Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Nghiên cứu đánh giá xâm nhập mặn vùng hạ lưu sông Mã bằng mô hình MIKE 11 AD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.77 MB, 63 trang )

LỜI CÁM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Khí tượng thủy văn
– Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã truyền thụ kiến thức cho em
trong suốt quá trình học tập vừa qua, đặc biệt là thầy PGS.TS Hoàng Ngọc Quang và
Th.S Trần Ngọc Huân, người đã hướng dẫn và chỉ dạy rất tận tình cho em hoàn thành
đồ án này.
Do hạn chế về khả năng của bản thân nên đồ án không tránh khỏi còn những
hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo quý báu của
thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cám ơn!

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hữu Đô


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC HÌNH


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Dựa vào các nghiên cứu của Nguyễn Văn Cung và cộng sự năm 1981: Năng
suất lúa sẽ giảm khi độ mặn nước tưới nội đồng tăng. Ví dụ khi độ mặn là 0,5 ‰ thì
năng suất lúa sẽ chỉ còn 94 %, khi độ mặn là 1,0 ‰, 2,0 ‰ và 5,0 ‰ thì năng suất
lúa chỉ đạt tương ứng là 88 %, 60,1 % và 50 %. Đặc biệt khi độ mặn tăng đến 15 ‰
thì cả lúa và mạ đều chết. Ngoài ra độ mặn còn ảnh hưởng đến tính chất lý hoá của


nước như trọng lượng riêng, độ dẫn điện, độ truyền âm, độ hoà tan các chất khí và
nguy cơ tồn vong của hệ sinh thái nước ngọt.
Vùng hạ du sông Mã là khu vực phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp,
du lịch và trung tâm văn hoá của tỉnh Thanh Hoá nói riêng, cũng như của khu vực
Bắc Trung Bộ nói chung. Trong những năm gần đây vùng hạ du sông Mã đang phải
đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn đang ngày càng trở nên trầm trọng, đặc biệt là
các khu vực cửa sông ven biển, gây khó khăn cho hoạt động lấy nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp.
Do đó với đề tài “Nghiên cứu đánh giá xâm nhập mặn vùng hạ lưu sông Mã
bằng mô hình MIKE 11 AD” được thực hiện để phục vụ quy hoạch và phát triển
kinh tế xã hội trên lưu vực.
Mục tiêu của đồ án
Ứng dụng MIKE 11 AD nghiên cứu đánh giá xâm nhập mặn vùng hạ lưu sông Mã
để có thể tính toán được khoảng cách mà mặn có thể xâm nhập vào sâu bao nhiêu so với
cửa sông, từ đó làm cơ sở để đưa ra được những giải pháp khắc phục được tình trạng xâm
nhập mặn và phục vụ quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội trên lưu vực.
1 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu xâm nhập mặn vùng hạ lưu sông Mã.
2 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nội dung công việc trên, các phương pháp nghiên cứu
chính sau đây đã được sử dụng trong đề tài:
- Phân tích đánh giá, tổng hợp và thừa kế các nội dung phù hợp phục vụ cho
nghiên cứu của đề tài.
3 Nội dung đồ án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đồ án gồm 3 chương chính:
Chương I: Mô tả điều kiện địa lý- tự nhiên và những đặc trưng khí tượng thủy
văn của lưu vực sông Mã.
Chương II: Nêu lên hiện trạng, các tác hại,và các biện pháp khắc phục xâm
nhập mặn vùng hạ lưu sông Mã.
Chương III: Xây dựng mô hình MIKE 11 AD đánh giá xâm nhập mặn hạ lưu

sông Mã
5


CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ – TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI LƯU
VỰC SÔNG MÃ
1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
1.1.1.Vị trí địa lý
Sông Mã là con sông lớn nhất ở miền trung, bắt nguồn từ dãy bon kho, ở độ cao
2.178 m thuộc huyện tuần giáo tỉnh Lai Châu, chảy theo hướng tây bắc - đông nam
qua 5 tỉnh trong nước (Hình 1.1): Lai Châu, Sơn La, Hòa bình, Nghệ An, Thanh Hóa
và tỉnh Sầm Nưa của nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đổ ra biển đông tại Cửa
Hới (Lạch Trào) và hai phụ lưu Lạch Trường và Lạch Sung. [9]

(Nguồn: Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mã)
Hình 1.1: Vị trí địa lý lưu vực sông Mã
Toàn bộ lưu vực sông Mã nằm trong toạ độ địa lý: Từ 19o37’30” đến 21o37’30”
độ vĩ Bắc, Từ 103o05'10” đến 106o05'10” độ kinh Đông. Phía Bắc giáp lưu vực sông
Đà, sông Bôi chạy suốt từ Sơn La về đến Cầu Điền Hộ. Phía Nam giáp lưu vực sông
Hiếu, sông Yên, sông Đơ. Phía Tây giáp lưu vực sông Mê Kông. Phía Đông là Vịnh
Bắc Bộ chạy dài từ cửa sông Càn đến cửa sông Mã với chiều dài bờ biển 40 km.
1.1.2. Đặc điểm địa hình lưu vực
Lưu vực sông Mã trải rộng trên nhiều tỉnh thuộc hai nước Việt Nam, Lào và
chạy dài từ đỉnh Trường Sơn đến Vịnh Bắc Bộ nên địa hình trên lưu vực rất đa dạng.
Hướng dốc chính của địa hình theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Cao độ biến đổi từ
2.000 m đến 1,0 m. Có thể chia địa hình sông Mã thành 3 dạng chính:

