Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

TỔNG hợp lý THUYẾT TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.71 KB, 61 trang )

I.Nhà nước XHCN
1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất
của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà Đảng Cộng sản
lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó, nhân dân lao động thực hiện quyền lực
và lợi ích của mình; cũng qua đó mà giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh
đạo được toàn xã hội trong công cuộc xây dựng xã hội mới.- Nhà nước xã hội
chủ nghĩa cũng kế thừa và phát huy những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
trong lịch sử về vấn đề nhà nước và dân chủ. + Thừa nhận quyền lực nhà nước
là thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền bầu cử và bãi miễn các thành viên nhà
nước.
+ Kế thừa tính hợp lý về cơ cấu tổ chức có tính pháp quyền của Nhà nước Tư
sản: cũng có các cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ…)
và cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện Kiểm sát) nhưng quyền lực là thống nhất,
không có “tam quyền phân lập” như nhà nước tư sản.
2.Đặc trưng
- Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai
cấp nào đó, nhà nước đó thực hiện một chính sách giai cấp vì lợi ích của tất cả
những người lao động nhưng đồng thời vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua chính đảng của nó đối với nhà nước vẫn được duy trì.
- Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà
nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất
cả những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân, nhà nước chuyên
chính vô sản thực hiện sự trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.


- Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ
bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng,
chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không


phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức xây dựng toàn diện xã
hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, và
theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là: ngày càng hoàn thiện
các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
- Năm là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước
không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế – xã
hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước
“tự tiêu vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.
Với những đặc trưng đó, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.
Chức năng giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ
chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng
những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an
ninh xã hội.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó bạo lực, trấn áp cũng là
cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin đều cho rằng với bản chất của nhà nước vô sản, thì việc tổ
chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới


xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà
nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên. Giai đoạn tiếp theo là phải sử dụng quyền
lực nhà nước “để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”. Như vậy,
rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng phải là chức năng chủ yếu của Nhà nước
của giai cấp công nhân.

Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin khẳng
định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội mới, đó
là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng hơn cả việc
đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản.
Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ:
+ Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế; cải thiện không ngừng đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân;
+ Quản lý văn hóa xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa,
+ Thực hiện sự nghiệp giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện
+ Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại
nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin đã làm rõ nhiệm vụ
của nhà nước vô sản trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Đối với lĩnh vực kinh tế, nhà nước vô sản phải nhanh chóng phát triển mạnh số
lượng sản phẩm, củng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng suất lao động
được xem là nhiệm vụ quan trọng.
Đối với lĩnh vực xã hội, phải xây dựng được quan hệ xã hội mới, hình thành
những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có


khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực
hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thông qua những tổ
chức thích hợp.
3.Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con
người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao
động “phá hủy nhà nước tư sản” chiếm lấy chính quyền, thiết lập chuyên chính
vô sản.

Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống
lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò
là thiết chế cần thiết đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn
xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm
những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, đòi hỏi phải có một thiết chế
nhà nước phù hợp. quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là quá trình
tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình
này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ
định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề tồn
tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Bởi vậy để đảm bảo
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây dựng và không


ngừng hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa – một trong những công cụ chủ
yếu của quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một yêu cầu tất yếu
khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
II.Vấn đề dân tộc
1.Khái niệm dân tộc
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.
Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng
từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó
có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
+Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt

kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù; xuất hiện sau
bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ
tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
+Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và ý thức về sự thống
nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, với nghĩa thứ hai, dân
tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc.
- Các đặc trưng cơ bản của dân tộc
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng
nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các
thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.


+ Cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc cư trú đan xen
với nhiều dân tộc anh em.
+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của
quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Có nét tâm lý riêng (tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân
tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa
của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
b)hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc.
- Xu hướng thứ nhất: Do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà
các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập.
Trong thực tế xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp
bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác
động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

- Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác dụng nổi
bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư
bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo
nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân
tộc xích lại gần nhau.
Trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp
rất nhiều khó khăn, trở ngại. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở
tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những
khối liên hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm áp bức, bóc
lột các dân tộc còn nghèo nàn, lạc hậu.


Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I.Lênin phát hiện đang
phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong
phú và đa dạng.
* Xét trên phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ
nhất biểu hiện trong sự nổ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh
của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để
các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở
mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Hai xu hướng phát huy tác
động cùng chiều, bổ sung hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong
cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân
tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu
hướng trên đều loại trừ các tư tưởng và hành vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc,
tự ti dân tộc, dân tộc hẹp hòi, xung đột dân tộc.
* Xét trên phạm vi thế giới:Xu hướng này thể hiện trong phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc bị áp bực nhằm xóa bỏ ách đô hộ của thực dân đế quốc hoắc

đấu tranh để thoái khỏi sự kì thị dân tộc,Xu hướng xích lại gần nhau thể hiện ở
sự liên minh các dân tộc trên cơ sở lợi ích chung về kt, chính trị,… để hình thành
các hình thức liên minh đa dạng.
c)Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ
tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa
vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi


và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp của mỗi
nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các
dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng
một trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nhà nước tư
bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân
tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển
của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách
ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không
phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự
nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ

sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và
có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ
phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc
và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc
nội bộ của các nước


,- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh
dân tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào
công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành
thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền
bình đẳng dân tộc. Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
III.Vấn đề tôn giáo
a. Khái niệm tôn giáo
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức
phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều
trở thành thần bí.
Tôn giáo có nguồn gốc từ sự bất lực và sự sợ hãi của con ngưòi trước sức mạnh
của giới tự nhiên. Ngoài ra trong xã hội có giai cấp, tôn giáo còn bắt nguồn từ
sự áp bức bóc lột giai cấp.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự

nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo
lý của con người. Trong hệ thống những lời răn dạy của giáo lý tôn giáo cũng có
những điều góp phần hướng con người đến những việc thiện, tránh điều ác


b)Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa
+Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa
- Nguyên nhân nhận thức: Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to
lớn về khoa học và công nghệ, giúp con người có thêm khả năng để nhận thức xã
hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan còn nhiều vấn đề khoa học
chưa thể làm rõ. Do đó, tâm lý sợ hãi, trông chờ và tin tưởng vào thần, thánh,
phật… chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín
ngưỡng, tôn giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, lối sống của một bộ phận
nhân dân qua nhiều thế hệ, trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần
không thể thiếu của cuộc sống. Mặc dù, xã hội đã có những biến đổi lớn về kinh
tế, chính trị, xã hội… nhưng tín ngưỡng, tôn giáo không thay đổi kịp tiến độ của
những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
- Nguyên nhân chính trị – xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo, có những điểm
còn phù hợp với Chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước Xã hội
chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu tinh thần của bộ phận nhân dân. Vì vậy tôn
giáo vẫn tồn tại trong Chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức, các thế lực
chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để thực hiện cho mưu đồ chính trị của mình.
Cùng với nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… là điều kiện thuận lợi cho
tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong Chủ nghĩa xã hội nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ
quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các

giai tầng xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, con người
còn chịu tác động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó làm cho con
người có tâm lý thụ động, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.


- Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng
ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo
dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn
và phát huy văn hóa (có chọn lọc) của nhân loại trong đó có đạo đức tôn giáo là
cần thiết.
c)Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo
- Một là: Chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội Xã hội chủ
nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân
sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống tín điều
và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào làm hạn chế khả năng vươn lên làm chủ
của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới là yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
- Hai là: Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín
ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều
bình đẳng trước pháp luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Cần phát huy
những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức, chủ
nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự
do tín ngưỡng của công dân.
- Ba là: Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo
một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng

tôn giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ


Tổ quốc, nâng cao mức sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người
lao động có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với Chủ nghĩa xã hội. Đương
nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa
học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo.
- Bốn là: Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt
chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách
mạng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.
Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường
xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và
hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách
mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới.
Giải quyết vấn đề này phải khẩn trương, kiên quyết, vừa thận trọng vừa có sách
lược đúng đắn.
- Năm là: Phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với
đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ,
giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng khác nhau. Vì vậy cần phải có
quan điểm lịch sử- cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề
liên quan đến tôn giáo.
2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền



