Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận thực trạng giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.16 KB, 36 trang )

LI M U
Kinh tế trang trại xuất hiện trong quá trình đổi mới ở nớc ta và đang đợc
phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay, mặc dù mới ở bớc khởi đầu, song
mô hình kinh tế này đã sớm khẳng định đợc vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn. Kinh tế trang trại
hiện đang là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá chủ yếu trong nền nông nghiệp
Việt Nam.
Sự tạo lập và phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu trong quá trình phát
triển kinh tế của đất nớc. Tuy nhiên, để hình thành và phát triển nó nh thế nào
cho thuận lợi, đem đến hiệu quả cao nhất và phù hợp với định hớng XHCN của
nền kinh tế mà Đảng và Nhà nớc ta đã xác định lại là một vấn đề đòi hỏi đợc
quan tâm nghiên cứu và giải quyết của các ngành, các cấp và của mọi ngời.
Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế nông nghiệp và phát triển nông
thôn, em tự thấy việc tìm hiểu về sự hình thành và quá trình phát triển của kinh
tế trang trại trong nông nghiệp nớc ta là điều thực sự cần thiết, phục vụ và tạo
điều kiện bớc đầu cho quá trình học tập, nghiên cứu và công tác của em sau này.
Những số liệu sử dụng trong bài viết có nguồn từ số liệu điều tra, khảo sát
3044 trang trại và phỏng vấn 3044 chủ trang trại và 756 cán bộ các cấp ở 15 tỉnh,
thành phố trọng điểm do trờng ĐH Kinh tế Quốc dân thực hiện tháng 5, 6, 7 năm
1999.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã hớng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành
công trình này.

1


phần I

Những vấn đề lý luận cơ bản
về kinh tế trang trại
Trong hơn một thập kỷ vừa qua, cùng với quá trình đổi mới và sự phát triển


vợt bậc của nền kinh tế, nông nghiệp nớc ta đã có một bớc tiến dài trên con đờng
phát triển của mình, đạt đợc những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt.
Từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, thờng xuyên phải nhập lơng thực, thực
phẩm từ nớc ngoài, đến nay chúng ta đã hoàn toàn tự túc đợc lơng thực, thực
phẩm, bảo đảm sự ấm no trong đời sống của nhân dân và an ninh lơng thực quốc
gia với mức độ tăng trởng trung bình năm đặt 4,3%. Năm 1997 so với năm 1987
sản lợng lơng thực tăng 1,8 lần, cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3,5 lần, chè tăng
1,8 lần.
Không những thế, sản phẩm của nông nghiệp thờng xuyên chiếm tỷ trọng
cao trong kim ngạch xuất khẩu của đất nớc, thờng xuyên chiếm 40-45% với mức
tăng đạt trên 20%/năm. Hàng năm thu về hàng tỷ đô la, góp phần quan trọng đa
đất nớc vợt qua khủng hoảng kinh tế, ổn định xã hội, tạo tiền đề tiến hành những
cải cách sâu rộng khác để bớc vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Góp phần vào sự phát triển to lớn đó, kinh tế trang trại trong nông nghiệp
Việt Nam đã thể hiện đợc vai trò và u thế của mình, phấn đấu vơn lên trở thành
hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá chủ yếu trong nông nghiệp, nông thôn nớc
ta.
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ng
nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, t liệu sản xuất thuộc quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng của một ngời chủ độc lập, sản xuất đợc tiến hành quy
mô, ruộng đất và các yếu tố sản xuất đợc tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức
quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trờng.
Từ khái niệm trên ta thấy các đặc điểm của trang trại đợc biểu hiện: trang
trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những
sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thuỷ sản, đồng thời
quá trình kinh tế trang trại là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái
sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Trang trại không phải là một thành phần kinh tế, và ngoài trang trại ra còn có
những hình thức tổ chức cơ sở trong nông nghiệp khác nh nông, lâm trờng quốc
doanh, kinh tế hộ nông dân,...

- Mục đích sản xuất cơ bản của trang trại là sản xuất hàng hoá.
- T liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một ngời chủ
độc lập, nếu t liệu sản xuất đi thuê hoặc đợc giao quyền sử dụng.
2


- Các yếu tố vật chất của sản xuất nh đất đai, tiền vốn trong trang trại đợc
tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá.
- Trang trại tự chủ hoàn toàn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh từ lựa
chọn phơng hớng kinh doanh, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ
chức sản xuất, đến tiếp cận thị trờng, tiêu thụ sản phẩm,...
- Chủ trang trại là ngời có ý chí và năng lực tổ chức quản lý, có kinh
nghiệm và kiến thức nhất định về sản xuất kinh doanh nông nghiệp và thờng là
ngời trực tiếp quản lý trang trại.
- Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn, trang trại có nhu cầu
cao hơn nông hộ về ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và thờng xuyên tiếp cận thị trờng.
- Phần lớn trang trại đều có thuê mớn lao động và có thu nhập vợt trội với
hộ nông dân trong vùng.
Từ những phân tích, đánh giá ở trên ta thấy rằng sự hình thành và phát triển
của kinh tế trang trại chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và
nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ
sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản.
Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai,
vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững
tạo việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm
nghèo, phân bổ lại lao động, dân c, xây dựng nông thôn mới.
Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền
với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bớc chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn.

Hiện nay, số lợng các đơn vị và hộ gia đình sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp ở nớc ta rất lớn. Tuy nhiên, để đợc công nhận là một trang trại thì theo
Thông t liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ra ngày 23/6/2000 các đơn vị và
hộ gia đình này cần có những điều kiện tiên quyết sau đây:
Một là, Giá trị sản lợng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm đạt từ 40
triệu đồng một năm ở các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền Trung từ 50 triệu
đồng trở lên ở các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
Hai là, quy mô sản xuất phải tơng đối lớn và vợt trội so với kinh tế hộ nông
dân tơng ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế, cụ thể về định hớng.
- Với trang trại trồng trọt:
+ Trồng cây hàng năm: từ 2ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên
Hải miền Trung. Từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
+ Trang trại trồng cây lâu năm: từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và
Duyên Hải miền Trung. Từ 5ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây
Nguyên. Riêng trang trại trồng hồ tiêu thì diện tích từ 0,5ha trở lên.
+ Trang trại lâm nghiệp: từ 10ha trở lên đối với tất cả các vùng trong cả nớc.
3


- Với trang trại chăn nuôi:
+ Chăn nuôi đại gia súc: chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thờng xuyên từ 10
con trở lên. Chăn nuôi lấy thịt có thờng xuyên từ 50 con trở lên.
+ Chăn nuôi gia súc: chăn nuôi sinh sản có thờng xuyên từ 20 con trở lên;
đối với dê, cừu từ 100 con trở lên.
Chăn nuôi lợn thịt có thờng xuyên từ 100 con trở lên không kể lợn sữa, dê
thịt từ 200 con trở lên.
+ Chăn nuôi gia cầm: có thờng xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số
đầu con dới 1 ngày tuổi).
- Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
Diện tích mặt nớc để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2ha trở lên (riêng đối với

nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1ha trở lên).
- Trang trại trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong giống thuỷ sản và
thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị sản lợng hàng hoá.
Với nhận thức về kinh tế trang trại và hớng dẫn nhận dạng trang trại nh
trên, em thấy rằng việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu
trong quá trình phát triển nền nông nghiệp và nông thôn nớc ta hiện nay. Để hình
thành và phát triển kinh tế trang trại, theo em cần những điều kiện chủ yếu sau
đây:
Trớc hết, ta nói đến nhóm các điều kiện khách quan.
Để hình thành và phát triển kinh tế trang trại, ở đây sự tác động tích cực của
Nhà nớc thông qua định hớng khuyến khích cho sự hình thành và phát triển của
kinh tế trang trại, hỗ trợ về nhiều mặt. Sự phù hợp trong các chính sách đa ra
đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho việc hình thành kinh tế trang trại.
Các chính sách và luật pháp của Nhà nớc cũng phải tạo điều kiện cho quá
trình tập trung và tích tụ ruộng đất đợc diễn ra thuận lợi vì ruộng đất là t liệu sản
xuất chủ yếu, là điều kiện không thể thiếu của mỗi trang trại, ruộng đất phải đợc
tập trung đến một mức phù hợp nhất định tuỳ theo phơng hớng kinh doanh mới
mong hình thành kinh tế trang trại.
Hàng năm các trang trại sản xuất ra một khối lợng sản phẩm hàng hoá lớn
nên cần có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến, vì vậy công nghiệp chế biến cần
đi trớc một bớc.
Để phục vụ cho sự ra đời và phát triển của kinh tế trang trại cũng cần có sự
phát triển nhất định của kết cấu cơ sở hạ tầng, trớc hết là giao thông, thuỷ lợi,
điện, sự hình thành và phát triển của các vùng sản xuất chuyên môn hoá cũng là
điều kiện cần thiết giúp cho việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại đợc
thuận lợi hơn. Trong thời kỳ hiện nay thì quá trình liên doanh, liên kết và hợp tác
giữa các trang trại và với các hình thức khác trong sản xuất cũng là một điều
kiện quan trọng và một điều kiện sau cùng nhng cũng không kém phần quan
trọng trong nhóm các điều kiện khách quan này đó là phải có môi trờng pháp lý