6



+ Địa hình núi cao: Dạng địa hình này nằm ở thượng nguồn lưu vực sông: Phía
sông Mã từ Bá Thước trở lên thượng nguồn, phía sông Chu từ Cửa Đạt trở lên
thượng nguồn. Đỉnh cao nhất dạng địa hình này là núi Phu Lan 2.275 m. Độ cao
giảm theo hướng Bắc Nam. Diện tích mặt bằng dạng địa hình này chiếm tới 80 %
diện tích toàn lưu vực và vào khoảng 23.228 km2.
+ Địa hình gò đồi: Dạng địa hình này tập trung chủ yếu ở trên các huyện Thạch
Thành, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lạc, Triệu Sơn, Thọ Xuân thuộc tỉnh Thanh Hoá, Tân
Lạc, Lạc Sơn, Yên Thuỷ (tỉnh Hoà Bình). Dạng địa hình này có cao độ từ 150 m
đến 20 m, diện tích mặt bằng chiếm tới 3.305 km 2 vào khoảng 11,75 % diện tích
lưu vực.
+ Địa hình đồng bằng và đồng bằng ven biển: Dạng địa hình này nằm trọn vẹn
trong tỉnh Thanh Hoá có cao độ từ +20 ÷ +1.0 m. Do sự chia cắt của các sông suối
mà tạo nên các vùng đồng bằng có tính độc lập như Vĩnh Lộc (hạ du sông Bưởi);
Nam sông Mã - Bắc sông Chu, Bắc sông Lèn, Nam sông Lèn và đặc biệt khu hưởng
lợi Nam sông Chu. [9]
1.1.3. Đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng
1.1.3.1. Địa chất khoáng sản
Theo bản đồ khoáng sản của Tổng cục Địa Chất trên lưu vực sông Mã xuất hiện
hầu hết các loại khoáng sản có ở Việt Nam nhưng trữ lượng rất nhỏ khoáng sản
nhiều nhất là đá vôi và Clanhke, sau đó đến than non và Crommít. Phần thượng
nguồn hầu như không có mỏ khoáng sản mà chủ yếu là sa khoáng không tập trung.
Các vị trí dự định xây dựng kho nước đều không có mỏ khoáng sản.
1.1.3.2. Thổ nhưỡng
- So với toàn quốc, lưu vực sông Mã có 40/60 loại đất được xếp thành 11 nhóm:
đất cát ven biển, nhóm đất nhiễm mặn, nhóm đất nhiễm phèn, đất phù sa, đất lầy và
than bùn, nhóm đất xám bạc màu, nhóm đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ trên
núi, đất thung lũng, đất xói mòn trơ sỏi đá.
- Trong 11 loại đất ở lưu vực, phần thuộc Thanh Hoá có 8 loại: đất cát ven
biển, đất mặn, đất phù sa, đất lầy Glêy, đất đen, đất xám bạc màu, đất đỏ và đất mòn
trơ sỏi đá.

- Trong 8 loại đất ở thanh Hoá, đất phù sa là loại đất chủ yếu ở vùng đồng bằng và
loại đất quan trọng tạo nên một nền nông nghiệp bền vững ở địa phương.
1.1.4. Đặc điểm thảm phủ thực vật
Thảm thực vật trên lưu vực rất phong phú về kiểu, loại được hình thành do
phân hoá của khí hậu, địa hình và do sự tác động của con người.
Địa hình lưu vực chiếm vai trò rất quan trọng trong việc hình thành lớp phủ
7


thực vật trên lưu vực: địa hình núi cao thường gắn với việc hình thành các loại
thảm phủ rừng kín lá rộng xanh nhiệt đới ẩm, trảng cỏ... Địa hình núi thấp hình
thành các rừng kín lá rộng xanh nhiệt đới ẩm, trảng cỏ thứ sinh, tre nứa. Địa hình
vùng đồng bằng là thảm phủ cây nông nghiệp lúa nước, cây ăn quả, hoa màu...
[9]
Trong các kiểu thảm thực vật, kiểu thực vật thứ sinh, thực vật trồng là chủ yếu.
Thảm thực vật tự nhiên nguyên sinh còn rất ít ở nơi khó khai thác, khó vận chuyển.
1.1.5. Đặc điểm khí tượng, thủy văn
1.1.5.1. Đặc điểm khí tượng
Lưu vực sông Mã trải dài trên 2 vĩ độ và 2 kinh độ nên chế độ khí hậu của các
vùng, các tiểu lưu vực cũng khác nhau. Khí hậu chung trên lưu vực thuộc vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa, có đầy đủ 4 tiết khí hậu trong một năm là xuân, hạ, thu, đông.
Giữa các vùng khí hậu có chênh lệch nhau và thời gian chuyển mùa, phần thượng
nguồn nằm trong vùng thời tiết khí hậu Tây Bắc - Bắc Bộ, vùng sông Chu nằm trong
vùng thời tiết khí hậu Khu 4. Phần trung và hạ lưu sông Mã nằm trong vùng khí hậu
giao thời giữa Bắc Bộ và Khu 4. Chính vì vậy khí hậu trong lưu vực rất đa dạng,
phong phú và ôn hoà. Sự biến động khí hậu giữa các vùng và giữa các mùa đều thể
hiện qua các yếu tố khí tượng trên các trạm đo.
Bảng 1.1: Mạng lưới trạm khí tượng và đo mưa trên lưu vực sông Mã
Vị trí
TT Trạm


Cao
độ

Thời gian đo

Ghi chú

Bắt
đầu
1961
1962

KH, sl mưa 1958
KH

1 Tuần Giáo
2 Sông Mã

Kinh
độ
0

103 25 21035’
103056' 20059'

3 Thanh Hoá

105046’ 190 49’ 5


1956

KH, sl mưa 1901

5 Yên Định

105039’ 200 09’ 9

1965

KH

6 Như Xuân

105034’ 190 38’ 10

1964

KH

7 Hồi Xuân

105007’ 200 22’ 87

1959

KH, sl mưa 1928

8 Mường Lát


104034’ 20032’

1963

Mưa

13 Cẩm Thuỷ
18 Mường Hinh

105028’ 20012’
105007' 19053'

1960

Mưa
Mưa

21 Giàng

105045' 19053'

21

1960

Mưa

23 Cự Thôn

105053' 19058'


2

1960

Mưa

24 Hà Trung

105051' 19059'

14

1960

Mưa

Vĩ độ

(m)
570
302

8

Kết
thúc
2003



Cao
độ

Vị trí
TT Trạm

Thời gian đo

Ghi chú

Bắt
đầu
1959

Mưa

28 Sầm Sơn

Kinh
độ
105054' 19044'

31 Lang Chánh
34 Cửa Đạt

105015' 20008'
105017' 19052'

1960
1962


Mưa
Mưa

35 Xuân Khánh

105030' 19055'

1963

Mưa

37 Thọ Xuân

105031' 19056'

Vĩ độ

(m)
2

40

39 Xuân Thượng 105026' 19043'
0

0

65


Kết
thúc

1960

1989

Mưa

1968

1990

Mưa

1960

1978

Mưa

1970
1960

1982
1974

Mưa
Mưa


40 Nga Sơn

105 58' 20 00'

41 Sòi
45 Yên Khương

105037' 20002'
105051' 20020'

46 Có Cánh

105021' 20015'

90

1963

1987

Mưa

47 Xóm Giá

105024' 19048'

48

1960


1978

Mưa

48 Quảng Xương 105047' 19044'

41

1959

1979

Mưa

(Nguồn: Trung tâm dữ liệu và thông tin khí tượng thủy văn Việt Nam)

