủ hộ đối với những nhóm
có thu nhập khác nhau.
Nhóm có thu nhập thấp thì có số nhân khẩu bình quân cao nhất và nhìn
chung thì chủ hộ có trình độ thấp nhất. Ngược lại, những hộ thuộc diện có thu nhập
cao hơn đều có ít con hơn và được giáo dục nhiều hơn. Tương quan này phần nào

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

3

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN


GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

càng chứng minh cho chúng ta thấy, trình độ thấp và đông con là những nguyên
nhân chính gây ra thu nhập thấp của các hộ miền núi. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính gây ra đói nghèo và tụt hậu của các hộ gia đình nói chung.
II.2. Nguyên nhân do bất bình đẳng trong thu nhập
Bất bình đẳng trong thu nhập là một trong những yếu tố rất quan trọng dẫn
đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển khác
cũng như ở các nước phát triển.
Chính sách phân phối thu nhập theo đóng góp là hoàn toàn hợp lý. Song
trong thực tế, những người nghèo là những người thiếu tư liệu sản suất, thiếu cơ
hội tiếp xúc với giáo dục để nâng cao chất lượng, năng lực lao động của bản thân
để có cơ hội được tận dụng sức lao động bản thân mang lại thu nhập cho bản thân.
Đó là do sự bất công trong phân phối thu nhập và sở hữu tài sản. Lý do chính vì
sao gần 20% dân số nhận được hơng 50% thu nhập là vì 20% dân số này có thể sở
hữu, kiểm soát trên 70% các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất
Có những nguyên nhân dễ nhận thấy, giải thích cho sự bất bình đẳng, chẳng
hạn như việc năng suất, tốc độ phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp luôn thấp hơn
trong công nghiệp và dịch vụ. Từ đó dẫn đến hệ quả thu nhập của cư dân nông
thôn và miền núi thấp hơn cư dân thành phố.
Ngoài ra là khoảng cách về tri thức, kỹ năng chuyên môn ngày càng lớn
giữa người được tiếp cận với giáo dục tốt và người không có cơ hội đó. Hai lý do
giải thích tại sao người dân tộc thiểu số lại chiếm tỷ lệ cao trong nhóm người
nghèo đói nhất xã hội:
Thứ nhất, lý do địa lý. Người thiểu số chủ yếu quần cư ở vùng nông thôn
hoặc miền núi. Nguồn thu nhập của họ phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp, đặc
biệt vào tài nguyên rừng. Trong khi đó, sở hữu đất rừng của họ bị hạn chế, và phần
lớn đất đai cũng đã sạch bóng cây rừng.
Thứ hai, lý do xã hội. Cho tới gần đây, người dân tộc thiểu số vẫn không

được tiếp cận rộng rãi với y tế và giáo dục cơ bản. Ở tất cả các nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ
em dân tộc đến trường đều thấp hơn nhiều so với trẻ em dân tộc Kinh. Chênh lệch
này còn rõ ràng hơn nữa ở trẻ em gái. Không đầy 30% người trưởng thành ở các
cộng đồng dân tộc thiểu số tốt nghiệp cấp hai, so với con số 50% ở người Kinh.
Bất bình đẳng thu nhập gia tăng có lẽ là điều khó tránh khỏi ở một nền kinh tế
đang tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát, nó sẽ tạo ra
bất ổn xã hội.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

4

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

II.3. Do điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên là một lý do rất quan trọng dẫn đến sự nghèo đói của
người dân, đặc biệt là người dân miền núi. Nhưng người nghèo phần lớn là hoạt
động trong khu vực nông nghiệp, trong khi đó, nông nghiệp lại phụ thuộc rất lớn
vào điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc sản xuất hay
những rủi ro do thiên nhiên mang lại cho họ như: lũ lụt, hạn hán… khiến thu nhập
chính của họ bị giảm sút hay hơn nữa là mất trắng và rơi vào tình trạng nghèo và
khó thoát ra được vì không được thiên nhiên ủng hộ trong sản xuất.
III.

NGHÈO ĐÓI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ

HỘI, MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA CHÚNG
III.1. Đói nghèo_ gánh nặng của toàn xã hôi

Đối với mọi xã hội, dù là đất nước phát triển hay đang phát triển thì nghèo
đói đều là một căn bệnh, một gánh nặng của quốc gia, của toàn xã hội. Đặc biệt
với Việt Nam và các nước phát triển nói chung tình trạng nghèo đói còn là phổ
biến và với tỷ lệ cao. Hàng năm, xã hội mất những khoản tiền lớn lẽ ra có thể đầu
tư vào các khu vực sinh lời để hỗ trợ cho các đối tượng đói nghèo. Tuy nhiên đây
chỉ là một khoản chi chuyển giao, không làm mất đi khả năng của một quốc gia
mà chỉ chuyển lợi ích đến cho người nghèo( từ người giàu sang người nghèo).
Song đứng về khía cạnh của các nhà đầu tư thì đó thực sự là một khoản mất đi cơ
hội đầu tư sinh lời tạo GDP cho quốc gia.
Gánh nặng của xã hội còn thể hiện ở việc lãng phí nguồn nhân lực hay
nguồn lực. Thường người nghèo có trình độ thấp, hay họ không đủ để có thể xin
được một công việc với mức tiền công đủ để chi cho các nhu cầu cơ bản của bản
thân. Như vậy họ đang là những nguồn lực rảnh rỗi, lãng phí của xã hội. Thu nhâp
của xã hội bình quan phải cha sẻ cho những người có thu nhập thấp hơn làm mức
thu nhập bình quân đầu người quốc gia giảm, năng suất lao động bình quân giảm.
III.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế trong chương trình xoá đói giảm
nghèo ở các tỉnh trung du miền núi phía Bắc.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi nền kinh tế. Và mục tiêu
cuối cùng của việc theo đuổi tăng trưởng là phục vụ cho lợi ích của con người,
tăng mức sống cuả con người. Vì vậy, tăng trưởng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong xoá đói giảm nghèo. Do đó tốc độ tăng trưởng nhanh là điều kiện cần thiết,
không thể thiếu cho công tác xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế
nhanh song còn đòi hỏi phải làm thế nào để tất cả các tầng lớp dân cư nghèo khổ
trong xã hội đều được hưởng lợi từ tăng trưởng. Đồng thời đây là yếu tố duy nhất

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG


5

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

để giảm tình trạng nghèo khổ, bởi nghèo khổ tuyệt đối khongo còn cách nào khác
để khắc phục ngoài việc tăng thu nhập để giải quyết chi tiêu cho các nhu cầu thiết
yếu để tồn tại.
Theo WB đánh giá, các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã thành
công trong công tác giảm nghèo đói. Và để đánh giá thành công trong việc giảm
nghèo, người ta thường xem xét mức độ giảm tương ứng với mỗi % tăng trưởng
kinh tế. Theo nhận xét cuả WB, tiêu dùng bình quân đầu người tăng 1% sẽ làm
giảm trung bình 2% tỷ lệ nghèo đối vơi bộ phận dân cư sống với mức dưới
1USD/ngày, tỷ lệ này sẽ là 1.5% nều hệ số GINI là 0.6 và tỷ lệ gỉam này sẽ tăng
gấp đôi nếu hệ số GINI có giá trị là 0.22
Việt Nam đang hướng vào chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói
giảm nghèo đã được chính phủ phê duyệt ngày 21/05/2002. Chiến lược được coi là
chương trình hành động để thực hiện hướng tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm
nghèo. Chiến lược cũng đã thể hiện được tính hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và
các vấn đề xã hội khác. Và hiện nay ở Việt Nam 1% tăng trưởng GDP/người đã
giảm 1.3% nghèo(giai đoạn 1993 - 1998) và giảm 1.2% ( giai đoạn 1998 - 2002).
III.3. Đói nghèo với phát triển xã hội
Nghèo đói không chỉ tác động đến kinh tế và cũng không chỉ xuất hiện dưới
góc độ kinh tế_ họ là người thiếu các nhu cầu cơ bản. Mà dưới góc độ xã hội nó
cũng có tác động rất lớn. Một xã hội được gọi là tiên tiến, là phát triển khi những
người sống trong cộng đồng có mức sống cao, có hiểu biết, có khả năng nhận thức

và tiếp thu kiến thức cũng như thế giới bên ngoài, có tầm nhìn xa trông rộng.
Trong khi đó nghèo đói lại quy tụ những người có đầy đủ các yếu tố kéo xã hội
giảm tốc độ hay quay ngược lại trên con đường phát triển xã hội.
Nghèo đói là một căn bệnh của mọi xã hội. Dù là xã hội phát triển hay đang
phát triển đều tồn tại, tuy nhiên ta cần xem xét mức độ và tỷ lệ nghèo ở các xã hội
là khác nhau. Nghèo đói cũng là tác nhân gây ra không ít các tệ nạn xã hội: trộm
cắp, cờ bạc,…
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC
BỘ
I.