4


thuận lợi cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển.
Thứ hai: ta nói đến nhóm điều kiện về phía trang trại đó là chủ trang trại
phải có ý chí và quyết tâm làm giàu từ nông nghiệp, phải có sự tích tụ nhất định
về kinh nghiệm sản xuất, về tri thức và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra cần có sự tập trung nhất định về quy mô các yếu tố sản xuất, trớc
hết và quan trọng hơn cả đó là vốn và đất đai.
Muốn thu đợc hiệu quả cao thì quản lý sản xuất và kinh doanh của trang
trại cũng cần phải dựa trên cơ sở hạch toán và phân tích kinh doanh.
Khái niệm và những điều kiện hình thành và phát triển của kinh tế trang trại
đã nêu ở trên đã cho ta thấy đợc phần nào vai trò và vị trí của nó đối với nền kinh
tế quốc dân. Không dừng lại ở đó, với đặc trng là hình thức tổ chức sản xuất chủ
yếu trong nông nghiệp sản xuất hàng hoá, kinh tế trang trại đã thể hiện đợc vai
trò hết sức to lớn trong việc sản xuất lơng thực, thực phẩm cung cấp cho xã hội
trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn mới.
Trang trại lấy việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh phục vụ nhu cầu
xã hội làm phơng thức sản xuất chủ yếu. Vì vậy nó cho phép huy động sử dụng
đất đai, sức lao động và các nguồn lực khách một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu
quả.
Trang trại với kết quả và hiệu quả sản xuất cao đã góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc
phục dần tình trạng manh mún, tạo lập chuyên môn hoá, tập trung hoá, góp phần
đẩy nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá.
Qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy công
nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và các dịch vụ sản xuất có liên quan ở nông
thôn phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn. Với cách thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh tiên tiến, trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải các tiến bộ khoa
học, kỹ thuật và công nghệ thông qua chính hoạt động sản xuất của mình.

Mặt khác, phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giàu một cách chính
đáng, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn, là tấm gơng cho hộ nông dân về cách thức tổ chức sản xuất kinh
doanh tiên tiến và có hiệu quả. Góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn hiện
nay của nớc ta.
Không những thế, trang trại còn góp phần to lớn vào việc cải tạo môi trờng
sinh thái, thể hiện rõ nhất ở các trang trại trồng cây lâu năm và lâm nghiệp, môi
trờng trong sạch, phòng chống bão lũ,... những lợi ích không thể tính hết đợc
bằng tiền.
Với u thế rõ rệt thể hiện trong vị trí và vai trò của mình kinh tế trang trại
hiện đang đợc phát triển rộng khắp và là hình thức sản xuất hàng hoá chủ yếu
trong nông nghiệp của tất cả các quốc gia trên thế giới. Các trang trại này không
ngừng tăng lên về quy mô sản xuất nh ở Mỹ năm 1950 trung bình một trang trại
là 86ha, đến năm 1960 là 120ha và đến năm 1992 đã là 198,7ha. ở nớc Anh, tình
hình cũng tơng tự, năm 1950 diện tích bình quân một trang trại là 36ha, năm
5


1987 con số đó là 71ha.
Ngay cả những quốc gia đất nông nghiệp bình quân theo đầu ngời thấp nh
Nhật Bản, quy mô sản xuất cũng không ngừng tăng lên, năm 1950, diện tích
trung bình là 0,8ha nhng đến năm 1993 con số này là 1,38ha.
Quy mô bình quân của các trang trại không ngừng tăng lên còn đợc biểu
hiện ở việc đầu t tiền vốn là t liệu sản xuất không ngừng tăng nh hiện nay. ở Tây
Âu khoảng 70% trang trại gia đình đã mua máy móc dùng riêng, ở Nhật Bản đến
năm 1985 có 67% số trang trại có máy kéo nhỏ và 20% có máy kéo lớn.
Sự phát triển của hình thức kinh tế trang trại ở các nớc trên thế giới đã cho
chúng ta nhiều bài học quý báu về phơng thức sản xuất kinh doanh cũng nh xu
hớng phát triển, hoạt động của nó.
Thực hiện đổi mới theo đờng lối của Đảng và Nhà nớc ở nớc ta hiện nay,

phát triển sản xuất nông sản hàng hoá là một tất yếu, là đòi hỏi bức thiết đặt ra từ
điều kiện bên trong và bên ngoài.
ở trong nớc, nông nghiệp không thể dừng lại ở sản xuất tự túc, mà phải

nhanh chóng tiến lên sản xuất nông sản hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của công
nghiệp hoá đất nớc: bảo đảm lơng thực thực phẩm cho c dân ngoài nông nghiệp
ngày càng tăng, bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng nhanh
khối lợng nông sản xuất khẩu để phục vụ trở lại nông nghiệp.
ở ngoài nớc, nhu cầu về mậu dịch nông sản giữa Việt Nam và các nớc ngày

càng tăng, đòi hỏi nhiều nông sản hàng hoá. Sản xuất nông sản hàng hoá trong
điều kiện mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ đòi hỏi
khối lợng nông sản nhiều, ổn định, mà còn yêu cầu sản phẩm có chất lợng cao,
giá thành hạ, tạo đợc u thế cạnh tranh trên thị trờng nông sản trong nớc và thế
giới.
Để đáp ứng đợc đòi hỏi tất yếu đó, chúng ta không thể không phát triển
kinh tế trang trại.
ý thức đợc vị trí và vai trò quan trọng cũng nh tính tất yếu của việc phát

triển kinh tế trang trại đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
nông nghiệp nói riêng. Đảng và Nhà nớc ta đã có những u tiên, khuyến khích
cho sự ra đời và phát triển của kinh tế trang trại trong nông nghiệp nớc ta.
Cùng với các chính sách đổi mới toàn diện nền kinh tế, các chính sách, quy
định và luật pháp định hớng, tạo khung pháp lý, khuyến khích trang trại hình
thành và phát triển thờng xuyên đợc ban hành và ngày càng hoàn thiện.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) và luật đất đai (1993) ban hành đã
mở đờng và là chỗ dựa vững chắc để các hộ tiểu nông chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và hình thành các trang trại không chỉ ở những vùng đã quen sản xuất hàng hoá
mà cả ở những vùng chỉ quanh quẩn sau hàng rào tự cấp, tự túc. Tỷ suất hàng
hoá nông nghiệp của cả nớc đợc tăng lên rõ rệt.

Trong những năm gần đây điều này càng đợc thể hiện rõ nét thông qua chủ
trơng đối với kinh tế trang trại đã đợc nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ t
6


của Ban chấp hành Trung ơng Đảng (tháng 12 năm 1997) và Nghị quyết số 06
ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về phát triển nông nghiệp nông
thôn. Quyết định 67/1999/QĐUB ngày 30/3/1999 của Chính phủ về vay vốn
không phải thế chấp.
Nghị định số 178/1999/NQ-CP ngày 29/12/1999 về việc trang trại đợc dùng
tài sản từ vốn vay để bảo đảm tiền vay. Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày
13/5/1998 quy định về việc thu thuế thu nhập của các trang trại, và mới đây nhất
là Nghị quyết số 03/200/NQ-CP ra ngày 02/2/2000 quy định rất rõ về quan điểm
cũng nh các chính sách của Nhà nớc đối với việc phát triển kinh tế trang trại.
Trong đó nêu rõ:
Nhà nớc khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia
đình, cá nhân đầu t phát triển kinh tế trang trại đợc Nhà nớc giao đất, cho thuê
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để
sản xuất kinh doanh.
Nhà nớc đặc biệt khuyến khích việc đầu t khai thác và sử dụng có hiệu quả
đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai
thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nớc, eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ng nghiệp theo hớng chuyên canh
với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, ngời đông, khuyến khích phát
triển kinh tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế
biến và thơng mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn.
Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông
nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
Nhà nớc thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ
nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở

rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ
nông dân, các trang trại, các nông, lâm trờng quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nớc và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức
mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà nớc hỗ trợ về vốn, khoa học - công nghệ chế biến, tiêu thụ sản phẩm,
xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển
bền vững.
Tăng cờng công tác quản lý Nhà nớc để các trang trại phát triển lành
mạnh, có hiệu quả.
Với các chính sách nêu trên, chúng ta đang dần tiến tới một bộ chính sách
thực sự hoàn chỉnh để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển. Điều này cũng
đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta là chấp nhận và khuyến khích
kinh tế trang trại phát triển nh là một tất yếu trong quá trình đi lên của nền kinh
tế đất nớc.