9


a. Chế độ mưa:
Mưa trên lưu vực sông Mã được chia thành 3 vùng có tính chất đặc thù
khác nhau:
- Vùng thượng nguồn dòng chính sông Mã nằm trong chế độ mưa Tây Bắc Bắc Bộ, mùa mưa đến sớm và kết thúc sớm hơn vùng Trung Bộ. Lưu vực sông Chu
nằm trong vùng mưa Bắc Trung Bộ mùa mưa đến muộn hơn Bắc Bộ 15 - 20 ngày
cũng kết thúc muộn hơn Bắc Bộ 10 - 15 ngày.
- Khu vực đồng bằng hạ du sông Mã mang nhiều sắc thái của chế độ mưa Bắc
Bộ, mùa mưa đến bắt đầu từ tháng V hàng năm và kết thúc vào tháng XI. Tuy nhiên
cũng có nhiều năm mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 11. Có thể nói
vùng đồng bằng hạ du sông Mã bị sáo trộn phần nào chế độ mưa của Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Trên lưu vực sông Mã có 2 tâm mưa lớn là tâm mưa Bá Thước - Quan

Hoá và tâm mưa Thường Xuân. Tâm mưa ở Thường Xuân có lượng mưa năm lớn
hơn tâm mưa Bá Thước, Quan Hoá. Tâm mưa nhỏ nằm ở thượng nguồn sông Mã
thuộc thung lũng huyện sông Mã của Sơn La và vùng Hủa - Phăn thuộc Lào. Lượng
mưa bình quân trên lưu vực biến đổi từ 1100 mm/năm đến 1860 mm/năm. Một năm
có 2 mùa rõ rệt, mùa ít mưa (mùa khô) và mùa mưa nhiều (mùa mưa). Mùa mưa phía
thượng nguồn sông Mã bắt đầu từ tháng V và kết thúc vào tháng XI. Mùa mưa phía
sông Chu bắt đầu từ cuối tháng VI và kết thúc vào đầu tháng XII, tổng lượng mưa 2
mùa chênh nhau đáng kể. Tổng lượng mưa mùa mưa chiếm từ 65 – 70 % tổng lượng
mưa năm, tổng lượng mưa mùa khô chỉ chiếm từ 30 – 35 % tổng lượng mưa năm. [9]
Mưa gây lũ trong năm thường là các trận mưa có tổng lượng từ 300 mm trở lên
tập trung trong 3 - 4 ngày và mưa đồng đều trên lưu vực. Một năm thường có từ 3 - 4
đợt mưa có tổng lượng trên 300 mm. Các trận mưa thường cách nhau từ 5 - 7 ngày.
Đặc biệt trên lưu vực sông Mã khi mưa có lớn vùng thượng nguồn sông Mã thì phía
sông Chu không có mưa hoặc mưa nhỏ, khi mưa lớn ở thượng nguồn sông Chu thì
phía sông Mã không mưa hoặc mưa nhỏ, ngoại trừ những trận bão đổ bộ trực tiếp
vào lưu vực sông Mã gây mưa lớn đồng thời trên toàn lưu vực gây nên lũ lớn trên
toàn bộ mạng sông Mã những năm có bão trực tiếp đổ bộ vào năm 1927, năm 1962,
năm 1989 và năm 1996 đã tạo ra mưa lớn.
b. Chế độ gió:
Mùa đông do hoàn lưu phương Bắc mạnh nên có gió mùa Đông Bắc, tốc độ gió
trung bình 2 - 3 m/s. Gió mùa Đông bắc xuất hiện từ tháng XI đến tháng II năm sau,
có năm xuất hiện sớm và cũng có năm kết thúc muộn.
Mùa hè do hoàn lưu phương Nam và vị trí thấp của vùng Vịnh Bắc Bộ nên
hướng gió thịnh hành là Đông Nam, mang nhiều hơi ẩm dễ gây mưa rào. Tốc độ gió
10


bình quân 2,5 - 2 m/s. Loại gió này xuất hiện từ tháng III và kết thúc vào tháng X
hàng năm.
Ngoài ra, vào tháng IV, tháng V còn có gió mùa Tây Nam. Gió này khô, nóng,

hàng năm chỉ xuất hiện từ 3 - 4 đợt, mỗi đợt từ 4 - 5 ngày.
c. Bão:
Bão ở lưu vực sông Mã thường xuất hiện chậm hơn Bắc Bộ từ 15 - 20 ngày. Theo
số liệu thống kê từ 1954 đến 2005 trong số 150 cơn bão xuất hiện dọc bờ biển Việt Nam
thì số cơn bão đổ bộ vào Khu 4 có tới 72 cơn bão đổ bộ vào lưu vực sông Mã hoặc ảnh
hưởng trực tiếp tới lưu vực, chiếm 48 %. Phần lớn khi bão đổ bộ vào lưu vực sông Mã
có gió từ cấp VIII đến cấp XII khi gió giật trên cấp XII (Vmax > 40 m/s).
Bão thường kèm theo mưa lớn ở khu vực đồng bằng và trung du của lưu vực.
Lượng mưa trận do bão gây ra có thể lên tới 700 - 1.100 mm tại trạm Thanh Hoá.

11


Bảng 1.2: Tốc độ gió trung bình tháng, năm
Đơn vị: m/s
Trạm

1

2

3

4

5

6

7


8

9

10

11

12

Năm

Tuần Giáo

0.7 0.8 0.7 0.8 0.7 0.7 0.7 0.6 0.6 0.6 0.7 0.7 0.7

Pha Đin

2.7 3.3 3.3 3.1 3.0 2.7 2.9 2.5 2.8 2.9 2.7 2.5 2.9

Điện Biên

0.8 1.0 0.9 1.1 1.1 1.0 0.9 0.8 0.8 0.7 0.7 0.7 0.9

Sơn La

1.4 1.8 1.6 1.3 1.0 0.8 0.9 0.7 0.7 0.8 1.0 1.1 1.1

Sông Mã


1.6 2.0 1.6 1.3 1.0 0.9 0.8 0.8 0.8 1.0 1.1 1.4 1.2

Yên Châu

1.6 2.0 2.0 1.6 1.6 1.2 1.2 1.0 1.0 1.1 1.2 1.4 1.4

Mộc Châu

2.1 2.2 2.2 2.1 2.1 2.1 2.3 1.8 1.7 1.8 1.8 1.8 2.0

Hồi Xuân

1.5 1.5 1.6 1.6 1.6 1.4 1.6 1.4 1.3 1.3 1.3 1.4 1.5

Lạc Sơn

1.2 1.5 1.4 1.6 1.4 1.1 1.2 1.0 1.1 1.2 1.1 1.2 1.2

Bái Thượng

1.3 1.5 1.3 1.4 1.3 1.2 1.3 1.2 1.3 1.3 1.3 1.2 1.3

Thanh Hoá

1.8 1.8 1.7 1.9 2.0 1.9 1.9 1.5 1.7 1.9 1.8 1.7 1.8

Như Xuân

1.4 1.4 1.3 1.4 1.8 1.8 1.8 1.5 1.5 1.6 1.4 1.3 1.5


Yên Định

1.6 1.8 1.7 1.7 1.6 1.3 1.5 1.2 1.3 1.5 1.4 1.5 1.5

Tĩnh Gia

1.8 1.6 1.6 1.7 2.0 2.1 2.1 1.7 1.9 2.2 2.2 1.9 1.9
(Nguồn: Trung tâm dữ liệu và thông tin khí tượng thủy văn Việt Nam)