GIỚI THIỆU VỀ CÁC TỈNH TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ
I.1. Địa lý, khí hậu

2

Chính sách và chiến lược giảm bất bình đẳng và nghèo khổ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003, trang 99.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

6

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Vùng trung du miền núi Bắc Bộ bao gồm các tỉnh trung du và miền núi của

hai vùng kinh tế: Vùng Đông Bắc Bắc Bộ và vùng Tây Bắc. Với diện tích toàn
vùng khoảng 102961 km2 chiếm 31.1% diện tích toàn lãnh thổ quốc gia. Bao gồm
15 tỉnh: Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Điện
Biên và Hoà Bình.
Lãnh thổ vùng có địa hình phức tạp, phía Đông bắc là một miền núi và đồi
thấp, có thung lũng rộng với các dải núi vòng cung quy tụ về Tam Đảo. Phía Tây
bắc là hệ thống núi non trùng điệp rất khó khăn trong giao thông vận tải.
Tuy nhiên Vùng lại có phí Bắc giáp với biên giới Trung Quốc với ba cửa
khẩu lớn: Móng Cái, Đồng Đăng, Lào Cai tạo điều kiện giao lưu, hội nhập khoa
học – công nghê, trao đổi phát triển kinh tế của vùng với quốc tế trên lục địa, có
cảng biển lớn: Hải Phòng, Quảng Ninh thuận tiện giao thương kinh tế quốc tế.
Đặc điểm khí hậu nổi bật của Vùng là có mùa đông lạnh, kém ổn định do
ảnh hưởng của các đợt gió mùa đông bắc tràn xuống. Do địa hình cao, ở phía Bắc,
lại có nhiều dãy núi dài chạy song song, nên vào mùa Đông, vùng này có gió Bắc
thổi mạnh, nên rất lạnh. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có
thẻ có lúc nhiệt độ xuống 0°C và có mưa tuyết thậm chí có tuyết trong những năm
gần đây. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió. Thời tiết
luôn có biến chuyển phức tạp gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Tuy
nhiên tính chất lạnh và khô trong mùa đông lại giúp ích cho vùng trong việc đa
dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp ôn đới và cận nhiệt đới có giá trị cao cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
I.2. Kinh tế
Thế mạnh về khai thác, chế biến khoáng sản và thuỷ điện
Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có khoáng sản và trữ năng thuỷ điện
lớn nhất nước ta. Lòng đất ở đây giàu than, quặng sắt, mangan, đồng, chì, kẽm, đất
hiếm, apatit... Các mỏ than tập trung chủ yếu ở khu Đông Bắc (Quảng Ninh, Thái
Nguyên). Khu Đông Bắc cũng có nhiều mỏ kim loại, đáng kể hơn cả là mỏ sắt
(Yên Bái), thiếc và bôxit (Cao Bằng), kẽm – chì ở Chợ Điền (Bắc Kạn), đồng –
vàng (Lào Cai). Khoáng sản phi kim loại đáng kể có apatit (Lào Cai). Mỗi năm

vùng kinh tế này khai thác khoảng 600 nghìn tấn quặng để sản xuất phân lân.
Trữ năng thuỷ điện của hệ thống sông Hồng (11 triệu kW) chiếm hơn 1/3
trữ năng thuỷ điện của cả nước. Riêng sông Đà chiếm gần 6 triệu kW. Nguồn thuỷ
năng lớn này đang được khai thác. Nhà máy thuỷ điện Thác Bà trên sông Chảy có
công suất thiết kế là 110 nghìn kW. Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà có

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

7

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

công suất thiết kế là 1,9 triệu kW. Chính phủ hiện đang xây dựng một số nhà máy
thuỷ điện lớn như nhà máy thuỷ điện Sơn La (trên sông Đà) với công suất là 3,6
triệu kW, thuỷ điện Đại Thị (trên sông Gâm) 250 nghìn kW…
Thế mạnh về cây công nghiệp, cây dược liệu, các loại rau quả cận nhiệt
và ôn đới
Trung du và miền núi phía Bắc có phần lớn diện tích là đất feralit trên đá
phiến, đá vôi và các đá mẹ khác, ngoài ra còn có đất phù sa cổ (ở vùng trung du).
Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng
sâu sắc của điều kiện địa hình vùng núi. Bởi vậy, Trung du và miền núi phía Bắc
có thế mạnh đặc biệt để phát triển các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và
ôn đới. Đây chính là vùng chè lớn nhất cả nước, với các loại chè thơm ngon nổi
tiếng ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Giang, Sơn La.
Ở các vùng núi giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, cũng như trên vùng

núi cao Hoàng Liên Sơn, điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho việc trồng các cây
thuốc quý (tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả…) và các cây ăn quả như
mận, đào, lê. Ở Sa Pa có thể trồng rau mùa đông và sản xuất hạt giống quanh năm.
Thế mạnh về chăn nuôi gia súc: Trung du và miền núi phía Bắc có nhiều
đồng cỏ, chủ yếu là trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m. Các đồng cỏ
thường không lớn. Tuy vậy ở đây có thể phát triển chăn nuôi trâu, bò (lấy thịt và
lấy sữa), ngựa, dê. Bò sữa được nuôi tập trung ở cao nguyên Mộc Châu (Sơn La).
Thế mạnh về kinh tế biển: Trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, thế mạnh
về kinh tế biển của Trung du và miền núi phía Bắc sẽ càng được phát huy. Vùng
biển Quảng Ninh là một vùng biển rất giàu tiềm năng, một vùng đang phát triển
năng động cùng với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Ở đây đang
phát triển mạnh ngành đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, nhất là đánh bắt xa bờ. Du
lịch biển - đảo đang đóng góp đáng kể vào cơ cấu kinh tế, với quần thể du lịch Hạ
Long đã được xếp hạng vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới. Cảng Cái Lân
(một cảng nước sâu) đang được xây dựng và nâng cấp, tạo đà cho sự hình thành
khu công nghiệp Cái Lân…
Tốc độ tăng trưởng : Trong 5 năm 2001-2005, thực hiện Quyết định
186/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội
của các tỉnh trung du miền núi phía Bắc nhìn chung vượt mức mục tiêu đã đề ra.
Bình quân tổng sản phẩm của toàn vùng tăng xấp xỉ 12,5%/năm. Trong đó công
nghiệp tăng 18,6%/năm, nông lâm nghiệp tăng 7,38%/năm, dịch vụ tăng
14,9%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 4,07 triệu đồng/người/năm.
Về cơ cấu kinh tế: tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong đó tỷ
trọng nông lâm nghiệp, thuỷ sản giảm, công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

8

LỚP: KTPT47B_QN



ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Cơ cấu kinh tế miền núi phía Bắc phân theo ngành kinh tế
(giá hiện hành- đơn vị %)
Nông Nghiệp
Năm 2000

Năm 2003

Năm 2005

Năm 2006

Dự kiến 2010

44.78

Công nghiệp – Xây dựng

21.24

Dịch vụ

33.98

Nông Nghiệp


40.07

Công nghiệp – Xây dựng

25.01

Dịch vụ

34.92

Nông Nghiệp

36.78

Công nghiệp – Xây dựng

27.63

Dịch vụ

35.59

Nông Nghiệp

35.04

Công nghiệp – Xây dựng

29.33


Dịch vụ

35.63

Nông Nghiệp

27.39

Công nghiệp – Xây dựng
Dịch vụ

36.10
36.51

Nguồn: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010
Định hướng phát triển đến năm 2010:
- Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng. Phấn đấu đến năm 2010 GDP
bình quân đầu người đạt từ 460-530 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến
năm 2010 dự kiến nông, lâm nhiệp và thuỷ sản khoảng 28,7-29,7%, công nghiệp
và xây dựng khoảng 27,4-27,8% và ngành dịch vụ khoảng 43-43,5%. Nâng tỷ lệ