7


Phần II

Thực trạng phát triển kinh tế trang trại
trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay
Thực tế, thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc, kinh tế hộ nông
dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân
đã hình thành các trang trại đợc đầu t vốn, lao động với trình độ công nghệ và
quản lý cao hơn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá và nâng cao năng
suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trờng.
Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lợng với nhiều
thành phần kinh tế tham gia, nhng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân
và một tỷ lệ đáng kể của gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội, công an

đã nghỉ hu. Hầu hết các trang trại có quy mô đất đai tơng đối nhỏ, nguồn gốc đất
đai đa dạng sử dụng lao động gia đình là chủ yếu; một số trang trại có thuê thuê
lao động thời vụ và thờng xuyên.
Hầu hết vốn đầu t là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng, vốn vay của các
tổ chức tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng thấp. Phần lớn trang trại đã phát huy đợc lợi
thế của vùng, lấy ngắn nuôi dài có hiệu quả.
Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn lực
vốn trong dân mở mang thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá,
nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biển; tạo thêm việc làm cho lao
động nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo; tăng thêm nông sản hàng hoá,
một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ
thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng.
Cụ thể, theo số liệu điều tra thực tế 3044 trang trại do trờng ĐH Kinh tế
Quốc dân thực hiện ở 15 tỉnh, thành phố trọng điểm trong cả nớc, làm nổi bật
nên thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nớc ta nh sau:
1-/ Chủ trang trại.
Có sự khác biệt rất lớn về nguồn gốc xuất thân, giới tính của chủ trang trại
giữa các vùng, các miền trong cả nớc. Nếu tựu chung lại thì có tới 91,85% chủ
trang trại là nam giới, trong khi đó chỉ có 8,15% là nữ chủ trang trại.
Nguồn gốc xuất thân của chủ trang trại cũng rất đa dạng, trong đó số chủ
trang trại là nông dân chiếm tới 62,35%, riêng Khánh Hoà tỷ lệ này là 83,75;
Ninh Thuận là 81,25%. Cán bộ chủ chốt cấp xã chiếm 8,84%, riêng Yên Bái tỷ
lệ này là 17%. Số chủ trang trại là bộ đội, công an trở về địa phơng chiếm 8,11%.
Chủ trang trại là công chức chiếm 4,73%. Công nhân đang làm việc chiếm
3,42% và chủ trang trại khác chiếm 3,19%.
Số chủ trang trại là Đảng viên chiếm 24,08%. Trong đó Yên Bái tỷ lệ này là
8


52%, Nghệ An 37,04%. Số chủ trang trại là đoàn viên thanh niên chiếm 2,92%.

Trong đó Sơn La chiếm 6,5% và ở Nghệ An tỷ lệ này là 6,3%.
2-/ Các yếu tố sản xuất của trang trại.
2.1. Đất đai của trang trại
Đất đai là t liệu sản xuất chủ yếu trong hoạt động sản xuất nông, lâm và
thuỷ sản. Để phát triển kinh tế trang trại trớc hết phải dựa vào đất đai, nhất là
những cây trồng, vật nuôi cần một lợng diện tích đất đủ lớn để sản xuất ra một lợng sản phẩm hàng hoá nhất định. Vì thế kinh tế trang trại cần đợc phát triển ở
vùng trung du, miền núi và ven biển nơi mà quỹ đất có khả năng khai phá và sử
dụng còn lớn. Thực tế có sự chênh lệch đáng kể trong quỹ đất của trang trại giữa
các tỉnh. Trong khi bình quân chung một trang trại có 6,63ha thì ở Nghệ An tỷ lệ
này là 12,69ha. Yên Bái 10,17ha nhng ở Đồng Nai chỉ có 2,753ha, Sơn La
3,27ha. Nhóm trang trại lâm nghiệp có quy mô đất là 20,29ha, trang trại kinh
doanh cây lâu năm có 6,10ha, trang trại chăn nuôi có 1,48ha. Chủ trang trại nông
dân có quy mô 6,27ha, chủ trang trại khác có quy mô lớn hơn 8,66ha.
Nguồn gốc đất đai của trang trại cũng rất đa dạng, trong đó phần đất đợc
giao chiếm đại bộ phận, tính bình quân phần đất này là 71,83%, tỷ trọng đất cha
đợc giao chiếm 28,17%, trong đó diện tích nhận thầu của HTX chiếm 31,46%,
nhận chuyển nhợng đất 19,27%, nhận thầu của nông - lâm trờng chiếm 18,9%,
tự khai hoang chiếm 17,99%, nhận khoán chủ dự án 9,59%. Cá biệt có các trang
trại ở Thanh Hoá và Hà Nội tỷ lệ đất cha đợc giao chiếm trên 50% trong đó chủ
yếu nhận thầu của HTX trên 72%. ở Nghệ An, tỷ trọng đất cha đợc giao chiếm
21,48% nhng ở đây các trang trại phần lớn nhận thầu đất đai của các nông, lâm
trờng và chủ dự án (chiếm 76,13%) với nhiều hình thức rất khác nhau.
Cơ cấu quỹ đất của các trang trại bao gồm đất nông nghiệp chiếm 58,81%,
đất lâm nghiệm chiếm 28,73% đất nuôi trồng thuỷ sản chiếm 11,49% và đất thổ
c 0,97%. Cơ cấu đất đai tuỳ thuộc vào điều kiện từng địa phơng, từng hớng kinh
doanh sản xuất, từng nhóm chủ trang trại. Gialai, Đăklăk tỷ trọng đất nông
nghiệp chiếm cao từ 92-95%, trong khi đó các trang trại Yên Bái đất nông
nghiệp chiếm 30,8%, đất lâm nghiệp chiếm 67,64%. Nghệ An đất nông nghiệp
chiếm 23,98%, đất lâm nghiệp chiếm 64,46%. Các trang trại kinh doanh cây lâu
năm đất nông nghiệp chiếm trên 80%, nhóm trang trại lâm nghiệp, tỷ trọng đất

lâm nghiệp chiếm 90%. Nhóm trang trại thuỷ sản, diện tích mặt nớc nuôi trồng
thuỷ sản chiếm 80,3%.
Nghiên cứu biểu số 1 sau đây ta sẽ thấy rõ đợc điều này.
Biểu 1: Nguồn đất bình quân năm

(Chung 15 tỉnh)
Đơn vị: ha

9


Tiêu chí
I- Đất đã đợc giao
II - Đất cha đợc giao
1- Đất nhận thầu của HTX
2- Thuê của t nhân
3- Nhận chuyển nhợng
4- Nhận cầm cố
5 - Tự khai hoang
- Đất, bồi
- Đất trống, đồi trọc
- Rừng
- Khác
6 - Thầu của nông, lâm trờng
7 - Nhận khoán của chủ dự án
8- Nguồn khác
Tổng nguồn đất

Đất nông
nghiệp

2,9218
0,9828
0,1713
0,0192
0,3294
0,0034
0,2644
0,0743
0,1549
0,0328
0,0024
0,1596
0,0284
0,0071
3,9046

Đất lâm
nghiệp
1,4781
0,4292
0,0265
0,0013
0,0136
0,0011
0,0607
0,0024
0,0338
0,0240
0,0005
0,1661

0,1485
0,0113
1,9073

Mặt nớc
nuôi thuỷ sản
0,3229
0,4398
0,3847
0,0018
0,0139
0,0000
0,0080
0,0071
0,0003
0,0001
0,0005
0,0250
0,0008
0,0056
0,7627

Tổng số
4,7229
1,8518
0,5826
0,0223
0,3569
0,0045
0,3332

0,0838
0,01890
0,0569
0,0034
0,3501
0,1777
0,0240
6,5747

2.2. Vốn và nguồn vốn của trang trại.
Vốn là yếu tố quan trọng, để phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi phải có
vốn, trong đó các chủ trang trại cần phải tích tụ một lợng vốn tự có nhất định, đó
là một trong những điều kiện tiên quyết, nếu không có điều kiện này sẽ không
thể hình thành trang trại một cách thuận lợi. Quy mô vốn bình quân một trang
trại tơng đối lớn, đạt 291,43 triệu đồng những lại có sự chênh lệch lớn giữa các
địa phơng.