12


d. Nhiệt độ:
Trên lưu vực sông Mã có 2 vùng có chế độ nhiệt khác nhau:
- Vùng miền núi, mùa lạnh bắt đầu từ tháng XI đến tháng II, mùa nóng từ
tháng III đến tháng X. Nhiệt độ vùng này trùng với nhiệt độ vùng Tây Bắc.
- Vùng đồng bằng hạ du sông Mã. Nhiệt độ bình quân năm cao hơn miền
núi. Mùa đông kết thúc sớm hơn Bắc Bộ từ 15 - 20 ngày. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối
trung bình năm lại cao hơn ở vùng miền núi.
Bảng 1.3 : Nhiệt độ tháng, năm trung bình nhiều năm tại các trạm
(Đơn vi: oC)
Trạm

1

2

3


4

5

6

7

8

9

10

11

12

Năm

Tuần Giáo 14.6 16.3 19.5 22.6 24.6 25.1 25.2 24.8 23.9 21.6 18.3 15.0 21.0
Pha Đin

12.3 14.1 17.6 19.9 20.5 20.6 20.5 20.4 19.8 17.9 14.6 12.1 17.5

Điện Biên

15.7 17.6 20.7 23.6 25.3 25.9 25.7 25.4 24.6 22.4 19.1 15.8 21.8

Sơn La


14.6 16.5 20.0 22.8 24.7 25.1 25.0 24.6 23.7 21.7 18.2 15.0 21.0

Sông Mã

16.1 18.5 21.2 24.3 26.1 26.4 26.3 25.9 25.1 22.8 19.6 16.3 22.4

Yên Châu

15.9 17.9 21.7 24.8 26.8 27.0 26.9 26.3 25.2 22.8 19.4 16.4 22.6

Mộc Châu

11.8 13.3 16.8 20.2 22.5 23.0 23.1 22.4 21.2 18.9 15.7 12.8 18.5

Hồi Xuân

16.6 18.0 20.7 24.5 26.9 27.6 27.6 27.0 25.6 23.5 20.5 17.6 23.0

Lạc Sơn

15.9 17.3 20.2 24.0 27.2 28.0 28.3 27.6 26.3 23.7 20.4 17.3 23.0

Bái Thượng 16.5 17.5 20.1 23.9 27.0 28.2 28.4 27.6 26.6 24.3 21.2 18.0 23.3
Thanh Hoá 17.0 17.3 19.8 23.5 27.2 28.9 29.0 28.2 26.4 24.5 22.4 18.6 23.6
Như Xuân

16.5 11.3 20.0 23.6 27.3 28.6 28.9 27.8 26.5 24.2 20.8 17.9 23.3

13



Trạm

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Năm


Yên Định

16.7 17.6 20.2 23.6 27.2 28.5 28.9 28.0 26.8 24.4 21.2 18.1 23.4

Tĩnh Gia

16.8 17.1 19.6 23.2 27.2 28.9 29.5 28.3 26.8 24.5 21.2 18.1 23.4

(Nguồn: Trung tâm dữ liệu và thông tin khí tượng thủy văn Việt Nam)
1.1.5.3. Đặc điểm thủy văn
a. Hệ thống sông
Lưu vực sông Mã có diện tích là 28.400 km2, với chiều dài sông là 512 km,
chiều dài lưu vực là 421 km, độ cao bình quân lưu vực là 762 m, độ dốc bình quân
lưu vực là 17,6 % và độ rộng bình quân lưu vực là 68,8 km.

(Nguồn: Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mã)
Hình 1.2 : Bản đồ mạng lưới sông suối lưu vực sông Mã thuộc địa phận
tỉnh Thanh Hóa
14


Hệ thống sông Mã có 90 con sông nhánh các loại, trong đó có 40 sông nhánh cấp
I, 33 sông nhánh cấp II, 16 sông nhánh cấp III và 01 sông nhánh cấp IV.
- Dòng chính sông Mã: bắt nguồn từ núi Phu Lan (Tuần Giáo - Lai Châu),
sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Đến Chiềng Khương sông chảy qua
đất Lào và trở lại đất Việt Nam tại Mường Lát. Từ Mường Lát đến Vạn Mai sông
Chảy theo hướng Tây Đông, từ Vạn Mai đến Hồi Xuân sông chảy theo hướng Bắc
Nam, từ La Hán đến Đông Tâm sông chảy theo hướng Nam - Bắc và từ Cẩm Thuỷ
đến cửa biển, sông lại chuyển hướng theo Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển tại
Cửa Hới. Từ Hồi Xuân lên thượng nguồn lòng sông hẹp cắt sâu vào địa hình,

không có bãi sông và rất nhiều ghềnh thác. Từ Cẩm Hoàng ra biển lòng sông mở
rộng có bãi sông và thềm sông. Dòng chính sông Mã tính đến Cẩm Thuỷ khống chế
lưu vực 17400 km2.
- Phụ lưu cấp I của sông Mã: sông Chu, sông Bưởi.
- Sông Chu: là phụ lưu cấp I lớn nhất của sông Mã. Bắt nguồn từ vùng núi cao
trên đất Lào chảy chủ yếu theo hướng Tây Tây Bắc - Đông Đông Nam. Sông Chu đổ
vào sông Mã tại ngã ba Giàng, cách cửa sông Mã về phía thượng lưu 25,5 km. Chiều
dài dòng chính sông Chu 392 km, phần chảy trên đất Việt Nam 160 km. Tổng diện
tích lưu vực sông Chu 7.580 km 2. Diện tích lưu vực sông Chu hầu hết nằm ở vùng
rừng núi. Từ Bái Thượng trở lên thượng nguồn lòng sông Chu dốc, có nhiều ghềnh
thác, lòng sông hẹp có thềm sông nhưng không có bãi sông. Từ Bái Thượng đến cửa
sông Chu chảy giữa hai tuyến đê, bãi sông rộng, lòng sông thông thoáng, dốc nên
khả năng thoát lũ của sông Chu nhanh. Sông Chu có rất nhiều phụ lưu lớn như sông
Khao, sông Đạt, sông Đằng, sông Âm. Tiềm năng thuỷ điện của sông Chu rất lớn,
dọc theo dòng chính có rất nhiều vị trí cho phép xây dựng những kho nước lớn để sử
dụng đa mục tiêu. Dòng chảy kiệt sông Chu đã được sử dụng triệt để để tưới cho
đồng bằng Nam sông Chu. Hiện tại trong mùa kiệt lượng nước ở hạ du Bái Thượng
đều nhờ vào nguồn nước của sông Âm và dòng nước triều đẩy ngược từ sông Mã
lên. Sông Chu có vị trí rất quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh Thanh Hóa. Mặt khác lũ sông Chu là hiểm hoạ lớn đe doạ nền kinh tế của tỉnh
Thanh Hoá. Sử dụng triệt để tiềm năng của sông Chu sẽ hỗ trợ rất lớn cho phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá.
- Sông Bưởi: là phụ lưu lớn thứ 2 của sông Mã. Sông Bưởi bắt nguồn từ núi
Chu thuộc tỉnh Hoà Bình. Dòng chính sông Bưởi chảy theo hướng Bắc Nam đổ vào
sông Mã tại Vĩnh Khang. Chiều dài dòng chính sông Bưởi là 130 km. Diện tích lưu
vực 1.790 km2 trong đó 362 km2 là núi đá vôi. Độ dốc bình quân lưu vực 1,22 %,
thượng nguồn sông Bưởi là 3 suối lớn: suối Cái, suối Bin và suối Cộng Hoà đến Vụ
15