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

9

LỚP: KTPT47B_QN



ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

lao động qua đào tạo lên 25-30%. Tỷ lệ hộ nghèo của vùng Tây Bắc giảm từ 44%
năm 2005 xuống còn 24%, vùng Đông Bắc từ 33% năm 2005 xuống 18% vào năm
2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
-

Nhiệm vụ và giải pháp phát triển một số ngành, lĩnh vực:

Về nông nghiệp: Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi nhằm
khai thác tối đa lợi thế và hiệu quả tiềm năng kinh tế. Phát triển các vùng trồng cây
công nghiệp, các loại nông sản, các loại cây dược liệu, hương liệu, cây ăn quả,
hoa, giống rau phục vụ cho thị trường nội địa và xuất khẩu, phát triển chăn nuôi ở
các vùng có điều kiện tự nhiên và khí hậu thích hợp, nhất là chăn nuôi trâu, bò
theo phương pháp kỹ thuật mới. Bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên, rừng phòng hộ,
mở rộng diện tích rừng trồng, bảo đảm phòng hộ cho thủy điện lớn... Chú trọng
phát triển trồng rừng nguyên liệu giấy theo quy hoạch. Hoàn thành việc giao đất,
giao rừng gắn với định canh, định cư; giải quyết đất ở, đất sản xuất ổn định lâu
dài.
Về công nghiệp: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La,
các nhà máy thủy điện trên hệ thống sông Đà, sông Lô, phát triển các nhà máy
thủy điện nhỏ và vừa, các nhà máy nhiệt điện chạy than. Khai thác và chế biến có
hiệu quả các mỏ khoáng sản tại vùng. Xây dựng các nhà máy sản xuất vật liệu xây
dựng, hóa chất dựa vào khả năng tài nguyên trong vùng. Xây dựng các nhà máy
giấy và bột giấy phù hợp với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu.
Phát triển công nghiệp chế biến chè, sữa, thực phẩm khác... tiếp tục mở
rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp trên địa bàn. Chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề

truyền thống.
Về dịch vụ: Ưu tiên đầu tư khai thác các điểm du lịch: Điện Biên Phủ, khu di
tích lịch sử Pắc Bó, Tân Trào, Định Hóa, Đền Hùng, Sa Pa, hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc,
lòng hồ Sông Đà... với nhiều loại hình du lịch, nhất là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và
du lịch lịch sử văn hoá sao cho vừa phát triển du lịch gắn với bảo tồn các giá trị văn
hoá và tài nguyên thiên nhiên và góp phần xoá đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, mở rộng giao lưu qua biên giới, tập
trung xây dựng cơ sở hạ tầng các khu kinh tế cửa khẩu, hình thành và phát triển
các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, vận tải, bưu chính, viễn
thông và công nghệ thông tin...
Phát triển hệ thống chợ nông thôn miền núi, chợ nông sản. Khuyến khích
các thành phần kinh tế hợp đồng tiêu thụ nông sản, lâm sản cho nông dân và xuất
khẩu.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

10

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

(Trích: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 cụ thể hoá
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng)
Mức sống bình quân của Thu nhập bình quân của hộ nông thôn miền núi
phía Bắc còn rất thấp (dù đã có sự tăng trưởng trong thời gian qua), chỉ đạt 2,32

triệu đồng/người/năm, bằng 65% so với mức bình quân cả nước.
Mức sống bình quân của người nghèo trong vùng 860 nghìn đồng/ người/
năm. Như vậy thấp hơn chuẩn nghèo áp dụng chung cho các vùng núi nông thôn
10.4% tương đương là 100.000 đồng/ người/ năm.

I.3. Dân số
- Dân số
Dân số trong Vùng khoảng 15.59 triệu người sống trong vùng đất rộng lớn.
Dân số vùng Trung du miền núi Bắc Bộ tương đối đa dạng. Ngoài phần nhỏ
người Kinh còn có khoảng 30 dân tộc ít người hầu hết tập trung ở miền núi: Người
Thái, Mường, Dao, H’Mông… ở Tây Bắc, Người Tày, Nùng… ở Đông Bắc.
- Mật độ dân cư
Vùng là vùng có mật độ dân cư thưa nhất so với cả nước. Trung bình
khoảng 150 người /km2. Đặc biệt thưa thớt ở vùng núi phía Tây bắc chỉ khoảng 50
người /km2.
- Phân bố dân cư không đồng đều. Dân cư thường tâp trung đông ở các thị
xã, thị trấn nơi kinh tế tương đối phát triển và đặc biệt là các cửa khẩu, hải cảng,
nơi có điều kiện phát triển nhất vùng. Tuy nhiên ở các vùng núi sâu, thường là
đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống thì lại rất thưa thớt. Họ sống thành các
thồn bản nhỏ ở sâu trong rừng. Và họ chính là những người sống trong điều kiện
thiếu thốn về nhiều mặt với mức thu nhập dưới ngưỡng nghèo chung.
- Trình độ văn hoá của dân cư trong vùng trung bình thấp hơn so với các
vùng khác. Trình độ trung bình ở các vùng núi sâu, nơi tập trung nhiều người
nghèo nhất chỉ có trình độ văn hoá trung bình là lớp 3. Tỷ lệ người lớn biết chữ
thấp nhất trong cả nước: 50% so với tỷ lệ trung bình của cả nước là 90%. Tỷ lệ trẻ
em nhập học đúng tuổi còn thấp mặc dù nhưng năm gần đây có cải thiện song vẫn
còn là con số quá thấp so với trung bình cả nước.
-

Tự cung tự cấp


SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

11

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Người dân do sống ở nơi thiếu thông tin, trình độ phát triển thấp, trình độ
văn hoá thấp, tầm nhìn ra bên ngoài còn quá hạn chế cùng với điều kiện về giao
thông vận tải còn quá khó khăn, đặc biệt là với các đòng bào cùng núi, vùng sâu
vùng xa. Vì vậy họ chủ yếu là tự cung tự cấp trong lãnh thỏ buôn bản với nhau,
trong vùng với nhau, ít có sự thông thương với bên ngoài. Từ đó làm cho họ
không phát huy được những lợi thế của sản phẩm nông sản của họ,mặc dù trong
thực tế, trên thị trường bên ngoài các sản phẩm của họ thực sự có lợi thế cạnh
tranh ở một góc độ nào đó. Điều đó khiến cho họ không có khả năng đa dạng hoá
thu nhập.
I.3. Văn hoá
Do tính chất đa dạng của dân cư trong vùng, đa dạng về dân tộc và địa
hình tập trung dân cư của các dân tộc nên mỗi dân tộc có những tập tục khác nhau,
tạo nên sự đa dạng phong phú về văn hóa cho vùng. Đây cũng là một lợi thế để
quảng bá về vùng cho phát triển du lịch văn hóa dân tộc.
II.

THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ
II.1. Tỷ lệ nghèo, khoảng cách nghèo ở trung du miền núi Bắc Bộ


Năm 1995, các tỉnh miền núi phía Bắc bao gồm 13 tỉnh thuộc hai khu vực
Đông Bắc và Tây Bắc của đồng bằng sông Hồng. Năm 1999, con số này lên tới 19
tỉnh do việc chia tách thành các tỉnh nhỏ hơn. Sau năm 1999, các tỉnh thuộc miền
núi phía Bắc không còn những vùng đồng bằng xen kẽ như cách chia tỉnh và vùng
trước đó mà chỉ còn những vùng có độ cao từ 500 mét đến 1.000 mét so với mặt
nước biển. Bình quân đất canh tác trên đầu người ở đây rất thấp, chỉ đạt 0,17
ha/người.
Tỷ lệ đói nghèo ở miền núi phía Bắc còn rất cao với 44% (năm 2002).
Trong số mười tỉnh nghèo nhất Việt Nam (tỷ lệ đói nghèo từ 55% đến 78%) có các
tỉnh vùng núi phía Bắc. Theo chuẩn nghèo mới nêu trên, ước tính vào cuối năm
2005, cả nước có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo, chiếm 26-27% số hộ của cả nước.
Vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là Tây Bắc (62,3%), Thu nhập bình quân của hộ
nông thôn miền núi phía Bắc còn rất thấp (dù đã có sự tăng trưởng trong thời gian
qua), chỉ đạt 2,32 triệu đồng/người/năm, bằng 65% so với mức bình quân cả nước.
Mức sống trung bình của người nghèo trong vùng trung du miền núi Bắc
Bộ thấp hơn nhiều so với chuẩn nghèo chung của cả nước hiện nay là 1.878.000
đồng/ người / năm. So với chuẩn nghèo chung toàn quốc thì mức sống trung bình
của người nghèo trong vùng chỉ bằng 45.8%, Như vậy khoảng cách nghèo tương
đối so với vùng cần theo đuổi là 100.000 đồng, nhưng khoảng cách nghèo so với

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

12

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN


GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

ngưỡng nghèo chung thì còn rất lớn, tới 54.2% tương đương 1.018.000 đồng.
Người nghèo vùng trung du miền núi Bắc Bộ đang sống dưới mức chuẩn nghèo
quá nhiều. Vì vậy đây là vấn đề cần quan tâm chung cuả cả quốc gia.
Bên cạnh đó, Miền núi phía Bắc còn nhiều vấn đề khó khăn khác như hạ
tầng cơ sở yếu kém, dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn, mức độ đô thị hóa thấp và
kinh tế dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp.
Không chỉ thiếu đất canh tác trầm trọng, trình độ thâm canh của người dân
vùng này cũng rất thấp, chỉ đạt trung bình là 2,72 tấn/ha vào năm 1995 và 3,6
tấn/ha vào năm 2000. Nền kinh tế ở đây chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp
và đánh bắt cá. Các hoạt động này chiếm tới 42% GDP của vùng, trong khi khu
vực này chỉ chiếm 24% GDP của cả nước. Trong tổng số 9 triệu đồng bào các dân
tộc thiểu số có tới 2 đến 3 triệu người sống bằng cách đốt nương làm rẫy. Nếu tính
gộp cả số người du canh định cư với số du canh du cư, con số này đã lên tới 7 triệu
người vào năm 1994. Tình hình du canh du cư đã gây ra nạn phá rừng nghiêm
trọng. Giữa thập niên 90, Việt Nam chỉ còn khoảng 9 triệu héc-ta rừng. Điều này
có nghĩa là nước ta đã mất khoảng 23,5 triệu héc-ta trong khi độ che phủ tối thiểu
phải là 33,2% hay khoảng 11 triệu héc-ta. Với tất cả những khó khăn về kinh tế,
xã hội ở trên, các tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất so với các
vùng khác trên cả nước.
II.2. Nghèo đói theo vùng
Vùng núi trung du miền núi Bắc Bộ cơ bản được chia ra làm hai vùng Đông
Bắc bộ và Tây Bắc. Mức độ nghèo đói và tỷ lệ nghèo đói trong hai vùng này cũng
có sự chênh lệch đáng kể.
Các tỉnh Tây Bắc có tỷ lệ nghèo đói cao hơn so với các tỉnh miền núi phía
Đông Bắc. Một trong 10 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất nước có đến 6 tỉnh thuộc
vùng núi Bắc bộ, trong đó 4 tỉnh Tây Bắc có tỷ lệ cao hơn cả. Nghèo đói được
phân bố đông đảo ở các tỉnh vùng núi cao. Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hoà
Bình, Lào Cai, Hà Giang là 6 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất vùng, con số này lên

đến 55 – 78%. Các tỉnh vùng núi thấp và trung du tỷ lệ nghèo đói tuy cao so với
trung bình cả nước song thấp hơn nhiều so với các tỉnh vùng núi cao. Và đời sống
của người nghèo vùng núi cao cũng thấp hơn nhiều so với người nghèo vùng núi
thấp và trung du. Tức là khoảng cách nghèo mà họ cần theo đuổi để thoát nghèo
còn lớn hơn nhiều so với vùng thấp. Đặt ra nhiều khó khăn hơn cho người nghèo
và các nhà chức trách trong việc đưa người nghèo thoát nghèo.
Ở các vùng miền núi, nơi tỷ lệ đói nghèo còn rất cao, việc phát triển cây
trồng đảm bảo an ninh lương thực của các hộ là vấn đề thiết yếu. Nhờ sự hỗ trợ
đầu tư của Nhà nước, của tỉnh nên tỷ lệ các hộ miền núi có thể tự túc lương thực

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

13

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

chiếm khá lớn. Có tới trên 60% số hộ khảo sát có thể sản xuất lương thực để nuôi
cả gia đình trong cả năm. Mặt khác, 11% cho rằng lương thực của họ chỉ đủ trong
6 tháng hoặc ít hơn.
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là có tới 11% số hộ bị đói 6 tháng còn
lại vì chỉ tiêu này chỉ cho chúng ta thấy mức độ tự cung tự cấp lương thực của hộ.
Chẳng hạn như, một gia đình có khoản thu nhập phi nông nghiệp ổn định, ví dụ
giáo viên hay cán bộ Nhà nước, có thể không sản xuất ra nhiều lương thực cho
mình, nhưng họ vẫn có khả năng bảo đảm đủ lương thực.
II.3. Nghèo đói theo dân tộc

Vùng có khoảng 30 dân tộc khác nhau sinh sống ở các vùng khác nhau. Các
dân tộc ít người thường là các dân tộc có tỷ lệ nghèo đói cao. Do tập tục sinh hoạt
và sinh sống của các dân tộc thường là sống ở nơi heo hút ít người hoặc nơi có độ
cao mà họ cho là phù hợp với văn hóa và đời sống của họ. Song đó lại là nơi gây
nhiều khó khăn cho họ trong việc cải thiện đời sống. Có những dân tộc ít người
sống tập trung trên một vùng sâu, đời sống của toàn bộ dân tộc trong tình trạng
nghèo.
III.

CÁC CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÙNG TRUNG DU
MIỀN NÚI BẮC BỘ

Những năm qua Đảng và Nhà nước đã tiến hành song song việc đầu tư
nhiều mặt cho đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc nói riêng và đồng bào dân
tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, vùng xa nói chung bằng các chương trình cụ thể
như Chương trình 135, 773, 120, 134... nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
giúp đồng bào xóa đói, giảm nghèo. Chính quyền các tỉnh vùng núi phia Bắc đã
phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tốc độ điều tra tài nguyên
đất, nước, rừng, khoáng sản..., trong đó tập trung vào việc quy hoạch, phân bố lại
đất canh tác, đất ở thuận tiện cho việc sinh sống, sản xuất của bà con. Các cụm dân
cư tập trung được hình thành với điều kiện có đủ đất, gần nguồn nước, thuận tiện
cho việc mở đường giao thông, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
III.1. Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói và giảm nghèo
Từ năm 2001, Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và
việc làm đã được hình thành. Từ 2002 việc triển khai thực hiện Chiến lược toàn
diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo đã được tăng cường và lồng ghép vào
các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội hàng năm và 5 năm.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG


14

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Nhóm các dự án Xoá đói giảm nghèo chung:
+ Dự án Tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh.
+ Dự án Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư.
+ Dự án Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt (vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng
ATK, vùng sâu đồng bằng sông Cửu Long).
- Nhóm các dự án Xoá đói giảm nghèo cho các xã nghèo nằm ngoài chương
trình 135:
+ Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo.
+ Dự án Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo.
+ Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo và cán
bộ các xã nghèo.
+ Dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo
(bao gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại
dân cư theo quy hoạch; các dự án của chương trình 773 cũ thuộc ngành nông
nghiệp.
+ Dự án Định canh định cư ở các xã nghèo. (Các xã đặc biệt khó khăn được
tiếp tục thực hiện các dự án thuộc chương trình 135 "Phát triển kinh tế - xã hội các
xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng
xa" - chương trình Xoá đói giảm nghèo đặc biệt của Chính phủ - do ủy ban Dân tộc

và Miền núi là cơ quan thường trực.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo vừa đáp ứng nhu
cầu của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân nghèo trung du miền núi Bắc
Bộ, vừa phù hợp mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.Trong
những năm qua, Người nghèo trong vùng không những được hỗ trợ trong sản xuất,
cải thiện mức sống, còn được giúp đỡ chăm sóc sức khỏe, học hành, tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản.
Phát triển cơ sở hạ tầng, các trung tâm cụm xã, buôn làng, quy hoạch bố trí
lị dân cư đã cơ bản tốt. Đẩy mạnh phát triển nông, lâm nghiệp. Góp phần lớn trong
công tác từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống vật chất và tinh thần giữa các
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và giữa các đồng bào dân tộc thiểu số trong vùng.
Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho hầu hết các hộ gia đình, cá nhân
và tổ chức ở vùng các dân tộc thiểu số, nơi mà người nghèo còn tập trung chủ yếu.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

15

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Nâng cao năng lực, nhận thức từ các ngành, cá tổ chức và các người dân về
xoá đói giảm nghèo, tăng cường và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm
công tác xoá đói giảm nghèo ở cá xã, huyện đặc biệt là các tỉnh vùng sâu vùng xa.
Tăng cường trang bị kiến thức pháp luật cho người nghèo. Huy động sự tham gia
của các tổ chức, đoàn thể trong thực hiện chương trình quốc gia về xoá đói và

giảm nghèo.
Trong những năm gần đây, chương trình đã thực hiện khá tốt các mục tiêu
đặt ra bằng các chương trình hành động thiết thực. Chương trình đầu tư vào giáo
dục nhằm tăng trình độ văn hóa và xoá mù chữ cho người nghèo trong vùng đã đạt
thành quả đáng kể. Cụ thể được thực hiện kết hợp với chương trình 135 đã cung
một lượng trường học đáp ứng nhu cầu cơ bản về cơ sở hạ tầng cho giáo dục.
Hàng loạt các công trình điện, đường, trường, trạm… được đưa vào phục vụ bà
con dân tộc và các xã nghèo đói, đặc biệt khó khăn trong vùng.
Chương trình quốc gia về xoá đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 thực
hiện ở vùng núi Bắc Bộ đã rất thành công, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo từ 65% năm
2001 xuống còn 58% vào cuối năm 2004, và còn 52% năm 2007.
Bên cạnh những tích cực mà chương trình mang lại cho vùng, chương trình
mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo thực hiện trong vùng gặp không ít những
nhược điểm khiến chương trình chưa thực sự là hiệu quả như kế hoạch đề ra. Như:
Do đầu tư dàn trải, triển khai chậm, chưa đồng bộ, thiếu phối hợp và liên
kết đã làm hiệu quả nhiều chương trình chưa cao, tiến độ thực hiện các dự án sử
dụng vốn Nhà nước còn rất chậm, các thông tư liên tịch của 5 bộ hướng dẫn các
địa phương triển khai, nhưng vẫn chưa đồng bộ.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, trung du và miền núi phía Bắc chưa
có sản phẩm công nghiệp mũi nhọn mang tính chiến lược, quy mô sản xuất manh
mún, công nghiệp nông thôn chậm phát triển, sự phối hợp ngành, vùng chưa chặt
chẽ,... Nguyên nhân có nhiều nhưng sự bất cập về cơ chế, chính sách quy hoạch
được xác định là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự chậm phát triển của
công nghiệp ở địa bàn này.
Rất hy vọng trong thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo quyết liệt những vấn đề
trên; các bộ ngành có sự phối hợp đồng bộ với nhau và với các địa phương để
chính sách và đồng vốn của Nhà nước đem lại hiệu quả cao hơn, chủ trương và
mục tiêu của Đảng sớm thành hiện thực, khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng
được rút ngắn trong thời gian gần nhất.


SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

16

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

III.2. Chương trình 135
Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vẫn đang
tiếp tục được thực hiện và đóng góp lớn trong việc nâng cao đời sống đồng bào
các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào miền núi Bắc Bộ nói riêng.
Chương trình đã đảm bảo đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng lợi từ
thành quả của quá trình phát triển. Đưa các công trình thiết yếu về các thôn bản,
xã tương đối kịp thời và đẩy đủ.
Sau 8 năm (1999-2007) thực hiện Chương trình 135 (Chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi,
biên giới và vùng sâu, vùng xa),chương trình đã xây dựng được 8.208 công trình;
trong đó có 3.950 công trình giao thông, 1448 công trình thuỷ lợi, 2.810 trường
học...
Cùng với việc lồng ghép các chương trình, dự án khác, trên địa bàn Chương
trình 135 có 70% số xã đã xây dựng 5 hạng mục công trình chủ yếu: đường, điện,
trường học, thủy lợi nhỏ, trạm xá và 56% số xã đã dựng đủ 8 hạng mục theo quy
định. Điều đặc biệt là chỉ riêng các công trình thuỷ lợi đã tăng năng lực tưới cho
hơn 20.000ha đất canh tác và gần 5.000ha đất được khai hoang. Nhờ đó, giúp các
xã đặc biệt khó khăn ở vùng trung du miền núi Bắc Bộ ổn định lương thực và nâng
mức bình quân lương thực từ 290kg lên 384kg/người/năm; thậm chí có nhiều xã

đã lên đến 500 kg/người/năm.
Những công trình này đã góp phần làm thay đổi nhanh và cơ bản bộ mặt
nông thôn, miền núi của các xã thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 tại vùng.
Đây thực sự là lực lượng vật chất to lớn, góp phần thúc đẩy nhanh công tác xoá
đói giảm nghèo cho vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo trung
bình ở khu vực đặc biệt khó khăn chỉ còn khoảng 52% so với trước năm 1998 (60
- 72%); về cơ bản không có hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 10-13% hộ
nghèo.
Tuy nhiên, Chương trình 135 đã không tránh khỏi những hạn chế. Đó là
việc thực hiện chưa tốt nguyên tắc dân chủ, công khai, xã có công trình, dân có
việc làm, nhất là ở các tỉnh Tây Bắc. Tại một số thôn bản, công tác quy hoạch
chưa tốt; việc lập báo cáo đầu tư, thiết kế, dự toán, giải ngân và thanh toán công
trình còn chậm, và đặc biệt chậm ở Lai Châu, Bắc Kạn, Điện Biên và Hà Giang.
Việc phân cấp quản lý đầu tư cũng chưa mạnh, nhất là giao xã làm chủ đầu tư.
Đến nay, một số tỉnh còn tùy tiện trong bố trí ngân sách Trung ương cho một số xã
với mức quá thấp như một số xã của tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lạng Sơn... Quá trình
thực hiện, công tác quản lý tài chính, chất lượng công trình có nơi chưa tốt, một số
công trình không phát huy hiệu quả, hư hỏng phải sửa chữa tốn kém, ảnh hưởng
xấu đến dư luận xã hội. Bộ trưởng Ksor Phước cho rằng, khâu yếu kém nhất vẫn là