10


Biểu 2 - Nguồn vốn bình quân trang trại thời điểm điều tra

Đơn vị: triệu đồng
Số
TT
I

3

Chung

15 tỉnh

Sơn
La

Yên
Bái

Quảng
Ninh


Nội

Thanh
Hoá

Nghệ
An

Gia
Lai

Đắc
Lắc

Lâm
Đồng

Khánh

Hoà

Ninh
Thuận

Bình
Dơng

Đồng
Nai

Long
An


Mau

Tổng số vốn

291,43

111,24

95,90

112,67

164,60

120,36


113,66

372,75

619,52

552,96

360,57

348,62

489,68

209,74

159,70

151,00

Vốn tự có

265,18

88,71

85,02

102,04


125,66

97,10

99,66

344,19

595,75

513,22

334,14

304,33

439,71

189,41

141,30

136,82

Vốn vay

22,13

20,25


7,26

9,12

25,70

19,70

13,74

25,89

21,03

37,17

23,18

36,64

37,09

18,32

16,43

10,93

- Vay ngân hàng


10,63

5,93

2,72

3,51

10,63

5,36

3,81

16,79

13,95

23,42

6,37

27,05

15,65

5,39

11,30


6,66

- Vay đầu t ứng trớc

2,26

10,82

0,17

0,00

0,46

7,55

1,55

0,08

1,40

0,32

2,54

0,08

1,71


3,12

0,11

0,08

- Vay theo dự án

1,50

1,33

2,71

3,37

1,53

1,37

2,20

2,23

0,68

0,03

3,28


0,64

2,43

0,19

0,85

0,00

- Vay khác

7,73

2,18

1,65

2,24

13,08

5,43

6,18

6,79

4,99


13,40

11,00

8,88

17,29

9,63

4,17

4,20

Vốn khác

4,12

2,28

3,62

1,51

13,24

3,56

0,26


2,67

2,73

2,57

3,25

7,65

12,88

2,00

1,96

3,25

100

100

100

100

100

100


100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Nguồn vốn

Cơ cấu theo %
II

Tổng nguồn vốn

1


Vốn tự có

90,99

79,75

88,66

90,57

76,34

80,67

87,68

92,34

96,16

92,81

92,67

87,3

89,8

90,31


88,48

90,61

2

Vốn vay

7,59

18,21

7,57

8,1

15,61

16,37

12,09

6,95

3,29

6,72

6,43


10,51

7,57

8,74

10,29

7,24

- Vay ngân hàng

48,05

29,26

37,55

38,47

41,38

27,19

27,71

64,86

66,34


63,02

27,47

73,83

42,2

29,41

68,76

60,92

- Vay đầu t ứng trớc

10,23

53,44

2,27

0,00

1,77

38,30

11,29


0,32

6,67

0,85

10,95

0,20

4,61

17,02

0,68

0,70

6,78

6,55

37,37

36,97

5,94

6,96


16,00

8,60

3,25

0,07

14,13

1,74

6,56

1,04

5,16

0,00

- Vay khác

34,94

10,76

22,81

24,56


50,88

27,55

45,00

26,22

23,74

36,06

47,45

24,22

46,63

52,54

25,39

38,38

Vốn khác

1,41

2,05


3,78

1,34

8,04

2,96

0,23

0,72

0,44

0,47

0,90

2,19

2,63

0,95

1,23

2,15

- Vay theo dự án
3


11


Nhìn vào biểu 2 ta thấy rằng quy mô vốn bình quân một trang trại ở mỗi
tỉnh không đều nhau. Cao nhất là các trang trại Đăklăk đạt 619,50 triệu, thấp
nhất là Yên Bái đạt 96,38 triệu đồng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn và trồng cây
lâu năm theo thống kê điều tra có quy mô trên 300 triệu đồng.
Nguồn vốn chủ yếu dựa vào vốn tự có là chính, bình quân các trang trại vốn
tự có chiếm 91,3%. Vốn vay chiếm 8,93% trong đó vốn vay trực tiếp từ ngân
hàng chiếm 48,08%, vốn đầu t ứng trớc chiếm 10,19% vay theo dự án 6,7%, vay
khác chiếm 34,99%.
Nguồn vốn vay của các trang trại rất đa dạng, phần lớn các tỉnh phía Nam
các trang trại dựa vào vốn vay trực tiếp từ ngân hàng chiếm tỷ trọng cao nh Gia
Lai chiếm 65,57%, Đăklăk chiếm 66,34%, Ninh Thuận 73,83%, Long An là
68,76%... một số tỉnh khác lại dựa vào đầu t ứng trớc nh Sơn La chiếm 53,17%
vốn vay, Yên Bái dựa vào vay dự án chiếm 37,37%, Hà Nội dựa vào vốn vay
khác chiếm 52,56%. Tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng địa phơng từng
hớng kinh doanh chính mà cơ cấu giá trị sản xuất và tài sản chủ yếu có sự khác
nhau giữa các trang trại. Trang trại ở Gia Lai, Đắc Lắc tỷ trọng giá trị vờn cây
lâu năm chiếm trên 84%, giá trị tài sản cố định có nguồn gốc kỹ thuật chiếm
10,41%. Trang trại ở Đồng Nai giá trị tài sản có nguồn gốc kỹ thuật chiếm cao
28,37%, giá trị đàn vật nuôi cơ bản chiếm 11,08%.
2.3. Về sức lao động.

12


Bảng 3 - Phân tổ số trang trại điều tra theo quy mô lao động trong độ tuổi và lao động làm thuê


Đơn vị: trang trại
Số
TT
I

II

III

Tiêu thức phân tổ

Sơn
Yên
Quảng
La
Bái
Ninh
Tổng số
200
300
80
Phân tổ theo số lao động trong độ tuổi
Từ 2 LĐ trở xuống
101
169
32
Từ 3-4 lao động
77
103
41

Từ 5-6 lao động
17
20
7
Từ 7 LĐ trở lên
5
8
0
Phân tổ theo số lao động làm thuê thờng xuyên
Số trang trại thuê LĐ
13
34
13
thờng xuyên
Chia ra:
- Thuê từ 1-2 LĐ
9
25
9
- Thuê từ 3-4 LĐ
4
5
1
- Thuê từ 5 LĐ trở lên
0
4
3
Phân tổ theo số ngày công lao động thuê theo thời vụ
Số trang trại thuê LĐ
133

203
31
thời vụ
Chia ra:
- Thuê dới 500 công
128
173
31
- Thuê từ 500-990
3
23
0
- Thuê từ 1000 công
2
7
0

Chia theo Tỉnh
Gia
Đắc
Lâm
Lai
Lắc
Đồng
304
298
280


Nội

134

Thanh
Hoá
268

Nghệ
An
270

168
86
14
0

181
75
13
1

170
95
34
5

139
121
33
5


153
95
25
7

64

143

106

169

38
12
14

79
41
23

90
9
7

85

264

70

11
4

143
75
46

Chung
15 tỉnh

Khánh
Hoà
80

Ninh
Thuận
80

Bình
Dơng
300

Đồng
Nai
290

Long
An
80



Mau
80

38
31
10
1

28
33
17
2

162
106
27
5

164
92
27
7

38
24
13
5

23

37
18
2

23
37
14
2

1.636
1.055
299
54

228

145

26

34

128

46

24

11


1.184

123
27
19

156
47
25

99
35
11

18
5
3

32
1
1

78
23
27

35
8
3


18
4
2

8
2
1

817
224
143

246

278

270

257

67

68

228

116

79


78

2.403

212
22
12

232
39
7

202
55
13

202
44
11

67
0
0

63
3
2

173
29

26

96
14
6

64
12
3

74
4
0

1.930
334
139

13

3.044


Đại bộ phận các chủ trang trại là nam giới và dân tộc kinh. Trình độ văn
hoá của chủ trang trại có trình độ cấp II trở lên chiếm 80,7%, trong đó các chủ
trang trại ở Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An chiếm tỷ lệ từ 91,8 đến 96,7%. Các
chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến đại học có 949 ngời, chiếm
31,8%, trong đó số có trình độ đại học chỉ chiếm 5,6%. Số lao động trong độ
tuổi bình quân 1 trang trại là 2,86 ngời lao động trên độ tuổi là 0,41 ngời, lao
động dới độ tuổi là 0,84 ngời.