Vào đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như: Anh, Pháp, Mỹ, xuất hiện
những tổ chức kinh tế lớn, chi phối một số ngành như điện lực, khai khoáng, chế
tạo máy, dầu lửa, sắt thép…các tổ chức kinh tế này có quy mô lớn, nên khó bị
đánh bại trong cạnh tranh, từ đó dẫn đến sự thỏa hiệp, liên kết, để nắm giữ độc
quyền một số ngành. Như vậy, tổ chức độc quyền kinh tế là những doanh nghiệp
lớn, hoặc liên minh của các nhà tư bản lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản
xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại sản phẩm, nhằm thu lợi nhuận độc quyền
cao.Để liên kết giữa các nhà tư bản nhằm tạo thể độc quyền. họ có thể thực hiện
dưới các hình thức như:
- Liên kết dọc, tức liên kết giữa các nhà tư bản trong cùng ngành sản xuất, kinh
doanh.
- Liên kết ngang là liên kết giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất, kinh
doanh khác nhau.
b. Các tổ chức độc quyền ra đời và phát triển từ thấp đến cao, dưới các
hình thức cơ bản sau:- Các-ten (cartel) là hình thức tổ chức độc quyền dựa
trên sự ký kết hiệp định giữa các xí nghiệp thành viên để thỏa thuận với nhau về
giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, thời hạn thanh toán… còn việc sản
xuất và tiêu thụ vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện.
- Xanh-đi-ca (Syndicat) là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc lưu thông,
tiêu thụ sản phẩm do một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là
công việc độc lập của mỗi thành viên.
- Tờ-rớt (Trusts) là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm
thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài chính đều do một ban quản trị quản lý,
điều hành. Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi
nhuận theo giá trị cổ phần đóng góp và hiệu quả kinh doanh.


- Công-xóoc-xi-om (Comsortium) là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và
quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxóocxiom khong
chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác

nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như
vậy, một côngxóocxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên ket trên cơ sở hoàn
toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù. Nó có khả năng chi
phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế của một nước.
- Công-gô-lô-mê-rát (Conglomerate) là liên minh độc quyền mang tính quốc tế,
nó hoạt động và chi phối ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau và ảnh hưởng
đến nhiều nước. Ngày nay các Công-gô-lô-me-rát chính là các tập đoàn tư bản
tài chính quốc tế, có khả năng chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều
nước.
c. Tư bản tài chính
Khi hình thành các tổ chức độc quyền trong công nghiệp, thì đồng thời trong
ngân hàng cũng diễn ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản với quy mô lớn,
dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Cạnh tranh làm cho
các ngân hàng nhỏ bị phá sản, hoặc phải sát nhập vào những ngân hàng lớn,
ngoài ra các tổ chức độc quyền trong công nghiệp đòi hỏi phải có những ngân
hàng lớn để đáp ứng vốn cho nó, từ đó các tổ chức độc quyền trong ngân hàng
ra đời.
Sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền lớn về ngân hàng, làm thay đổi vai trò
của ngân hàng, từ chỗ chỉ là trung gian trong thanh toán và tín dụng, đến nay
đã nắm giữ và chi phối một lựơng lớn tư bản tiền tệ, từ đó có thể chi phối, khống
chế các tổ chức độc quyền công nghiệp và các hoạt động của nền kinh tế. Trước
sự chi phối ngày càng lớn của các tỏ chức độc quyền trong ngân hàng, các tổ
chức độc quyền trong công nghiệp tìm cách xâm nhập vào hoạt động của ngân


hàng, hoặc thành lập ngân hàng riêng để huy động vốn. Quá trình liên kết giữa
các tổ chức độc quyền trong công nghiệp với các tổ chức độc quyền trong ngân
hàng, đã hình thành các tập đoàn tư bản tài chính. Lênin gọi là bọn đầu sỏ tài
chính.
Các tập đoàn đầu sỏ tài chính chi phối hoạt động kinh tế thông qua chế độ tham

dự, bằng cách mua và nắm giữ cổ phiếu khống chế trong các “công ty mẹ”, tiếp
theo các công ty này lại chi phối các “công ty con”…từ đó giúp cho các tập đoàn
đầu sỏ tài chính có thể chi phối một lượng tư bản lớn hơn nhiều lần so với số
vốn của nó. Ngoài ra, tư bản tài chính còn phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,
đầu cơ bất động sản…để tăng quy mô vốn và thu lợi nhuận cao.
Các tập đoàn đầu sỏ tài chính chi phối hoạt động chính trị thông qua việc đưa
người vào bộ máy nhà nước, hoặc mua chuộc hối lộ các viên chức nhà nước, để
chi phối đường lối, chính sách của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích cho các tập
đoàn tư bản tài chính.
d. Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là đầu tư tư bản ra nước ngoài, nhằm thu được lợi nhuận cao
từ các nước nhập khẩu. Nguyên nhân xuất khẩu tư bản trong giai đoạn CNTB
độc quyền là do:
- Các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản tài chính lớn đã tích lũy
được một lượng lớn tư bản và có một lượng tư bản “thừa” cần đầu tư ra nước
ngoài nhằm thu lợi nhuận cao hơn so với đầu tư ở trong nước.
- Các nước còn kém phát triển thường thiếu vốn đầu tư trong khi lại có nguồn
nguyên liệu dồi
dào, giá nhân công rẻ, từ đó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất khẩu tư bản có thể nhà nước hoặc tư nhân thực hiện, dưới hai hình thức
chủ yếu là:


- Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) được thực hiện dưới hình thức
tư bản nước ngoài mua lại các doanh nghiệp của nước sở tại, đầu tư mới 100%
vốn, hoặc góp vốn cổ phần với nhà nước hoặc tư nhân của nước sở tại.
- Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức mà các tập đoàn tư
bản tài chính cho chính phủ, doanh nghiệp nước ngoài vay vốn, hoặc đầu tư vào
thị trường chứng khoán ở nước ngoài.
- Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư sản dùng nguồn vốn ngân sách để

đầu tư ra nước ngoài, hoặc cho vay. Nhà nước cũng dùng ngân sách để viện trợ
ưu đãi, hoặc viện trợ không hòan lại, nhằm thực hiện những mục tiêu về kinh tế,
chính trị, quân sự.
- Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do các tập đoàn tư bản tài
chính tư nhân thực hiện, thường được đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có lợi
nhuận cao, khả năng thu hồi vốn nhanh.
e. Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền
Khi các tập đoàn tư bản tài chính mở rộng xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, sẽ
dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các tập đoạn tư bản, từ đó đòi hỏi phải có sự
phân chia thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư bản tài chính lớn. Thị trường
của các nước đang phát triển là nơi có nhiều tiềm năng và nguồn lực to lớn, có
thể đem lại lợi nhuận cao cho các tập đoàn tư bản tài chính, từ đó dẫn đến sự
cạnh tranh quyết liệt và phân chia lại thị trường thế giới giữa các tập đoàn tư
bản tài chính lớn. Sự phân chia thị trường thế giới giúp cho các tập đoàn tư bản
tài chính củng cố vị trí độc quyền, đảm bảo lại ích cho các tổ chức độc quyền,
hạn chế thiệt hại.
f. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc


Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền lớn, vẫn không giải
quyết được những mâu thuẫn, đồng thời do sự phát triển không đều về kinh tế,
quân sự dẫn đến thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc,
Sự phân chia lãnh thổ ngày nay, không phải bằng xâm chiếm thuộc địa như
trước đây, mà thông qua chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự, dẫn đến các nước
kém phát triển phải lệ thuộc vào các nước tư bản phát triển cả về kinh tế, quân
sự, chính trị, ngoại giao.
I.Sự chuyển hóa tiền thành tư bản:
1. Công thức chung của tư bản
Bản thân tiền tệ không phải là tư bản, tiền chỉ trở thành tư bản khi sử dụng nó
để bóc lột người khác, Để hiểu rõ tiền biến thành tư bản như thế nào. Mác đã

dùng công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và công thức chung của tư bản
sau đây để so sánh:
+ Lưu thông hàng hóa giản đơn: H – T – H (hàng – tiền – hàng)
+ Lưu thông tiền là tư bản: T – H – T (tiền – hàng – tiền).
- So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và lưu thông tư bản
+ Điểm giống nhau: cả hai công thức đều diễn ra mua và bán; đều có hai nhân tố
là tiền và hàng; có quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán. Tuy nhiên,
giống nhau chỉ là hình thức, còn bản chất hoàn toàn khác nhau.
+ Công thức H – T – H: Quá trình bắt đầu bằng hành vi bán (H – T), kết thúc
bằng hành vi mua (T – H). Điểm bắt đầu và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền
tệ chỉ đóng vai trò trung gian. + Ngược lại công thức: T – H – T, điểm xuất phát
là mua (T – H), điểm kết thúc là bán (H – T), tiền là điểm xuất phát và cũng là
điểm kết thúc, hàng hóa đóng vai trò trung gian.
- Trên cơ sở so sánh, chúng ta nhận thấy: Mục đích của vận động của T – H – T
không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị. Nếu tiền ứng trước và tiền thu về sau