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

17

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN


việc quản lý các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn Chương trình 135. Điều này làm
cho việc đánh giá hiệu quả tổng hợp, chất lượng công trình và mức độ thất thoát
vốn rất khó, không tránh được tiêu cực.
Chương trình mới chỉ tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, do đó, chưa thể
đưa đồng bào vượt qua được đói nghèo. Tại nhiều địa phương, tỷ lệ đói nghèo còn
cao (phần lớn các xã thuộc Chương trình 135 còn tỷ lệ đói nghèo 30%, con số này
ở nhiều xã lên tới 50-60%!). Vì thế, kết quả đạt được chưa toàn diện, chưa vững
chắc, dễ bị tái nghèo.
Cho đến thời điểm này, tỷ lệ sử dụng trạm y tế xã ở miền núi phía Bắc vẫn
thấp nhất trong cả nước. Theo khảo sát của Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ Y tế,
trung bình mỗi trạm y tế ở vùng núi phía Bắc chỉ khám, chữa bệnh cho khoảng 10
người dân/ ngày, con số này chỉ bằng một nửa ở vùng đồng bằng. Khảo sát này
cũng cho thấy tại 7 tỉnh miền núi, khó khăn khu vực Tây Bắc, hầu hết các bệnh
viện tuyến huyện, tỉnh đều rất thiếu trang thiết bị y tế. Cụ thể, theo danh mục Bộ Y
tế quy định về trang thiết bị bệnh viện tuyến huyện phải có trên 200 loại nhưng
trên thực tế nhiều nơi chỉ có vài thiết bị hoạt động tốt, còn lại đều là thiết bị cũ, lạc
hậu và không đồng bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng điều trị.
III.3. Các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo khác có liên
quan và tác động tích cực đến công tác xoá đói giảm nghèo vùng trung du
miền núi Bắc Bộ
Công tác định canh, định cư đối với đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đời sống nhân dân vùng cao chậm phát
triển, trong đó có công tác định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số
chưa tốt. Phương thức sản xuất lạc hậu, phổ biến vẫn là phát, đốt rừng làm nương
rẫy. Sau vài năm trồng tỉa cây lương thực, đất đai bị bạc màu, năng suất thấp,
người dân lại kéo đi nơi khác, tiếp tục phá rừng, đốt nương làm rẫy mới. Tình
trạng ấy diễn ra từ bao đời nay dẫn đến nguồn nước bị cạn kiệt, rừng đầu nguồn bị
tàn phá không đủ sức ngăn những cơn mưa lớn, những trận lũ quét làm cho đất đai

bạc màu là điều khó tránh khỏi.
Trước thực trạng trên, Chính phủ đã có chương trình và chính sách khuyến
khích định canh định cư. Tuy nhiên, công tác định canh, định cư còn nhiều bất cập
như đầu tư thiếu đồng bộ, số hộ cần định canh, định cư còn nhiều. Khi sắp xếp, bố
trí dân cư chưa thỏa đáng các yếu tố, đặc điểm về văn hóa, điều kiện về đất sản
xuất, nước sinh hoạt... nên đồng bào không thật sự yên tâm với nơi ở mới. Hoàn
chỉnh phương án phát triển sản xuất ở các khu tái định cư của đồng bào phải di
chuyển phục vụ xây dựng các công trình thủy điện lớn như Sơn La, Tuyên Quang.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

18

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Bộ cũng đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi, nâng cao diện tích được
tưới tiêu, cải tạo môi trường, cải tạo đất... Riêng các tỉnh Tây Bắc đã xây dựng
được 15 nghìn công trình thủy lợi, với 4.200 km kênh mương tưới nước cho
84.500 ha lúa chiêm, 139.160 ha lúa mùa, hàng nghìn héc-ta rau màu và cấp nước
sinh hoạt cho nhân dân vùng cao.
Để giải quyết cơ bản vấn đề đói nghèo ở miền núi, vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số, Nhà nước và các địa phương phải đặc biệt quan tâm làm tốt công tác
quy hoạch, bố trí sắp xếp khu dân cư, thực hiện định canh, định cư vững chắc.
Lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư có trọng điểm, xây dựng các mô hình về định
canh, định cư như các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái đã làm khá tốt. Đẩy mạnh

việc khai hoang các diện tích ở vùng thung lũng, phát huy sự sáng tạo của đồng
bào dân tộc thiểu số trong việc phát triển diện tích ruộng bậc thang, vừa bảo đảm
tăng diện tích lúa nước, vừa chống xói mòn... Đó là những giải pháp khả thi, đã
thành công ở nhiều vùng, cần được nhân rộng ở địa bàn các tỉnh vùng cao.
Thời kỳ đổi mới đem lại những kinh nghiệm quý báu cho công tác vận
động định canh, định cư. Những nhân tố kỹ thuật mới như: giống, phân hóa học,
thuốc trừ sâu... đã cho phép một số người dân miền núi không chỉ thâm canh trên
ruộng nước mà cả trên nương rẫy. Mặt khác, cơ chế thị trường duy trì đều đặn các
hoạt động trao đổi kinh tế giữa miền núi và miền xuôi là yếu tố kích thích tới nền
sản xuất nông nghiệp miền núi. Các loại lương thực như: ngô, khoai, sắn hay đậu
tương đã trở thành hàng hóa đem lại cơ hội phát triển bền vững cho nông nghiệp
vùng đất dốc. Chính sách đầu tư phát triển ưu tiên cho miền núi của Nhà nước
như: các chương trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển kết cấu hạ tầng lồng ghép
với dân số, y tế và giáo dục tạo nên những hiệu quả tổng hợp, làm thay đổi đáng
kể tình hình kinh tế, xã hội nông thôn miền núi.
Hay các chương trình hỗ trợ vốn cho nông dân, người nghèo các tỉnh trung
du miền núi phía Bắc để phát triêể chăn nuôi, trồng trọt, khôi phục ngành nghề
cũng được quan tâm thực hiện với các hình thức chovay ưu với lãi suất ưu đãi, ưu
đãi thời hạn trả lãi, trả gốc… Con số này chiếm không nhỏ trong Ngân sách nhà
nước. Cụ thể là hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội phát triển rộng rãi trong
vùng, về đến từng xã vùng cao. Và các tổ chức tín dụng về từng thôn bản tư vấn
và cho vay giúp phát triển ngành nghề, nâng cao đời sống các thôn bản khó khăn
vùng cao Tây Bắc.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

19

LỚP: KTPT47B_QN



ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT NGHÈO ĐÓI Ở TRUNG DU
MIỀN NÚI BẮC BỘ
I.

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÙNG
TRUNG DU MIỀN NÚI BẮC BỘ ĐẾN NĂM 2020

I.1. Định hướng công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng Trung du miền
núi Bắc Bộ đến năm 2020
Tập trung thực hiện tốt chương trìnhmục tiêu quốc gia về giảm nghèo,
chương trình 135 và các chương trình mục tiêu khác. Thường xuyên củng cố thành
quả xoá đói giảm nghèo trên vùng. Để thực hiện mục tiêu trên cần sử dụng nguồn
lực của nhà nước và toàn xã hội. Đặc biệt quan tâm đến các nghèo ở các dân tộc ít
người, vùng sâu vùng xa.
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, hỗ trợ giúp đào
tạo nghề, kỹ thuật sản xuất, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và giúp đỡ
tiêu thụ sản phẩm đối với các xã, buôn, bản nghèo. Từng bước đầu tư nâng cao
dân trí và sức khoẻ cộng đồng.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên
làm giàu chính đáng và đặc biệt giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối
với các đối tượng không có khả năng lao động, khongo có người phụng dưỡng.
Thực hiện các chương trình hỗ trợ cho giáo dục đối với người nghèo như: nhận trợ
cấp, miễn giảm học phí…
I.2. Mục tiêu trong công tác xoá đói giảm nghèo ở vùng Trung du miền
núi Bắc Bộ

Các chỉ tiêu chủ yếu hướng đến trong giai đoạn 2006-2020









Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,85 lần so với 2005
Các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn, nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu
3 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi
2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư
0.6 triệu người được miễn giảm phí học nghề
15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm
9 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, tiền xây dựng trường
200 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

20

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN


(Nguồn: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, tháng 9-2005 : Chương trình mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006–2010)
Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản vùng không còn hộ nghèo. Cơ bản xoá
nghèo đói trên lãnh thổ vùng. Đưa người nghèo thoát khỏi giặc đói và giặc dốt.
Phấn đấu về cơ bản nâng cao trình độ dân trí cho vùng.bình quân mỗi năm giảm
1,5 - 2% ; không để tái đói kinh niên, các xã, thôn bản nghèo có đủ cơ sở hạ tầng
thiết yếu cơ bản;
Mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ trẻ em nhập học đúng tuổi đạt 98%, tỷ lệ
người lớn biết chữ cũng tăng. Tiến tới phổ cập giáo dục cấp 2 trên toàn vùng.
Tăng tuổi thọ bình quân và giảm tỷ lệ chết yểu ở trẻ em.
Đưa vùng trở thành một đầu mối kinh tế quan trọng trong giao thương kinh
tế với các nước láng giềng. Nâng cao vị thế và tiếng nói của người nghèo, của
đồng bào dân tộc thiểu số trong xã hội. Tạo ra một cơ chế công bằng trong sân
chơi chung, không có sự phân biệt sân chơi giữa các nhóm người, các tộc người,
giúp họ có cơ hội làm giàu chính đáng sau khi thoát nghèo.
II.

GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI
BẮC BỘ ĐẾN NĂM 2020
II.1. Thúc đẩy phát triển vùng

Thúc đẩy phát triển vùng có nhiều phương thức cũng như con đường khác
nhau để đưa vùng đi lên. Song dưạ vào thực tế và lợi thế của vùng là có khí hậu
mát mẻ, địa hình núi non trùng điệp đã từng là khó khăn lớn cho vùng song cũng
nhờ thế mà ban tăng cho vùng một vẻ đẹp riêng không phải nơi đâu cũng có. Khí
hậu trong lành cùng với sự phong phú về văn hoá dân tộc. Chính phủ ta đã quyết
định “phát triển du lịch cộng đồng đi đôi với công tác xoá đói giảm nghèo ở trung
du miền núi Bắc bộ. Với cá tiêu chí và mục tiêu: Đảm bảo vă hoá, thiên nhiên bền
vững; Có sở hữu cộng đồng; Thu nhập giữ cho cộng đồng; Nâng cao nhận thức
cho cộng đồng; Tăng cường quyền lực cho cộng đồng; Tăng cường quyền lực cho

cộng đồng và các cơ quan quản lý nhà nước. Thông qua đó cộng đồng dân cư
được hưởng lợi ích về mặt vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch cộng đồng
mang lại.
Phát triển du lịch cộng đồng tại Sín Chải, Sa Pa – Lào Cai.
Bản Sín Chải cách thị xã Sa Pa khoảng 4 km nằm trên sườn núi thuộc dãy
Hoàng Liên Sơn. Với những rừng nguyên sinh bạt ngàn và hệ sinh thái đa dạng và
quý hiếm. Cư dân sống ở đây chủ yếu là người H’Mông và có khoảng 120 hộ gia
đình. Cuộc sống của họ chủ yếu là du canh du cư, canh tác nương rấy và khai thác

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

21

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

các sản phẩm từ rừng. Với văn hoá lâu đời có bản sắc riêng như phong tục tập
quán, tín ngưỡng riêng, tin vào sức mạnh siêu nhiên như các ma rừng, ma nhà, ma
cột; kho tàng về các điệu múa, các bài hát của dân tộc mình; hàng thủ công mỹ
nghệ khá phong phú với bản sắc của người H’Mông. Sa Pa nói chung và bản Sín
Chải nói riêng, điều kiện tài nguyên và khí hậu tốt, thuận lợi cho phát triển du lịch.
Hàng năm đã thu hút một lượng du khách lớn . Theo số liệu của phòng thương mại
và du lịch Sa Pa thì năm 2006 Sa Pa đón được 239.231 lượt khách trong đó khách
quốc tế là 69071 lượt khách. Cùng với sự gia tăng của khách du lịch đến Sa Pa thu
nhập từ du lịch và lợi ích kinh tế đã tăng lên.
Năm 2001, tổ chức phát triển Hà Lan và tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế

đã xây dựng một chương trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Sìn
Chải trong khuôn khổ dự án “ Tăng cường năng lực cho các sáng kiến về du lịch
bền vững”. Muc tiêu cuả dự án là thúc đẩy cộng đồng tham gia các dịch vụ du lịch
nhằm góp phần phát triển cộng đồng, bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn
các giá trị văn hoá cộng đồng, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân, góp phần
đáng kể vào công tác xoá đói giảm nghèo cho vùng.
Phát triển du lịch cộng đồng tại bản Lác Mai Châu – Hoà Bình.
Bản Lác là một bản miền nú thuộc huyện Mai Châu, cách thị xã Hoà Bình
60 km, là nơi cư trú chủ yếu của người dân tộc Thái trắng. Người Thái trắng sinh
sống ở bản Lác đã có một nền văn hoá lâu đời và đến nay vẫn còn giữ được nhiều
nét văn hoá đặc trưng như: trang phục của người phụ nữ Thái tinh tế, quyến rũ.
Cộng đồng người Thái trắng sống rất ngăn nắp và giàu lòng hiếu khách. Có dốc
Cun dài 12 km, đèo Nhung Thuối,… Năm 1994, nhờ sự chú ý và quan tâm của các
công ty lữ hành, bản Lác trở thành một điểm nóng du lịch. Ở đây mỗi hộ tự tổ
chức các công việc để phục vụ đón khách. Về tài chính thu được từ hoạt động du
lịch, các cấp chính quyền thu từ tiền bán vé và 10% nguồn thu của người dân.
Nhìn chung hoạt động phát triển du lịch tại bản Lác Mai Châu tuy có sự tham gia
cung cấp dịch vụ cho du khách nhưng diễn ra tự phát của cộng đồng chưa có sự hỗ
trợ của nhà nước trong đầu tư và định hướng phát triển theo những nguyên tắc của
du lịch cộng đồng.
Phát triển du lịch cộng đồng là một phương thức phát triển phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại. Trong đó trách nhiệm và lợi ích cộng đồng là vấn đề
trung tâm có tính then chốt. Phát triển du lịch cộng đồng là một giả pháp xoá đói
giảm nghèo hiệu quả có ý nghĩa cả về kinh tế lẫn xã hội sâu sắc. Phát triển du lịch
cộng đồng với xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững tồn tại một mối quan hệ
cộng sinh rất biện chứng. Là quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn lẻ đến
phối hợp liên kết mang tính hệ thống, từ tự phát đến tự giác, có tổ chức liên kết
với nhiều thành phần tham gia thì mới hiệu quả.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG


22

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Đứng trước lợi thế của vùng cho du lịch sinh thái và những lập luận và thực
tế. Du lịch của vùng đang nằm trong tình trạng phát triển tự phát và không có tổ
chức chặt chẽ. Trong năm ba vừa qua(từ năm 2005), chính phủ ta cũng đã có
những tác động tích cực, từng bước đưa du lịch trở thành du lịch cộng đồng và có
tổ chức, có đầu tư từ các tổ chức du lịch, từng bước đưa việc cung ứng dịch vụ du
lịch trong vùng từ tự phát sang tự giác và phát triển hơn nữa trong tương lai.
Và cũng đã đạt được thành tựu đáng kế trong xoá đói giảm nghèo từ chính
sách phát triển vùng, phát triển du lịch cộng đồng. Được cộng đồng quốc tê đánh
giá cao. Giảm nghèo chung trong toàn vùng là 50% trong đó đóng góp của phát
triển du lịch cộng đồng là 20%. Như vậy, với phương thức phát triển du lịch cộng
đồng là công cụ hữu hiệu để xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, vùng còn gặp nhiều
thách thức và rào cản lớn mà cần sự chung tay góp sức của các tổ chức từ bên
ngoài và đặc biệt là sự ho trợ từ phía chính phủ về cả taì chính và cơ chế, chính
sách.
Đó là vấn đề thiếu nguồn lực để phát triển: nguồn lực về tài chính để phát
triển cơ sở hạ tầng ở vùng sâu vùng xa, thiếu nguồn nhân lực có trình độ tại cộng
đồng để tham gia bàn bạc và quản lý quá trình phát triển du lịch cộng đồng tại địa
phương như một đối tác bình đẳng.Vì mang tính chất đa thành phần kinh tế, đa
phương thức đầy tư và quản lý, có sự cân bằng quyền lực bên trong cộng đồng,
cân bằng lợi ích của các nhóm xã hội bên trong và bên ngoài cộng đồng.