Qua số liệu ở biểu 3 cho thấy số lao động làm thuê ở các trang trại cha
nhiều, bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động thờng xuyên, trong đó các
trang trại ở Đắc Lắc thuê gần 2 lao động, ở Hà Nội, Thanh Hoá thuê gần 1,5 lao
động.
Trong số 3044 trang trại điều tra có 1184 trang trại thuê lao động thờng
xuyên (chiếm 38,90%) trong đó các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 51,79%, ở
Đắc Lắc là 76,51%.
Phân tổ các trang trại thuê lao động thờng xuyên từ 1-2 lao động chiếm
69,01%, trong đó tỷ lệ này ở các trang trại Nghệ An là 90%, Gia Lai chiếm
72,79%. Số lao động thuê từ 3-4 lao động thờng xuyên chiếm 18,92%, riêng các
trang trại ở Lâm Đồng chiếm 24,14%, Thanh Hoá là 28,68%.
Số trang trại thuê thờng xuyên từ 5 lao động trở lên chiếm 12,08%, trong đó
các trang trại ở Hà Nội chiếm 21,88%, Bình Dơng 21,10%. Có 2403 trang trại
thuê lao động theo thời vụ, chiếm 78,95% tổng số trang trại điều tra, trong đó có
80,32% các trang trại thuê hàng năm dới 500 ngày công.
Số trang trại từ 1000 ngày công trở lên rất ít, chỉ có 139 trang trại.
3-/ Tổ chức hoạt động sản xuất của trang trại.
Trên cơ sở đất đợc giao, vốn tự có và vốn vay kết hợp với sức lao động của
gia đình hoặc có thể thuê thêm lao động, các chủ trang trại đã tiến hành sản xuất
kinh doanh, thu đợc nhiều lợi nhuận, tạo đợc việc làm cho một bộ phận không
nhỏ ngời dân có thu nhập ổn định.
3.1. Các loại hình sản xuất kinh doanh.
Các chủ trang trại đã lựa chọn hớng kinh doanh sản xuất hàng hoá chính kết
hợp với phát triển tổng hợp theo phơng châm lấy ngắn nuôi dài, khai thác tổng
hợp các tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế, sớm đa các trang trại vào định
hình sản xuất.
Trong 3044 trang trại đợc điều tra, hớng hoạt động chủ yếu đợc tập trung
vào các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Nhìn vào biểu 4 ta thấy có 2619 trang trại kinh doanh nông nghiệp là chính,
riêng trồng trọt có 2353 trang trại với các hớng kinh doanh chính: cây hàng năm

(lúa, mía) có 421 trang trại, cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, chè, hồ
tiêu, điều,...) có 1588 trang trại, cây ăn quả (vải, nhãn, cam, xoài,...) có 344 trang
trại. Trong số 1588 trang trại có hớng sản xuất kinh doanh chính là cây công

14


nghiệp lâu năm đợc phân bố tơng đối đều về số lợng giữa ba vùng lớn, song đáng
chú ý vùng Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung, số trang trại này chiếm tỷ
trọng lớn: 86,95% tổng số trang trại của vùng. Trong đó cây cà phê đợc trồng
nhiều ở các trang trại Đắc Lắc với 1314,6ha, ở Gia Lai 1137,5ha, ở Lâm Đồng
1098,6ha. Cây cao su tập trung chủ yếu ở các trang trại của Bình Dơng với
1711,9ha, Gia Lai 128,3ha. Các trang trại kinh doanh chè ở Lâm Đồng với
114,3ha, Yên Bái 178,3ha và Nghệ An 103,6ha.
Biểu 4: Số lợng trang trại phân theo hớng sản xuất
kinh doanh chính ở 3 vùng lớn của nớc ta.

Đơn vị: Trang trại
Nhóm trang trại theo các
hớng kinh doanh
1. Cây hàng năm
2. Cây CN lâu năm
3. Cây ăn quả
4. Chăn nuôi đại GS
5. Chăn nuôi lợn
6. Chăn nuôi gia cầm
7. Lâm nghiệp
8. Thuỷ sản
9. Hớng kinh doanh khác
Tổng


Tổng số
421
1.588
344
50
145
71
121
280
24
3.044

Trong đó phân theo 3 vùng lớn
Các tỉnh
Tây Nguyên và Duyên
miền Bắc
Hải miền Trung
218
1
452
593
238
29
16
0
14
0
25
6

109
0
173
46
7
7
1.252
682

Nam
Bộ
202
543
77
34
131
40
12
61
10
1.110

Biểu 4 cũng cho chúng ta thấy rằng số lợng các trang trại kinh doanh chăn
nuôi còn chiếm tỷ trọng thấp, chỉ mới có 266 trang trại. Trong đó 50 trang trại
chăn nuôi đại gia súc, 145 trang trại chăn nuôi lợn và 71 chăn nuôi gia cầm. Số
trang trại này lại tập trung phần nhiều tại Bắc và Nam Bộ.
3.2. Đầu t chi phí sản xuất của trang trại.
Đầu t chi phí sản xuất bình quân chung 1 trang trại khá lớn là 69,722 triệu
đồng, trong đó chi phí vật chất chiếm 71,64%, chi phí lao động chiếm 24,94% và
chi phí khác chiếm 3,43%. Mức chi phí này lại không đều giữa các tỉnh. Giữa

tỉnh cao nhất và thấp nhất chênh lệch tới 11 lần. Quan hệ giữa đầu t chi phí vật
chất và chi phí lao động của trang trại giữa các vùng cũng khác nhau, nhìn chung
các trang trại ở các tỉnh phía Nam tỷ trọng chi phí vật chất cao, trên 80% tổng
chi phí sản xuất. Ngợc lại ở các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ lại chi nhiều cho lao
động và tỷ trọng này lên tới 37%. Đầu t chi phí trong các trang trại chăn nuôi
lợn, gia cầm rất cao ở chi phí vật chất (trên 90%) chi phí lao động chỉ chiếm từ
6-8,5%. Đầu t chi phí vật chất lao động bình quân 1 trang trại là 17,387 triệu
đồng, trong đó tiền công thuê là 9,376 triệu, chiếm 58,88%. Các trang trại trồng
cây lâu năm chiếm 75,3% tổng số tiền công thuê của ngành trồng trọt và chiếm
60,44% chi phí lao động của nhóm trang trại này. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn

15


và gia cầm tỷ trọng tiền công thuê chiếm hơn 16% chi phí lao động.
3.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại.
Cơ cấu sản xuất của trang trại là biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ về lợng của
các ngành, các bộ phận cấu thành trong sản xuất. ở đây, ta tập trung xem xét cơ
cấu sản xuất của trang trại trên hai chỉ tiêu chính đó là: cơ cấu giá trị sản xuất
(tổng thu) và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các ngành, các bộ phận sản
xuất trong trang trại.
Biểu 5: Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại
theo hớng kinh doanh khác nhau

Đơn vị: %
Nhóm trang trại theo hớng kinh doanh
Bình quân chung
Trong đó:
1. Cây hàng năm
2. Cây lâu năm

3. Cây ăn quả
4. Chăn nuôi đại GS
5. Chăn nuôi lợn
6. Chăn nuôi gia cầm
7. Lâm nghiệp
8. Thuỷ sản
9. Hớng KD khác

100

Trồng trọt
58,01

Trong đó
Chăn nuôi
26,68

Thuỷ sản
15,31

100
100
100
100
100
100
100
100
100


91,03
94,86
77,33
16,72
0,75
1,54
48,09
3,64
78,47

6,33
4,64
16,51
79,13
99,01
97,70
38,08
3,82
18,99

2,64
0,50
6,11
4,15
0,25
2,76
13,83
92,54
2,54


Tổng số

Các trang trại nớc ta hầu hết tập trung vào sản xuất nông nghiệp (trồng trọt
và chăn nuôi), lâm nghiệp và thuỷ sản, vì thế cơ cấu sản xuất của trang trại rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào hớng kinh doanh đợc lựa chọn và kết hợp với phát triển tổng
hợp, lấy ngắn nuôi dài, giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 57,75% tỷ trọng
ngành chăn nuôi chiếm 27,30%, thuỷ sản chiếm 13,78% và lâm nghiệp chiếm
1,18%. Cơ cấu sản xuất của trang trại ở các vùng cũng có đặc trng riêng, khác
biệt, vùng miền núi phía Bắc giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 66,23%
(trong đó chủ yếu là cây công nghiệp và cây ăn quả) chăn nuôi chiếm 19,99%,
thuỷ sản và lâm nghiệp chiếm 17,09%. ở Duyên hải miền Trung tỷ trọng giá trị
sản xuất thuỷ sản chiếm 77,27%, tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm 21,8% (chủ
yếu là cây ăn quả). Các trang trại thuộc nhóm có hớng kinh doanh cây ăn quả,
cây hàng năm, cây lâu năm, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm từ 73
đến 97%. Nhóm trang trại chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi
lợn tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm từ 78-98%. Nhìn vào biểu 4
ta cũng thấy rằng cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá các trang trại cũng phản ánh
xu thế chung tơng tự nh cơ cấu giá trị sản xuất.
Nhìn chung các trang trại có tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành, sản phẩm