Bản, 3 nhánh hợp lại tạo thành sông Bưởi. Từ Vụ Bản đến cửa sông dòng chảy sông
Bưởi chảy giữa hai triền đồi thoải, lòng sông hẹp, nông. Nguồn nước sông Bưởi
đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế 3 huyện thuộc tỉnh Hoà
Bình và 2 huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc của Thanh Hoá. [9]
- Chi lưu cấp I của sông Mã: sông lèn, sông Lạch Trường.
- Sông Lèn: là một chi lưu cấp I của sông Mã nó phân chia nguồn nước với
sông Mã tại ngã ba Bông và đổ ra biển tại cửa Lạch Sung. Trong mùa lũ sông Lèn tải
cho sông Mã 15 ÷ 17 % lưu lượng ra biển. Trong mùa kiệt lưu lượng kiệt sông Mã
phân vào sông Lèn tới 27 ÷ 45 %, sông Lèn có nhiệm vụ cung cấp nước cho 4 huyện
Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Bỉm Sơn. Tổng chiều dài sông Lèn là 40 km. Hai bên
có đê bảo vệ dân sinh và khu sản xuất của các huyện ven sông. [9]
- Sông Lạch Trường: sông Lạch Trường phân chia dòng chảy với sông Mã tại
ngã ba Tuần chảy theo hướng Tây - Đông đổ ra biển tại cửa Lạch Trường. Chiều dài
sông chính 22 km, sông có bãi rộng. Sông Mã chỉ phân lưu vào sông Lạch Trường
trong mùa lũ, trong mùa kiệt sông Lạch Trường chịu tác động của thuỷ triều cả 2
phía là sông Mã và biển. Sông Lạch Trường là trục nhận nước tiêu quan trọng của
vùng Hoằng Hoá và Hậu Lộc.
b. Dòng chảy năm
Theo chỉ tiêu vượt trung bình, mùa lũ trên sông Mã thường kéo dài từ tháng VI
- X, Chiếm 73 – 74 % lượng nước cả năm. Mùa cạn từ tháng XI - V. Ba tháng có
lượng dòng chảy lớn nhất là các tháng VII - IX, Chiếm từ 53 – 56 %. Tháng có
lượng dòng chảy lớn nhất vào tháng VIII, chiếm từ 20 – 23 % tổng lượng dòng chảy.
Trên sông Chu mùa lũ thường kéo dài từ tháng VII - X, chiếm 63 – 73 %, Mùa cạn
từ tháng XI - VI. Ba tháng có lượng dòng chảy lớn nhất là các tháng VII - IX, chiếm
52 – 60 %. Tháng có lượng dòng chảy lớn nhất muộn hơn so với sông Mã một tháng,
vào tháng IX, Chiếm từ 20 – 24 % tổng lượng dòng chảy năm.
c. Dòng chảy lũ
Sông Mã mùa lũ bắt đầu từ tháng VI và kết thúc vào tháng X, hạ du sông Mã
kết thúc vào tháng XI. Sông Chu mùa lũ bắt đầu từ tháng VII và kết thúc vào tháng
X, XI. Bốn tháng có lượng mưa lớn nhất là các tháng VII, VIII, IX, X. Trên sông

Chu tại Cửa Đạt tháng IX là tháng có lượng dòng chảy lớn nhất. Tổng lượng của 3
tháng lớn nhất trên dòng chính sông Mã chiếm 55,5 % dòng chảy năm, trên sông
Chu tại Cửa Đạt là 54 %. Tại Cẩm Thuỷ lũ lớn nhất năm xảy ra vào các tháng VIII,
IX mỗi tháng chiếm 40,8 %, tháng X chiếm tỷ lệ 15,8 %, tháng XI chiếm 2,6 %, ảnh
hưởng của mưa bão tới phần trung lưu sông Mã thể hiện rõ rệt. Sông Chu tại Xuân
Khánh lũ lớn nhất năm xuất hiện vào tháng IX chiếm 38,7 %, tháng X là 25,2 %
16


trong khi đó tháng VIII chỉ chiếm 22,6 %. Vùng hạ du sông Mã tại Giàng mực nước
lũ vừa chịu ảnh hưởng lũ sông Chu và sông Mã vừa chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.
Lũ lớn ở thượng nguồn gặp mưa lớn ở hạ du và triều cường là tổ hợp bất lợi gây nên
lũ lớn ở hạ du. [9]
d. Dòng chảy kiệt
Dòng chảy kiệt xảy ra vào thời kỳ ít mưa trong năm. Lưu vực Sông Mã mùa
kiệt kéo dài tứ tháng XI - V. Trên lưu vực sông Chu mùa kiệt kéo dài 8 tháng từ
tháng XI - VI sang năm. Lượng dòng chảy mùa này chỉ chiếm 20 – 35 % lượng dòng
chảy cả năm. Nhìn chung mùa kiệt có thể chia làm 3 thời kỳ: thời kỳ đầu kéo dài 2
tháng (XI, XII). thời kỳ đầu có thể coi là thời kỳ chuyển tiếp giữa các mùa, thời kỳ
giữa kiệt nhất trong năm, từ tháng I – IV.
e. Dòng chảy bùn cát
Hàm lượng bùn cát trung bình tại Cẩm Thuỷ dòng chính sông Mã đạt 402 g/m 3,
bên sông Chu tại Xuân Khánh là 192 g/m 3, các sông suối nhỏ hàm lượng bùn cát đạt
181 g/m3 tại sông Âm, 484 g/m3 tại Nậm Ty, 109 g/m3 tại Xuân Cao. Hàng năm,
sông Mã chuyển về hạ du là 4,23 triệu tấn phù sa lơ lửng, bên sông Chu chuyển về
hạ du là 0.848 triệu tấn phù sa. Hệ số xâm thực đạt 242 tấn/km 2 tại sông Mã ở Cẩm
Thuỷ, 114 tấn/km2 tại Xuân Khánh bên sông Chu.
1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội

(Nguồn: Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mã)

Hình 1.3: Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa
1.2.1. Dân số và phân bố dân cư
Tính đến năm 2005 tổng dân số trên lưu vực sông Mã kể cả khu hưởng lợi là
4.028.000. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân 1,7 %, trong đó 15 % dân số sống tập
17


trung ở các thị trấn, thị xã và thành phố còn lại hầu hết sống ở nông thôn. Mật độ dân
số bình quân ở đồng bằng là 340 người/km 2, ở trung du 166 người/km2, ở miền núi
49 người/km2. Sự phân bố dân cư trên lưu vực phụ thuộc vào điều kiện sống từng
vùng, với tỷ lệ phân phối trên đây chưa hợp lý đối với các vùng địa lý. Dân số trên
lưu vực tập trung chủ yếu ở Thanh Hóa chiếm tới 86,7 % (3.479.834 người). Dân số
phân bố ở các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Nghệ An thuộc lưu vực sông Mã:
548.166 người chiếm tỷ lệ 13,55 % dân số trên lưu vực. Sự phân bố dân số trên nói lên
một điều là kinh tế trên lưu vực sông Mã tập trung chủ yếu ở tỉnh Thanh Hóa. [9]
Dân số Thanh Hoá tính đến 2007 là 3.697.227 người, dân sống trên lưu vực
sông Mã và vùng hưởng lợi (Vùng chịu ảnh hưởng lũ Nam sông Chu và hữu sông
mã từ Giàng đến cửa Hới). Dân số sống vùng miền núi là 718.000 người. Còn lại
sống chủ yếu ở vùng ở vùng đồng bằng nơi dễ bị lũ uy hiếp. Trong số dân sống ở
đồng bằng có 196.164 dân sống ở ngoài bãi nơi thường xuyên bị lũ đe doạ. Tốc độ
tăng dân số tự nhiên ở Thanh Hoá là 0,8 %.
1.2.2. Thành phần dân số
Theo thống kê hiện tại trên lưu vực sông Mã có 13 dân tộc sinh sống định
cư ở đây. Đông nhất là dân tộc kinh chiếm tới 80 %, dân tộc thứ 2 là dân tộc Mường
(Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu và Thanh Hoá) chiếm tới 10 %, còn lại là dân tộc Thái,
Lô Lô, Hà Nhì, Thanh, Mèo sống ở vùng miền núi, không có sự phân chia ranh giới
sinh sống giữa các dân tộc mà các dân tộc sống đan xen nhau tạo thành cộng đồng
dân cư chung sinh sống trên lưu vực. [9]
1.2.3. Cơ cấu kinh tế
Bảng 1.4: Cơ cấu kinh tế qua các năm của tỉnh Thanh Hóa

Năm
1995
2000
2005
2007
2010

Nông nghiệp
28,36%
39,57%
32,29%
28,36%`
21,36%

Dich vụ
34,77%
33,83%
33,12%
34,77%
37,77%

Công nghiệp
36,87%
26,6%
34,59%
36,87%
39,87%

1.2.4. Các ngành kinh tế chủ chốt
- Sản xuất nông nghiệp:

Nông nghiệp trên lưu vực sông Mã từ thượng nguồn đến hạ du chủ yếu là sản
xuất hai vụ đông Xuân và vụ mùa. Theo thống kê diện tích canh tác trên lưu vực
sông Mã và vùng bảo vệ khỏi lũ sông Mã là 213.739 ha. Trong sản xuất nông nghiệp
chỉ có vụ mùa là dễ bị ảnh hưởng bởi lũ và úng nhất.
Bảng 1.5 : Thống kê diện tích đất nông nghiệp năm 2010
18


Đất cây LN

Fct ( ha)
Vùng
Tổng

Lúa

Đất
có

Đất CHN

Tổng toàn lưu vực sông Mã

213738

134706

3429

57297.6


23379.1

I. Vùng đồi núi

66752

30500

2640

33611

12527

14097.2

2396.

12732.2

4353.2

12628.5

208.0

13530.0

5050.5


3774.9

36.0

7348.9

3123.2

104205.6 789.6

23686.6

10852.1

1.1.Thượng nguồn sông Mã
1.2.Thượng sông Chu
1.3. Thượng sông Bưởi
II. Vùng đồng bằng

29225.
6
26366.
4
11160.
0
146986
.