Thứ hai là sản phẩm du lịch cộng đồng và cộng đồng du lịch địa phương
chưa đủ mạnh trên thị trường do không đủ khả năng đàm phán với các nhà đầu tư
và các đối tác. Do đó không đủ khả năng để tiếp cận với thị trường du lịch.
Khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường du lịch là hạn chế. Trong điều
kiện bình thường cũng chưa đủ khả năng cung ứng các dịch vụ vận chuyển, lưu
trú, ăn uống chứ chưa đề cập đến mùa cao điểm du lịch.
Do vậy trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đã
đặc biệt quan tâm đề cập đến vùng trung du miền núi Bắc bộ, vùng sâu vùng xa.
Lồng ghép kế hoạch phát triển du lịch với xoá đói giảm nghèo, hướng vào các tiêu
chí và các ngyên tắc phát triển du lịch cộng đồng là điều có ý nghĩa quan trọng
trong phát triển vùng và xoá đói giảm nghèo
II.2. Tăng cường đầu tư vốn nhà nước vào vùng
Việc tăng cường vốn đầu tư nhà nước vào vùng là một nhu cầu thiết yếu và
cấp thiết. Một trong những lý do khiến cho tỷ lệ nghèo đói của vùng cao là do
chưa nhận được mức đầu tư xứng đáng để tạo cơ hội cho sự phát triển.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

23

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Cùng với những khó khăn về địa hình và thời tiết …Vùng đã không phải là
điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì vậy để có thể phát
triển vùng, đưa nhân dân thoát nghèo, không còn phương thức nào tốt hơn là nhà

nước phải hi sinh năng lực đầu tư cho các khu vực khác để đầu tư thúc đẩy phát
triển vùng.
Vùng còn nghèo, còn kém phát triển do trình độ quản lý còn kém, trình độ
văn hoá kém, năng lực và tiếng nói trong xã hội thấp. Nhà nước cần đầu tư vào cả
các lĩnh vực nhằm mục tiêu phát triển năng lực con người. Tuy nhiên yêu cầu
trước mắt là các nhu cầu về cơ sở hạ tầng, các công trình phục vụ sản xuất còn quá
thiếu thốn. Với địa hình dốc, các hộ sản xuất ở vùng cao thường bị thiếu nước tưới
tiêu trong mùa khô. Phần lớn hộ gia đình cho biết năng suất cao hơn là yếu tố quan
trọng trong việc nâng cao thu nhập. Thực tế cho thấy hiện nay tăng năng suất là
yếu tố quan trọng nhất quyết định tăng thu nhập trồng trọt. Năng suất tăng lên
chính là nhờ sự phát triển hệ thống thủy lợi, quản lý nước, cải thiện hệ thống
giống, phương pháp canh tác sản xuất và sự đầu tư thâm canh của các hộ.
Đầu tư cho giáo dục tăng để là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm tăng
năng suất lao động và tăng trình độ văn hoá, dân trí của vùng. Có các chính sách
ưu tiên xứng đáng cho đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy trong vùng, đặc
biệt là vùng sâu vùng xa.
Đầu tư cho phát triển hoạt động sản xuất phi nông nghiệp cũng là vấn đề
đáng quan tâm của nhà nước đối với vùng. Thực tế cho thấy không phải tất cả
những đầu tư của chính phủ vào vùng đều chỉ đạt được mục đích xã hội mà về mặt
kinh tế chính phủ ta cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đầu tư.
Chính phủ đầu tư vào vùng vừa giải quyết được vấn đề việc làm cho vùng, nâng
cao đời sống cho vùng mà còn khai thác được các lợi thế của vùng và tạo phúc lợi
xã hội và kinh tế không chỉ cho vùng mà cho toàn quốc gia. Như công trình thuỷ
điện Sông Đà thuộc tỉnh Hoà Bình, hay mới đây là công trình thuỷ điện Sơn La
thuộc tỉnh Sơn La được đầu tư xây dựng tạo nên môi trường hoàn toàn mới cho
vùng. Đồng thời tạo ngoại ứng tích cực trong công tác tưới tiêu cho nông nghiệp
và lâm nghiệp, hạn chế được phần nào tác hại của bão lũ thường xuyên sảy ra
trong vùng. Hay các công công ty nhà nước được đầu tư hỗ trợ tiêu thụ, chế biến
các sản phâm nông – lâm. Các nhà máy hóa chất, luyện gang thép trong vùng khai
thác lợi thế về nguồn tài nguyên, khai thác lợi thế của vùng.

II.3 Tăng thu nhập cho vùng
Các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc hàng năm luôn phải đối mặt với
tình hình khô hạn, mặc dù là nơi đất rộng người thưa nhưng cuộc sống của đồng
bào các dân tộc nhìn chung còn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo đói vẫn rất cao.

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

24

LỚP: KTPT47B_QN


ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật là giải pháp
tối ưu để phát triển sản xuất nông nghiệp…
Mới đây tại Yên Bái, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã mở hội
nghị chuyên đề: “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng kỹ thuật trồng trọt phù
hợp với điều kiện khô hạn các tỉnh miền núi phía Bắc” nhằm tăng thu nhập cho
người dân trong vùng giúp họ thoát nghèo đói.
Trong những năm qua diện tích lúa toàn vùng vẫn ổn định 705.000 ha,
những giống lúa phổ biến vẫn là giống lúa lai: San ưu 63, Nhị ưu 838, D.ưu 527
và các giống kỹ thuật: IR 64, KD 18, Q5, VL 20… Diện tích ngô là 385.000 ha,
mỗi năm tăng trung bình 13.000 ha, các tỉnh có diện tích ngô lớn như: Sơn La, Hà
Giang, Cao Bằng… nhiều giống ngô lại có năng suất cao: LVN 10, CP 888, CP
999, B9698, NK4300, DK 414… đã mang lại thu nhập cao, góp phần không nhỏ
xoá đói giảm nghèo cho người dân. Cây sắn với diện tích 94.000 ha, mỗi năm tăng
2.000 ha chủ yếu ở những tỉnh có các nhà máy chế biến như Yên Bái, Lào Cai,

nhất là giống sắn có năng suất cao.
Nhìn vào 3 loại cây trồng chủ yếu đó, sản lượng lúa tăng khoảng 40.000
tấn, tương đương 50 kg thóc/ha trong hai năm là rất thấp, trong khi đó diện tích
ngô và sắn tăng trên 15.000 ha/năm chủ yếu là trên đất gò đồi, ruộng một vụ, soi
bãi… lại chống chịu được hạn tốt. Trong 5 năm qua từ 2000 – 2005 việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng ở các địa phương trong toàn vùng đã diễn ra khá nhanh, diện
tích lúa tăng 3,2 %, tương đương 22.500 ha, do các công trình thủy lợi được xây
dựng, diện tích nước tưới chủ động được nâng lên. Trong khi đó diện tích ngô tăng
31,3 % đậu tương tăng 68,8 %, hoa và rau các loại tăng 27,6%, cây ăn quả và chè
tăng 44 – 50 %... Mỗi địa phương đã phát huy thế mạnh của mình để gieo trồng
những cây giống phù hợp, tỉnh Lào Cai đã xây dựng và triển khai xây dựng vùng
rau sạch, hoa các loại ở huyện Sa Pa, dứa Qeen, thuốc lá huyện Mường Khương,
cây ăn quả ôn đới ở huyện Bắc Hà với diện tích vài nghìn ha. Hiện nay nhiều hộ
đã có thu nhập cao từ 200 – 350 triệu đồng/ năm. Tỉnh Bắc Giang đã tiến hành cải
tạo được 40 ha vải giống chín sớm, dự kiến đến năm 2010 cải tạo 8.000 ha. Tỉnh
Quảng Ninh cũng trồng mới 220 ha vải chín sớm trong tổng số 6.000 ha vải, tỉnh
Thái Nguyên đang thực hiện công thức: Dưa chuột vụ xuân + lúa mùa sớm + dưa
chuột vụ đông trên diện tích 9.000 ha đã cho hiệu quả kinh tế, tỉnh Tuyên Quang
xây dựng vùng mía ổn định năng suất cao với diện tích 6.800 ha và 6.000 ha chè
đang xây dựng vùng chuyên canh lạc hàng hoá ở các huyện Chiêm Hoá, Sơn
Dương, Yên Sơn, vùng cam đặc sản Hàm Yên…
Sản xuất cây ăn quả, có tới 12% số hộ cho rằng đây là nguồn thu nhập quan
trọng nhất. Chăn nuôi cũng là nguồn thu nhập tương đối quan trọng của các hộ
miền núi. Trong những năm vừa qua, chăn nuôi lợn và gà thả vườn ngày càng phát

SV: NGUYỄN THỊ HỒNG

25

LỚP: KTPT47B_QN



×