16


cao hoặc thấp thì tơng tự cũng có tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của các
ngành, sản phẩm tơng ứng cao hoặc thấp. Giữa hai chỉ tiêu có sự chênh lệch nhng đều phản ánh xu hớng chung đó.
4-/ Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại.
Kinh tế trang trại nớc ta mới phát triển và đã phát triển tơng đối mạnh trong
những năm gần đây, nhng phần lớn trang trại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản đối
với các vờn cây lâu năm, rừng trồng nguyên liệu, nhất là các trang trại bớc đầu
đã đem lại kết quả rõ rệt. Điều này thể hiện trên nhiều mặt, tuy nhiên chúng ta

chỉ xem xét trên một số mặt chủ yếu sau đây:
4.1. Tổng doanh thu của trang trại.
Biểu 6: Tổng thu bình quân một trang trại năm 1998

Đơn vị: triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Bình quân chung
Trong đó:
Sơn La
Yên Bái
Quảng Ninh
Hà Nội
Thanh Hoá
Nghệ An
Gia Lai
Đắc Lắc
Lâm Đồng
Khánh Hoà
Ninh Thuận
Bình Dơng
Đồng Nai
Long An
Cà Mau

Tổng
thu
105,426
46,05
33,25
24,48

129,74
101,94
38,58
104,33
162,92
150,83
164,67
148,25
57,79
224,94
110,86
70,98

Trồng trọt
60,880
41,07
16,10
12,00
18,48
51,03
20,65
98,57
160,97
130,23
35,91
35,66
41,85
23,60
95,65
30,19


Trong đó
Chăn nuôi
Thuỷ sản
28,776
14,526
4,21
10,02
4,73
52,05
6,23
8,96
5,72
1,76
20,45
1,52
20,33
13,11
198,63
11,15
1,17

0,48
2,28
6,86
58,64
43,23
5,81
0,03
0,20

0,154
127,24
91,99
2,79
0,27
2,34
38,99

Lâm nghiệp
1,246
0,29
4,85
0,89
0,57
1,45
3,16
0,0
0,0
0,0
0,0
0,28
0,04
2,41
1,75
0,03

Nghiên cứu biểu 6 ta thấy rằng mức tổng thu trung bình một trang trại là
105,426 triệu đồng. Trong đó trồng trọt 60,880 triệu, chăn nuôi 28,776 triệu,
thuỷ sản 14,526 triệu và lâm nghiệp 1,246 triệu. Mức tổng thu giữa các tỉnh có
sự chênh lệch rất lớn, tới 9 lần, cụ thể Đồng Nai đạt 224,94 triệu, trong khi đó

Quảng Ninh chỉ đạt 24,48 triệu. Nhìn chung mức tổng thu của các trang trại ở
các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ thấp do có vốn đầu t thấp, chủ yếu dựa vào trồng
trọt và đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Ngợc lại các trang trại ở Tây Nguyên,
Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ đạt mức doanh thu khá cao.
Các trang trại có hớng kinh doanh chăn nuôi lợn, gia cầm, thuỷ sản có quy
mô doanh thu lớn, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung. Chủ trang trại
nông dân và chủ trang trại khác có mức tổng thu cao hơn mức trung bình chung,
đạt 110 đến 139 triệu đồng.

17


4.2. Giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại.
Sản xuất hàng hoá là đặc trng cơ bản và bản chất của kinh tế trang trại, để
đánh giá trình độ phát triển kinh tế hàng hoá có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là
quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá và tỷ suất giá trị sản phẩm hàng hoá.
Giá trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại điều tra là 91,449 triệu
đồng, trong đó các trang trại ở các tỉnh có quy mô nhỏ đạt từ 18-27 triệu đồng
nh Quảng Ninh, Yên Bái, Nghệ An. Ngợc lại các tỉnh nh Đắc Lắc, Lâm Đồng,
Khánh Hoà, Ninh Thuận đạt quy mô từ 132 triệu đồng trở lên. Các sản phẩm
hàng hoá của trang trại điều tra, chủ yếu là nông sản và thuỷ sản. Cha có lâm sản
vì đại đa số rừng trồng đang trong thời gian chăm sóc và tu bổ. Tất cả những
điều này đợc thể hiện rất rõ ở biểu 7.
Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại giữa các vùng có sự chênh
lệch khá lớn. Trong khi các trang trại vùng núi phía Bắc quy mô giá trị sản phẩm
hàng hoá còn nhỏ, phần lớn đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản thì ở vùng Duyên
Hải miền Trung chủ yếu kinh doanh thuỷ sản có quy mô giá trị sản phẩm hàng
hoá lớn. Nhóm trang trại lâm nghiệp quy mô giá trị sản phẩm mới đạt 19,322
triệu đồng, trong đó ngành chính là lâm nghiệp cha có sản phẩm hàng hoá, giá
trị sản phẩm hàng hoá trên là kết quả của mô hình lâm nông kết hợp, lấy ngắn

nuôi dài.
Biểu 7: Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại

Đơn vị: triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Bình quân chung
Trong đó:
Sơn La
Yên Bái
Quảng Ninh
Hà Nội
Thanh Hoá
Nghệ An
Gia Lai
Đắc Lắc
Lâm Đồng
Khánh Hoà
Ninh Thuận
Bình Dơng
Đồng Nai
Long An
Cà Mau

91,449

Trồng trọt
53,048

Trong đó
Chăn nuôi

24,403

Thuỷ sản
13,998

40,816
21,916
18,056
117,551
90,766
28,103
82,892
141,867
132,744
163,126
139,766
57,187
189,192
103,177
67,159

36,407
12,882
7,396
15,132
45,322
16,613
78,321
140,355
114,165

34,988
33,298
41,335
20,816
91,403
28,334

3,981
7,037
4,128
15,479
6,946
6,358
4,540
1,383
18,472
1,384
14,481
11,793
168,128
9,478
1,407

0,428
1,997
6,533
56,941
38,498
5,231
0,030

0,129
0,107
126,754
91,988
4,059
0,248
2,296
37,418

Giá trị hàng hoá

18


4.3. Thu nhập và đời sống của trang trại.
Thu nhập trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ đi phần chi phí
vật chất, tiền công thuê lao động và chi phí khác.
Biểu 8: Quy mô thu nhập của các trang trại

Đơn vị: Triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Bình quân chung
Trong đó:
Sơn La
Yên Bái
Quảng Ninh
Hà Nội
Thanh Hoá
Nghệ An
Gia Lai

Đắc Lắc
Lâm Đồng
Khánh Hoà
Ninh Thuận
Bình Dơng
Đồng Nai
Long An
Cà Mau

Trong đó
Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Lâm nghiệp
46,112
29,359
8,726
7,493
0,534

Tổng
thu nhập

29,512
21,425
13,310
43,231
54,260
18,076
43,109
79,262
71,303
93,380

78,986
18,927
62,932
46,128
45,726

26,707
10,384
7,791
5,667
27,618
9,061
40,651
78,455
66,416
25,745
19,740
13,981
8,304
41,248
22,590

2,226
6,332
2,073
11,517
2,626
5,376
2,435
0,836

4,797
0,927
11,953
4,373
53,092
2,792
0,975

0,333
1,494
3,275
26,883
23,237
2,985
0,018
0,127
0,097
66,709
47,652
0,716
0,149
1,613
22,472

0,206
3,244
0,474
-0,836
0,778
0,653

0,005
-0,156
-0,007
0,0
0,0
-0,14
1,416
0,415
-0,310

Các kết quả tính toán cho thấy thu nhập trang trại bình quân là 43,47% tổng
thu. Một số tỉnh có mức thu nhập thấp nh Yên Bái, Nghệ An, Quảng Ninh từ 1320 triệu đồng, ở các tỉnh nh Đắc Lắc, Ninh Thuận, Khánh Hoà có mức thu nhập
rất cao từ 75-91 triệu đồng. Nhóm chủ trang trại là nông dân có mức thu nhập
48,463 triệu đồng. Nhóm trang trại có hớng kinh doanh gia cầm, chăn nuôi lợn,
thuỷ sản có mức thu nhập rất cao từ 49-88 triệu đồng/năm.