2.1. Khu hạ du sông Bưởi


7163.3

5965.7

20.1

1177.5

459.1

2.2.Nam Mã- Bắc Chu

18458

15481

156

2820

605

51555.8

511.4

12394.8

8219.8


15486

76

4745

960

9531.8

12.5

1315.2

516.0

6185.2

13.3

1233.7

92.2

64461.
9
38612.
2.4.Khu Bắc sông Lèn
5

2.5.
Nam
s.
Lèn-Bắc 10859.
L.Trường
4
2.3.Vùng Nam sông Chu

2.6. Khu Nam Hoằng Hoá

7432.3

19


Bảng 1.6 : Thống kê diện tích sản xuất vụ mùa năm 2010

Vùng

Lúa

Màu

Tổng toàn lưu vực sông Mã

124016.9
7

I. Vùng đồi núi


25108.34

1.1.Thượng nguồn sông Mã

14680

28430.4
3
13408.5
4
10354.2
3

1.2.Thượng sông Chu
1.3. Thượng sông Bưởi

8205.41
2222.93

II. Vùng đồng bằng
2.1. Khu hạ du sông Bưởi

98908.62
4831.5

2.2. Nam Mã - Bắc Chu
15359.02
2.3.Vùng Nam sông Chu
50658.56
2.4. Khu Bắc sông Lèn

13305.54
2.5. Nam s. Lèn- Bắc
L.Trường
8865.96

-

Cây
khác

trồng

Tổng

10371.78

162117.8
6

5324.59

43841.47

3370.77

2736.31
318
15021.8
9
797.36


1540.32
413.5

2055.53
5941.74
3706.76

431.64
2427.89
433.33

28405
12482.04
5
2954.43
118276.3
9
6183.19
17846.19
6
59028.19
16744.31

1458.78

688.48

11013.21


5047.19
554.33

Chăn nuôi là một mảng trong kinh tế nông nghiệp, tiềm năng phát triển
chăn nuôi trên lưu vực rất lớn. Hình thức chăn nuôi hiện nay tồn tại theo phương
thức chăn nuôi hộ gia đình, quy mô nhỏ. Vật nuôi chủ yếu là trâu, bò lấy sức kéo và
trâu bò thịt, gia súc gia cầm cũng nuôi phân tán theo hộ gia đình. Giá trị sản lượng
chăn nuôi mới chiếm 28,69 % tổng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất công nghiệp:
Công nghiệp lớn và tập trung hầu hết ở phần hạ du sông Mã thuộc tỉnh
Thanh Hoá. ở đây có đầy đủ các loại hình công nghiệp: công nghiệp trung ương,
công nghiệp địa phương. Có các ngành công nghiệp: công nghiệp nặng, công nghiệp
chế biến gia công và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Tỷ trọng ngành công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong cơ cấu kinh tế của tỉnh là 34,1 %.
- Thuỷ, hải sản:
Thuỷ hải sản trên lưu vực tập trung chủ yếu ở hạ du thuộc tỉnh Thanh Hoá. Bình
quân 5 năm khai thác được 40.500 tấn/ năm. Trong đó hải sản 26.098 tấn/năm. Đánh
bắt 25.380 tấn/năm, nuôi trồng 1718 tấn với 3500 ha nuôi trồng theo hình thức bán thâm
canh, năng suất thấp, giá trị đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản mới đạt gần 6 % tổng thu
nhập của tỉnh Thanh Hoá. Ngành thuỷ sản đang là ngành còn nhiều tiềm năng phát triển
20


cả về ngư nghiệp đánh bắt và nuôi trồng ven bờ.
- Lâm nghiệp:
Diện tích đất lâm nghiệp trên lưu vực sông Mã chiếm 71,8 % diện tích lưu vực
nhưng do khai thác không có chế độ bảo dưỡng và khai thác không có kế hoạch nên
hầu hết không còn rừng nguyên sinh. Đất đai lâm nghiệp bị trọc hoá nhiều. Diện tích
có rừng trên lưu vực hiện nay chiếm khoảng 45 % diện tích đất lâm nghiệp còn lại là
cây bụi và đồi trọc.

- Du Lịch, dịch vụ:
Lưu vực sông Mã có là nơi khởi sướng ra các triều đại Tiền Lê, Hậu Lê, nhà
Hồ và nhà Nguyễn. Cộng với cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, núi, sông, biển hữu
tình nên có rất nhiều vị trí du lịch với nhiều thể hình du lịch nghỉ ngơi: Bãi biển Sầm
Sơn, du lịch văn hoá cổ Lam Sơn, Thành nhà Hồ... Du lịch phong cảnh có ao cá thần
tiên Cẩm Thuỷ, Động Từ Thức và rất nhiều điểm du lịch có ý nghĩa nghỉ ngơi giải trí
khác. Du lịch ở đây đang khai thác thế mạnh tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo nên
chưa phát huy được tác dụng.
- Kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng xã hội, đời sống văn hóa:
+ Y tế: Tỉnh Thanh Hoá có 32 bệnh viên, và 626 trạm y tế cơ sở với số giường
bệnh 10.730 giường bệnh để phục vụ nhân dân.
+ Giáo dục: Bình quân trên lưu vực có tới 30 % dân số đang theo học các lớp
từ 1 đến 12 và các trường chuyên nghiệp. Có 1 trường đại học Hồng Đức đặt tại thị
xã Thanh Hoá. Riêng Thanh Hoá có 1.331 trường phổ thông, trong đó 57 trường phổ
thông trung học với đội ngũ giáo viên 27.545 người. Giáo dục trung học chuyên
nghiệp 6 trường, Cao đẳng và đại học 3 trường. Cơ sở giáo dục trên lưu vực rất tốt
để đào tạo ra lực lượng lao động có kỹ thuật cao.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật:
+ Đường bộ: có các tuyến đường quốc gia: đường số 6 đi từ Mãn Đức lên Sơn
La - Lai Châu và tuyến đường nối từ Sơn La vào huyện sông Mã. Tuyến đường 1A
đi ngang qua phần hạ du lưu vực. Tuyến 217 từ Cầu Lèn đi Na Mèo nối thông với
Lào. Ngoài ra, còn các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ, ở vùng đồng bằng đường giao thông
vào đến tận thôn, xã, ở miền núi mới có các tuyến đường trục đến huyện.
+ Đường sắt: đường sắt Bắc Nam đi ngang qua phần đồng bằng của lưu vực song
song với đường bộ 1A rất thuận tiện cho việc chuyên chở sản phẩm và khách du lịch.
+ Đường thuỷ: tuyến đường thuỷ theo kênh nhà Lê nối giữa đồng bằng Bắc
Bộ với Thanh Hoá.
+ Công trình thuỷ lợi: công trình thuỷ lợi trải rộng trên toàn lưu vực phục vụ
công tác tưới tiêu và chống lũ. Phần hạ du các sông đều có hệ thống đê ngăn lũ.

Kinh tế hiện tại trên lưu vực sông Mã là một nền kinh tế đa dạng nhưng vẫn
mang nhiều màu sắc cuả một nền kinh tế nông nghiệp không bền vững còn phụ
21


thuộc nhiều vào thiên nhiên.

22


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH XÂM NHẬP MẶN
VÙNG HẠ LƯU SÔNG MÃ
2.1. Thuỷ triều và xâm nhập mặn
2.1.1. Chế độ triều
Thuỷ triều ở vùng cửa lưu vực sông Mã thuộc chế độ nhật triều không đều với
chu kỳ triều trên 24 h trong ngày. Trong một kỳ triều, còn có ngày xuất hiện bán nhật
triều. Thời gian triều lên ngắn 7 h – 8 h, những ngày triều cường thời gian triều lên 8
h – 9 h, thời gian triều rút 15 h – 16 h trong ngày.
Biên độ triều lớn nhất tại Hoàng Tân cửa sông Mã: 3,19 m, tại Giàng 2,46 m,
2,58 m tại Lạch Sung, 2,2 m tại Cự Thôn. Biên độ triều trung bình trên sông Hoạt là
1,3 m, sông Lèn 1,53 m tại Lạch Sung, sông Mã tại Hoàng Tân là 1,58 m.
Mực nước đỉnh triều cao nhất đạt 2,9 m tại Hoàng Tân cửa sông Mã và thấp nhất
đạt 1,81 m lúc chân triều. Tại Giàng, mực nước chân triều thấp nhất vào tháng kiệt III,
IV đạt -1,42 m. Tại Lạch Sung cửa sông Lèn mực nước cao nhất là 2,32 m vào tháng
VIII/1971 khi có lũ và mưa bão, đạt thấp nhất -0,97 m vào tháng IV/1970. Càng vào sâu
nội địa, biên độ mực nước triều càng giảm ảnh hưởng triều về mùa lũ, mùa cạn yếu dần.
2.1.2. Diễn biến mực nước triều trong năm
Từ số liệu mực nước triều trung bình ngày của trạm Hoàng Tân vùng cửa sông
Mã qua 6 năm (1996 – 2001) được lấy từ “Trung tâm dữ liệu và thông tin khí tượng
thủy văn quốc gia”, em đã tổng hợp lại mực nước triều trung bình tháng qua các năm