khi bán hàng bằng nhau thì quá trình vận động T – H – T là vô nghĩa. Vì vậy,
trong quá trình vận động tư bản phải có sự tăng lên về lượng, nghĩa là số tiền
thu về phải lớn hơn số tiền ứng trước. Do đó, công thức vận động đầy đủ của tư
bản phải là: T – H – T’ trong đó T’ = T + ∇T, ∇T là số tiền tăng thêm được Mác
gọi là giá trị thặng dư.
Công thức T – H – T’ được gọi là công thức chung của tư bản, vì nó phản ánh
mục đích vận động của tư bản, và tất cả các loại hình tư bản như: tư bản công
nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay đều vận động dưới dạng đó.
Như vậy, mục đích lưu thông của tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng
dư. Do đó, sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị
là k có giới hạn.
2. Mâu thuẫn của công thức chung
Thoạt nhìn vào sơ đồ: T – H – T’– H – T’’ người ta thấy hình như quá trình lưu

thông đẻ ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.. Nhưng trong mọi trường hợp thì
dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá bản thân tiền tệ trong lưu thông đều
không tạo ra một giá trị nào.
-Trường hợp trao đổi ngang giá:chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị,từ tiền thành
hàng cà từ hàng thành tiền,tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên trước sau k
đổi.Tuy nhiên về GTSD thì cả 2 bên trao đổi đều có lợi vì có hàng hóa thích hợp
nhu cầu của mình
- Trường hợp trao đổi k ngang giá
+TH1: giả sử 1 nhà tu bản đều bán giá cao hơn giá trị hàng hóa 10%, như vậy
khi anh ta bán hàng sẽ thu lợi được 10%, nhưng khi đóng vai trò là người mua,
anh ta lại bị mất 10%, như vậy cuối cùng anh ta cũng không thu được giá trị
thặng dư.
+TH2:Trường hợp mua hàng thấp hơn giá trị 10% cũng vậy.


+TH3: giả sử trong xã hội có một bọn người chuyên đầu cơ, bịp bợm chuyên
mua rẽ bán đắt mà kiếm được nhiều lãi.Hắn mua rẻ 5 đồng,bán đắt 5 đồng =>10
đ giá trị thặng du la do trao đổi k ngang giá, đấy là số tiền lưa gat. Trong
trường hợp này, phần giá trị mà anh ta thu được khi là người bán hoặc người
mua, chẳng qua là phần giá trị mà người khác bị mất đi. Còn xét chung cả Xh
tong số giá trị hàng hóa k tăng lên.
Như vậy, lu thong k đẻ ra giá trị thặng dư, ở ngoài lwuuw thông,nếu ng trao đổi
đứng 1 mình với hàng hóa thì giá trị hàng hóa k tăng lên, nếu nguoi SX muốn
tạo giá trị mới cân sức lao động của mình nhưng giá trị bản thân hàng hóa vẫn
k tăng lên.
Vì vậy, giá trị thặng dư được tạo ra từ lưu thông, nhưng không phải trong lưu
thông. Đó chính là mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
3. Hàng hóa sức lao động
a. Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong mỗi con người, trong
nhân cách sinh động của con ng,mà người đó có khả năng đem ra sử dụng để

tạo ra của cải vật chất.
Sức lao động là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng k phải trg bất kì điều kiện
nào sức lao động cũng là hàng hóa
b. Điều kiện, sức lao động biến thành hàng hóa:
Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể ,làm chủ đc sưa LĐ có
quyền đem bán sức lao động của mình.
Hai là, người có sức lao động hoàn toàn mất hết mọi tư liệu sản xuất, chỉ còn lại
sức lao động là tài sản duy nhất. Để tồn tại phải bán sức lao động để sống
Sức LĐ biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.Sự
xuất hiện của hàng hóa sức LĐ làm cho SX HH phổ biến và báo hiệu sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản.


c. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị của hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động. Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo
gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra
sức LĐ.Giá trị hàng hóa sức lao động đặc biệt có yếu tố tinh thần và lịch sử, do
đó tùy thuộc vào điều kiện mỗi nước và từng thời kỳ mà giá trị của hàng hóa sức
lao động cao hay thấp.
Lượng giá trị hàng hóa sức LĐ do những bộ phận sau hợp thành
+Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết ddeer tái sản
xuất sứ LĐ, duy trì đời soongsg bản thân conng nhân
+phí tôn dao tao ng coogn nhân
+giá trị tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái ng công
nhân.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa thông
thường là ở chỗ nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của người mua, nhưng hàng
hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường là quá trình tiêu dùng nó đã

sản xuất ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó mà nhà tư bản đã mua. Phần
lớn hơn đó, chính là giá trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu giá trị sử dụng của
hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung
của tư bản.
-Ý nghĩa:đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử: Xã hội từ nền kinh tế hàng
hóa giản đơn sáng nền kinh tế hàng hóa TCBN hay KT thị trường.NHờ phát hiện
ra hàng hóa sức Lao động Mác đã tìm ra chìa khóa giải quyết mâu thuẫn CT
chug TB, tìm ra nguồn gốc đích thực của giá trị thặng dư
II.Quá trình SX giá trị thặng dư;


1.Sự thống nhất giữa sản xuất ra giá trị sử dụng và sản xuất ra giá trị
thặng dư
Quá trình sản xuất của chủ nhĩa tư bản, trước hết vẫn là việc kết hợp sức lao
động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra giá trị sử dụng. Quá trình sản xuất, nhà
tư bản là người nắm tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của người làm thuê.
Giả sử nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân đúng giá trị là 3 USD
để sử dụng trong 10 giờ. Giả định cứ 1 giờ lao động người công nhân tạo ra một
lượng giá trị mới là 0,60 USD. Kết quả sau 5 giờ làm việc, người lao động biến số
tư liệu sản xuất có giá trị là 20 USD thành hàng hóa mới có giá trị là 23 USD.
Nếu dừng lại ở đây thì người công nhân không bị bóc lột. Nhưng, về lý nhà tư
bản mua sức lao động trong 10 giờ chứ không phải 5 giờ. Vì vậy, người công
nhân phải tiếp tục lao động thêm 5 giờ nữa. Lần này, nhà tư bản chỉ cần bỏ ra
20 USD để mua tư liệu sản xuất và người công nhân tiếp tục lao động 5 giờ nữa
và nhà tư bản lại thu 23 USD nữa.
Từ giả thiết trên cho chúng ta thấy: nhà tư bản chỉ bỏ ra 43 USD và thu về 46
USD, phần chênh lệch 3 USD do đâu mà có, 3 USD đó chính là do sức lao động
của người công nhân tạo ra.,
Kết luận:
+ giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao

độngdo công nhân làm thuê tạo ra và bi nhà tư bản chiếm không.
+ ngày lao động của công nhân luôn có hai phần: thời gian lao động cần thiết
mà ng công nhân tạo ra 1 lượng giá trị ngang giá trị sức lao động; thời gian lao
động thặng dư, để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
+mâu thuận chung của TB đc giải quyết: việc chuyển hóa của tiền thành tư bản
diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó, và chỉ có
trong lưu thông nhà tư bản mới mua được thứ hàng hóa đặc biệt, hàng hóa sức


lao động, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động đem lại giá trị thặng dư cho
nhà tư bản.
2.Bản chất tư bản.TBBB.TBKB
a. Bản chất của tư bản:
không phải mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư
bản khi nó nằm trong tay nhà tư bản và sử dụng để bóc lột lao động làm thuê. tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao đông không công
của công nhân làm thuê.Bản chất tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà
trg đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thawg dư do giai cấp công nhân làm ra
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến: Trong tư liệu sản xuất, khi tham gia vào quá trình sản xuất có
bộ phận chỉ hao mòn dần, giá trị được chuyển dần dần vào sản phẩm mới như:
máy móc, thiết bị, nhà xưởng, có loại lại được chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới
như nguyên liệu, nhiên liệu. Quá trình bảo tồn và chuyển giá trị vào trong sản
phẩm mới của các loại tư bản là nhờ có lao động cụ thể của người lao động và
quá trình di chuyển đó chúng cũng không hề làm tăng lên về số lượng giá trị của
hàng hóa sau quá trình sản xuất.), tức tư bản bất biến, nghĩa là giá trị không
thay đổi. Vậy, tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái là tư liệu
sản xuất, giá trị của nó được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về
lượng sgiá trị ,kí hiệu C
- Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động của công nhân,

một mặt giá trị của nó chuyển thành tư liệu tiêu dùng của người công nhân; mặt
khác trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng người công nhân đã
tạo ra giá trị mới bao gồm giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Vậy, tư
bản khả biến là bộ phận tư bản biểu hiện là giá trị sức lao động không tái hiện


ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên,
tức là biến đổi về lượng ,kí hiệu V
Tóm lại: Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu để sản xuất ra giá
trị thặng dư, còn tư bản khả biến mới là bộ phận trực tiếp tạo ra giá trị thặng

3.Tỷ suất giá trị thặng dư (m’):
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Mác
trình bày tỷ suất giá trị thặng dư bằng chữ m’ và xác định công thức của tỷ suất
giá trị thặng dư là:
m’= (m/v) *100%

hay m’=(Thời gian LĐ thặng dư/ Thời gian LĐ tất

yếu)*100%
m’ nói lên trình độ bóc lột cua nhà tư bản đối với công nhân làm thuê
Khối lượng gía trị thặng dư (M)
Mác dùng chữ M là ký hiệu khối lượng giá trị thặng dư và V là tổng số tư bản
khả biến. Do đó, công thức về khối lượng giá trị thặng dư là:
M=m’V=(m/v)*V
CNTB phát triển thì M càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng
4. Những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động xã

hội,giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi.
Việc kéo dài thời gian lao động trong ngày chỉ có giới hạn và vấp phải sự phản
kháng của người lao động .Về mặt kte, ngày lao động phải dài hơn thời gian Lđ
tất yếu nhưng k thể vượt quá giới hạn về tinh thần và thể chất của ng LĐ
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối


khi SX TBCH phát triển đến giai đoạn địa công nghiệp cơ khí,kĩ thuật tiến bộ làm
năng suất LĐ tăng ,các nhà tư bản chuyển snag phg thức bóc lột dựa trên cơ sở
tăng NSLĐ
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được là do rút ngắn thời gian
lao động cần thiết bằng cách nâng cao năng suất LĐXH nhờ đó tăng thời gian
LĐthăng dư trong đkiện độ dài ngày LĐ nhưu cũ.
Trg giai đoạn đầu của CNTB ,SX GTTD tuyệt đối là phương pháp chủ yếu ,đến
giai đoạn tiếp sau, khi kĩ thuật phát triển , SX GTTD tương đối là pp chủ yếu.Hai
phương pháp trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp để nâng cao trình độ
bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản
c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư có được do tăng năng suất lao
động cà biệt,làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của

Để có được giá trị thặng dư siêu ngạch, nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, công
nghệ,làm tăng NSLĐ làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa giảm xuống thấp hơn
giá trị xã hội. Nếu xét riêng đối với từng nhà tư bản, thì giá trị thặng dư siêu
ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời, nhưng xét trên phạm vi xã hội, giá trị thặng
dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư
bản cải tiến kỹ thuật, công nghệ mới, tìm kiếm bí quyết công nghệ để nâng cao
năng suất lao động, giảm giá trị cá biệt của hàng hóa, từ đó cũng nâng cao năng
suất lao động của xã hội nói chung.

Giá trị thặng dư siêu ngạch còn được gọi là hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối vì cả hai đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động,


Giá trị thặng dư siêu ngạch cũng có những điểm khác với giá trị thặng dư tương
đối :
- Giá trị thặng dư siêu ngạch phản ánh quan hệ bóc lột trong từng xí nghiệp tư
bản,và mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản còn giá trị thặng dư tương
đối phản ánh quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp
công nhân làm thuê.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn
giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ tồn tại tạm thời, còn giá trị thặng dư tương đối
tồn tại tương đối lâu dài.
5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
Mỗi phương thức SX có 1 quy luật kte tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ
kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó.Theo C.Mác, chế tạo ra giá
trị thăng dư là quy luật tuyet đối của phuong thuc SX TBCNThaatj vậy, GTTD do
lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư
bản, phản ảnh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của CNTB- quan hệ tư bản bóc
lột làm thuê.
Mục đích SXTBCN là SX ra gía trị thặng dư.SX ra GTTD tối đa không chỉ phản
ánh mục đích cua nền SX TBCN mà còn vạch rõ phương tiện , thủ đoạn mà các
nhà tư bản sử dụng để đạt mục đích như tăng cường bóc lột công nhân bằng
cách tăng cường độ lao đông, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và
mở rộng SX.
Quy luật GTTD ra đơi và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của CNTB.Nó là
động lực vận động , phát triển của chủ nghĩa tư bản , đồng thời nó cũng làm cho
mọi mâu thuẫn của CNTB ngay càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB
bằng 1 XH cao hơn



×