19


Biểu 9: Mức thu nhập bình quân lao động trong độ tuổi
và nhân khẩu của các trang trại điều tra

Đơn vị: 1.000.000đ
Chỉ tiêu
Trang trại ở các
tỉnh
Bình quân chung
Trong đó:
Sơn La
Yên Bái

Quảng Ninh
Hà Nội
Thanh Hoá
Nghệ An
Gia Lai
Đắc Lắc
Lâm Đồng
Khánh Hoà
Ninh Thuận
Bình Dơng
Đồng Nai
Long An
Cà Mau

Thu nhập của 1 lao động
BQ 1 năm

BQ 1 tháng

TN của một nhân khẩu
BQ 1 năm

BQ 1 tháng

16,120

1,343

7,920


0,660

9,772
7,762
4,452
14,315
21,113
7,230
15,233
26,073
25,285
30,220
22,632
7,113
22,004
13,978
12,737

0,814
0,640
0,371
1,193
1,759
0,602
1,269
2,173
2,107
2,518
1,886
0,593

1,834
1,165
1,061

4,611
4,012
2,874
7,817
9,974
3,347
7,185
11,055
11,211
15,434
11,220
4,009
11,099
7,818
7,672

0,384
0,334
0,239
0,651
0,831
0,279
0,599
0,921
0,934
1,286

0,935
0,334
0,925
0,652
0,639

Nếu ta tính thu nhập trang trại tính bình quân cho 1 lao động thì mức đó là
16,120 triệu đồng/năm tức 1,343 triệu đồng/tháng. ở chỉ tiêu này mức độ chênh
lệch giữa các tỉnh cũng rất lớn, nh ở Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà các trang
trại đạt từ 24 đến 29 triệu đồng/năm tức 2,033 đến 2,643 triệu đồng/tháng. Trong
khi đó một số tỉnh nh Quảng Ninh, Nghệ An mức này chỉ có 4,340 đến 6,971
triệu đồng/năm, tức là 0,362 đến 0,573 triệu đồng/tháng. Nếu ta tính cho nhân
khẩu thì mức thu nhập là 7,513 triệu đồng/năm tức 0,626 triệu đồng/tháng.
Do mức thu nhập của các trang trại tơng đối cao cho nên mức chi tiêu cho
đời sống cũng lớn, bao gồm cả đời sống vật chất và tinh thần.
Mức chi tiêu về ăn uống bình quân năm 1998 của trang trại là 13,294 triệu
đồng. Trong đó một số tỉnh có thu nhập cao nh Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà
có mức chi từ 18 đến 22 triệu đồng cho việc ăn uống.
Các trang trại ở vùng núi phía Bắc, khu 4 cũ, mức chi tiêu ăn uống thấp, chỉ
bằng khoảng 1/2 mức chi tiêu ở các trang trại Tây Nguyên. Không những chỉ có
đời sống vật chất đợc nâng cao mà đời sống tinh thần của các trang trại cũng
ngày càng đợc đầy đủ hơn. Từ tài liệu điều tra cho chúng ta thấy giá trị tài sản
sinh hoạt bình quân một trang trại là 83,938 triệu đồng. Trong đó Đắc Lắc đạt
bình quân 160,76 triệu đồng, Yên Bái chỉ đạt 33,62 triệu. Diện tích nhà ở cũng
20


ngày một khang trang và kiên cố, bình quân chung mỗi trang trại có 84,38m2 nhà
ở, trong đó tỷ lệ nhà mái bằng chiếm 24,4%, nhà mái ngói tờng xây chiếm
63,54%. Các phơng tiện phục vụ đời sống cũng ngày một nâng cao, xe gắn máy

bình quân một trang trại có 0,886 cái, ti vi màu 0,778 cái, điện thoại 0,186 cái...
- Tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động.
Sự phát triển kinh tế trang trại hiện nay trong nông nghiệp nớc ta đòi hỏi
một lợng lao động khá lớn. Ngoài số lao động của bản thân trang trại, hàng năm
các trang trại còn thuê thêm lao động thờng xuyên và lao động thời vụ. Trong
tổng số 3044 trang trại đợc điều tra đã tạo thêm việc làm cho 6079 lao động,
trong đó có 2983 lao động đợc thuê thờng xuyên và 3096 lao động làm thuê theo
thời vụ quy đổi. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tính
chung cho cả nớc, kinh tế trang trại đã tạo ra việc làm cho hơn 60 vạn lao động
với mức tiền công thoả đáng. Bình quân mức tiền công hàng tháng đạt 434,29
ngàn đồng, trong đó Đắc Lắc và Bình Dơng có mức tiền công từ 521 đến 527
ngàn đồng, thấp nhất nh các trang trại ở phía Bắc cũng đạt 272 đến 296 ngàn
đồng/tháng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn đạt mức tiền công 538 ngàn đồng.
Tiền công thuê lao động thời vụ đợc chủ trang trại trả 18 ngàn đồng/ngày công.
Từ kết quả phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong nông
nghiệp nớc ta nh đã nêu ở trên, em nhận thấy rằng, trong thời gian qua kinh tế
trang trại trong nông nghiệp đã đạt đợc những thành công bớc đầu khả quan, mở
ra một hớng phát triển mới cho nền nông nghiệp nớc nhà. Thực tế cho thấy phát
triển kinh tế trang trại là một hớng đi đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới
toàn diện nền kinh tế đất nớc. Kinh tế trang trại đã tỏ ra đợc u thế và tơng lai
phát triển của mình so với các hình thức sản xuất khác. Kinh tế trang trại tỏ ra vợt trội về khả năng sản xuất hàng hoá, khả năng tận dụng những u thế của vùng
và cả khả năng cho thu nhập cao.
Tuy nhiên, từ thực tế phân tích thực trạng nh trên cũng mở ra cho chúng ta
nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới.
Cụ thể chúng ta có thể rút ra một số nhận xét và đánh giá về sự phát triển
của kinh tế trang trại trong nông nghiệp thời gian vừa qua nh sau:
Một là, những u điểm đã làm tốt, cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới:
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở nhiều địa
phơng trong cả nớc, nhất là trung du, miền núi và ven biển. Mặc dù còn nhiều
mới mẻ và đang trong quá trình phát triển, nhng trang trại đã thực sự là hình thức

tổ chức sản xuất hàng hoá lớn, một mặt đã tạo ra lợng giá trị lớn về nông, lâm,
thuỷ sản hàng hoá mà quy mô đã vợt trội so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là
mô hình lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính, sản phẩm sản xuất ra là để
bến trên thị trờng.
- Kinh tế trang trại đóng vai trò là nhân tố mới trong nông thôn, là động lực
mới, nối tiếp và phát huy động lực kinh tế hộ nông dân, là khâu đột phá trong
quá trình chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Các trang trại đã tạo ra khối lợng lớn về nông sản hàng hoá đáp ứng tiêu
21


dùng trong nớc và xuất khẩu.
- Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại là quá
trình tất yếu, là bớc đi thích hợp để chuyển nền nông nghiệp từ tự cấp tự túc sang
sản xuất hàng hoá lớn.
- Chủ trang trại với cơ cấu xuất thân rất đa dạng, trong đó chủ yếu có nguồn
gốc từ hộ làm ăn kinh tế giỏi ở khắp các vùng trong cả nớc, là lực lợng chủ yếu
phát triển kinh tế trang trại, với tỷ trọng 71,19% là nông dân, nói lên rằng để
phát triển kinh tế trang trại ở nớc ta trớc hết và chủ yếu phải dựa vào lực lợng
nông dân làm kinh tế giỏi. Điều này thật đúng với mong muốn của Đảng và Nhà
nớc là làm sao để nông dân có thể giàu lên một cách chính đáng.
- Phát triển kinh tế trang trại đã huy động đợc một số vốn lớn nhàn dỗi
trong dân đầu t sản xuất có hiệu quả.
- Một số đáng kể các trang trại đã chọn hớng kinh doanh phù hợp với vùng
chuyên canh, vùng sản xuất hàng hoá theo quy hoạch của Nhà nớc và của các địa
phơng. Góp phần sớm định hình các vùng sản xuất chuyên môn hoá gắn với các
trang trại chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển cùng với sự phát triển của toàn
vùng.
- ở nớc ta, bình quân đất nông nghiệp trên đầu ngời rất thấp, nhng đất có

khả năng trồng trọt và diện tích có khả năng chăn nuôi còn rất lớn cha đợc khai
thác và sử dụng.
Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng tốt hơn quỹ
đất, đa đất đang hoang hoá vào sản xuất nhất là ở các vùng trung du và miền núi,
ven biển.
- Nớc ta có trên 70% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, đó là
một tỷ lệ quá cao đối với bất kỳ một quốc gia nào, điều đó dẫn đến vấn đề là làm
thế nào để giải quyết nạn thất nghiệp, lao động không có việc làm thờng xuyên.
Phát triển kinh tế trang trại đã tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho một
bộ phận đáng kể dân c sống ở nông thôn.
- Mặt khác với sự hình thành và phát triển của mình, trang trại, nhất là các
trang trại trồng cây lâu năm và trồng rừng đã cải thiện đáng kể môi trờng sinh
thái - một lợi ích không thể tính đợc bằng tiền.
- Trang trại còn là cầu nối truyền tải khoa học kỹ thuật và công nghệ về
nông thôn, là tấm gơng làm ăn giỏi cho mọi ngời cùng noi theo.
Mặc dù đã đạt đợc những thành tựu to lớn nh vậy và tác dụng và u điểm của
việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp là không thể
chối cãi nhng bên cạnh những u điểm đó kinh tế trang trại nớc ta cũng có nhiều
tồn tại đang đặt ra một loạt các vấn đề còn tiếpt ục nghiên cứu và giải quyết
trong thời gian tới, đó là:
- Chúng ta cha có một hệ thống chính sách thật sự đồng bộ, cụ thể nhằm
khuyến khích, phát triển kinh tế trang trại mặc dù đã có rất nhiều chính sách đợc
22