vào bảng dưới đây:
Hình 2.1: Mực nước triều trung bình tháng qua các năm của trạm Hoàng
Tân

23


Bảng 2.1: Mực nước triều trung bình tháng của trạm Hoàng Tân từ 1996 đến 2001

m
1996
1997
1998
1999
2000
2001

I

II

III

IV

V

VI

VII


-91
-86
-95
106
-86
-87

-91
-92
-97
-103
-90
-91

-97
-88
-87
-87
-93
-87

-81
-77
-94
-73
-79
-90

-80

-89
-96
-78
-82
-89

-91
-84
-90
-70
-74
-66

-53
-39
-88
-94
-77
-46

VII
I
10
-19
-92
-73
-24
-28

IV


X

XI

XII

27
-8
-70
-57
-24
-53

-48
-30
-73
-50
-58
-49

-21
-79
-76
-59
-80
-66

-88
-88

-83
-79
-94
-92

Bảng 2.2: Mực nước trung bình năm của trạm Hoàng Tân từ 1996 đến 2001
Năm
Hoàng Tân

1996
-60

1997
-65

1998
-87

1999
-78

2000
-78

2001
-71

- Nhìn vào biểu đồ ta thấy mực nước triều tại trạm Hoàng Tân có xu hướng
giảm đi, và mực nước thay đổi mạnh vào các tháng từ tháng VII đến tháng XI.
Nhìn vào bảng 2.2 ta thấy mực nước trung bình năm của trạm giảm dần từ 1996

đến 1999, đến năm 2001 thì mực nước lại tăng nhẹ.
Mực nước triều đạt trị số cao nhất vào các tháng VIII, IX và thấp nhất vào các
tháng II, III.
Năm 1996: mực nước triều lớn lơn cao độ 0 tại tháng VIII (10 cm) và tháng IX
(27 cm), các tháng còn lại dưới cao độ 0.
Năm 1997 đến năm 2001 mực nước đều dưới cao độ 0, cụ thể năm 1997 mực
nước tháng VIII (-19 cm) giảm đáng kể so với tháng VIII năm 1996 (10 cm) là 29
cm, tháng IX của năm 1997 (-8 cm) so với tháng IX năm 1996 (27 cm) là 35 cm.
Năm 1998 mực nước giảm mạnh từ tháng VIII và tháng IX, tháng VIII giảm từ
-19 cm xuống -92 cm, tháng IX giảm từ -8 cm xuống -70 cm.
Năm 1999 đến 2000 mực nước có tăng lên mạnh vào tháng VIII và tháng IX,
tuy nhiên đến năm 2001 thì mực nước lại giảm mạnh vào tháng IX.
2.1.3. Tình hình xâm nhập mặn vào hạ lưu sông Mã
Do ảnh hưởng của thuỷ triều mà nước sông ở vùng cửa sông thường bị nhiễm
mặn. Độ mặn của nước sông phụ thuộc rất nhiều vào chế độ thuỷ triều, cường độ
truyền triều vào sông và lượng nước thượng nguồn đổ về hạ lưu. Có thể nói, dòng
triều truyền vào đến đâu, mặn xâm nhập đến đấy, nước sông vì thế bị nhiễm mặn
không thể dùng cho sản xuất nông nghiệp được. Do vùng đất ven cửa sông cũng bị

24


nhiễm mặn, nên các loài sinh vật vùng cửa sông cũng thay đổi khác với vùng thượng
lưu. Đó là các loài sinh vật nước lợ.
Độ mặn ở cửa sông là lớn nhất, gần bằng độ mặn nước biển khoảng 30 – 32 ‰
và giảm dần về phía thượng nguồn theo mức độ yếu đi của triều. Tuỳ theo các nhánh
phân lưu mà mức độ xâm nhập mặn trên sông khác nhau. Số liệu quan trắc được từ
1990 - 2010 (Bảng 2.3 và 2.4):
Bảng 2.3: Độ mặn các trạm vùng sông Mã, sông Lạch Trường từ năm 1990 – 2010
Năm Giàng

S‰
S‰
max min

Hàm Rồng
S‰ S‰
max min

Nguyệt Viên Cầu Tào
S‰
S‰ S‰
S‰
max min max min

1990 0.16

2.8

0.1

4.9

0.1

1991

6

0.1


10.4

0.12

1992

6

0.12

10

0.15

0.12

1993 1.5

0.1

8.8

0.16

13

0.22

1994 2.1


0.09

4.5

0.09

9.1

0.09

1995 0.3

0.09

3.04

0.11

7

0.25

0.74

0.13

1996

5.47


0.11

11.4

0.12

3.03

0.1

1997
1998
1999
2000
2001
2002
2007
2008
2009
2010
TB
Max

1.04
1.04
13.5
2.8
3.6
3.3
9.2

9
6.7
12.3
5.83
13.5

0.07
0.1
0.3
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.2
0.12
0.3

3.5
5.6
16.5
6.1
9
10.8
14.4
12.6
9.8
17.5
10.1

17.5

0.09
0.1
2.5
0.1
0.1
0.1
0.5
0.1
0.1
0.3
0.3
2.5

0.18
2.8
8.9
1.3
1.7
0.9
5.8
4
5
9.4
3.65
9.4

0.08
0.1

0.3
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.2
0.13
0.3

4
0.3
0.1
0.2
2.3
1.2
0.2
6.1
1.54
6.1

0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1
0.1

0.1
0.12

Cự Đà
S‰
S‰
max
min

0.56

0.12

0.13
1.2
3.7
0.2
0.1
0.2
2.8
5.3
3.4
7.4
2.27
7.4

0.08
0.1
0.9
0.1

0.1
0.1
0.1
4
0.1
3.5
0.84
4

Nguồn: Trung tâm dữ liệu và thông tin khí tượng thủy văn Việt Nam)

25


×