đa ra. Điều này gây không ít khó khăn cho các hộ nông dân, cho các trang trại và
cho cả những ngời quản lý.
Sở dĩ có tình trạng này là do có sự cha thống nhất thực sự về nhiều vấn đề
trong các cơ quan lãnh đạo nh: phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại có nên hay
không? có làm chệch hớng XHCN mà chúng ta đã xác định hay không? có nên

để cán bộ đơng chức, đảng viên thành lập, làm chủ trang trại hay không?.... kinh
tế trang trại mới phát triển ở nớc ta nên cha có thật nhiều kinh nghiệm giải quyết
vấn đề này.
Mặc dù Nghị quyết số 03/2000 của Chính phủ đã đợc ban hành, đã phần
nào giải quyết đợc những thắc mắc nêu trên nhng về lâu dài thì việc hoàn thiện
hệ thống chính sách vẫn là việc hết sức cần thiết.
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại phát triển khá mạnh, song chủ
yếu là tự phát và phân tán, cha thật gắn với quy hoạch các vùng sản xuất chuyên
môn hoá và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Tình trạng này diễn ra là
do cha có sự chỉ đạo, phối hợp sát sao của các cơ quan, các đơn vị làm công tác
thu gom chế biến, quy hoạch cha tốt, trình độ của ngời nông dân còn thấp và thói
quen tiểu nông vẫn còn tồn tại.
- Quỹ đất của trang trại có nguồn gốc rất đa dạng bao gồm cả phần đất đã
đợc giao sử dụng lâu dài và phần đất cha đợc giao, trong đó phần đất cha đợc
giao chiếm tỷ trọng đáng kể. Nguồn gốc và phơng thức quản lý quỹ đất đai cha
đợc giao rất khác nhau giữa các vùng. Đất nhận thầu của HTX, của nông, lâm trờng và chủ dự án nhiều khi không dứt khoát rõ ràng mang đến cho chủ trang trại
nhiều băn khoăn, cha thật yên tâm bỏ thêm vốn đầu t sản xuất kinh doanh.
Tình trạng trên diễn ra cũng có một phần nguyên nhân từ việc hệ thống
chính sách cha thật đồng bộ, các cấp các ngành ở các địa phơng thực hiện cha
nghiêm túc các chính sách đã đề ra.
- Giá trị và khối lợng sản phẩm hàng hoá của trang trại sản xuất ra tơng đối
lớn nhng một số vấn đề về chế biến, bảo quản, thị trờng tiêu thụ, giá cả cha thật
hoàn hảo, tuy đã đợc đặt ra nhng còn mang tính cục bộ.
Trong một số năm tới, hầu hết các trang trại đa diện tích cây lâu năm, rừng
nguyên liệu vào khai thác và thị trờng càng phải đặt nên trớc hết. Nếu không giải
quyết đợc vấn đề này ngay từ đầu sẽ gây tổn thất lớn cho các trang trại và cho
nền kinh tế của chúng ta.
- Trình độ quản lý cũng nh chuyên môn của chủ trang trại ở nớc ta khá thấp
chủ yếu chỉ học hết cấp hai, số ngời có trình độ chuyên môn chỉ chiếm 31,8%.
Sở dĩ có tình trạng này cũng là do mặt bằng dân trí của nớc ta thấp, số chủ

trang trại là nông dân hầu hết cha đợc đào tạo một cách bài bản trình độ văn hoá
và chuyên môn chiếm tỷ trọng lớn.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp nói
chung và kinh tế trang trại nói riêng cha đảm bảo, nh hệ thống thuỷ lợi, điện giao
thông, cơ sở chế biến,... đều vợt quá khả năng đầu t của các hộ nông dân và trang
trại, cần có sự đầu t hỗ trợ của Nhà nớc.
23


- Khoa học, kỹ thuật, công nghệ cha thực sự phát huy hết vai trò đối với
kinh tế trang trại một phần là do sự hạn chế về học vấn của chủ trang trại và ngời
lao động và một phần là các trung tâm và tổ chức khuyến nông cha thực sự phát
triển.
bàn.

- Chính sách thuế và trình độ lao động thuê mớn cũng cần nhiều điều đáng

- Một thực tế rất đáng buồn ở hầu hết các vùng trong cả nớc hiện nay là vấn
đề cho các trang trại vay vốn. Các trang trại mới chỉ chủ yếu sản xuất kinh doanh
bằng vốn tự có của mình (91,03%), phần còn lại là do vay từ bên ngoài, phần vốn
vay của các tổ chức tín dụng vô cùng khiêm tốn so với nhu cầu vay vốn của các
trang trại. Nguyên nhân của tình trạng này là do mạng lới tín dụng hoạt động cha
thực sự hiệu quả, thủ tục vay vốn còn nhiều dờm dà, tiêu cực trong ngành ngân
hàng vẫn còn tồn tại, các khoản thu và đóng góp khi đợc vay vốn quá nhiều,...
Giải quyết tốt những vớng mắc trên là điều không dễ, tuy nhiên để kinh tế
trang trại hình thành và phát triển thuận lợi, chúng ta phải làm tất cả những gì có
thể để khắc phục những mặt còn tồn tại trên.

24



Phần III

Xu hớng hình thành và những quan điểm
phát triển kinh tế trang trại
Theo em, muốn có những giải pháp tốt cho việc hình thành và phát triển của
kinh tế trang trại chúng ta không thể không xem xét đến xu hớng hình thành và
phát triển của nó. Xu hớng hình thành và phát triển sẽ cho chúng ta những thông
tin định hình về những trang trại mới sẽ đợc hình thành và sự phát triển của
những trang trại hiện có, kết hợp với những điều chúng ta đã phân tích ở trên sẽ
giúp chúng ta có đợc những thông tin cần thiết.
Hiện nay và trong thời gian tới, các trang trại nớc ta đã đợc hình thành và sẽ
tiếp tục hình thành từ các hớng chủ yếu sau đây:
- Các hộ nông dân đi xây dựng vùng kinh tế mới hoặc các hộ tại địa phơng
đợc giao đất nông, lâm, thuỷ sản với quy mô đủ lớn lập trang trại trồng cây ăn
quả, trồng rừng, chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thuỷ sản.
- Các hộ nông dân lập trang trại trên cơ sở tập trung ruộng đất thông qua
nhận chuyển nhợng và chuyển đổi ruộng đất cho nhau có quy mô ruộng đất đủ
lớn. Một số hộ nông dân khác lại thuê đất của hợp tác xã hay chính quyền địa
phơng dới hình thức nhận thầu.
- Một số công nhân, viên chức bộ đội, công an về hu hay phục viên trở về
địa phơng có vấn và khả năng sản xuất hàng hoá trên quy mô ruộng đất. Một số
khác chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản hình thành nên các trang trại.
- Một số ít ngời ở thành thị về nông thôn lập trang trại.
Hớng hình thành ở các vùng cũng sẽ có sự khác nhau.
- ở đồng bằng sông Hồng, diện tích ruộng đất ít, việc hình thành các trang
trại ở đây sẽ diễn ra chậm chạp và sẽ có diện tích nhỏ. Hớng chủ yếu sẽ là đầu t
vốn để thâm canh.
- Đồng bằng sông Cửu Long: diện tích canh tác lớn, điều kiện chuyển nhợng thuận lợi nên đã và sẽ hình thành những trang trại với quy mô khá lớn, trồng
cây lơng thực, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, thuỷ sản.

- ở Trung Du và miền núi: Diện tích đất canh tác lớn, thuận lợi cho việc
trồng và khai thác cây ăn quả và cây công nghiệp nên sẽ hình thành những trang
trại lâm nghiệp và trang trại trồng cây ăn quả, cây công nghiệp là chủ yếu.
- ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ: có quỹ đất rộng, có điều kiện hết sức
thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày. ở đây đã và sẽ tiếp tục
hình thành các trang trại trồng cây dài ngày nh cà phê, cao su, hồ tiêu và trồng
rừng.
Các trang trại đã hình thành, trong thời gian tới sẽ phát triển theo những xu
25


×