Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.83 KB, 27 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TIỂU LUẬN CHUYÊN ĐỀ BẮT BUỘC

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Học viên: Lê Đỗ Tuấn Khương
Mã số học viên: AF150498
Lớp: Cao cấp LLCT K66 - A13

HÀ NỘI - 2016


2

MỤC LỤC


3

LỜI MỞ ĐẦU
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ trước đến
nay. Việt Nam là một trong những quốc gia, dân tộc có lịch sử lâu đời. Từ
nhà nước Văn Lang – Âu Lạc đến Vạn Xuân – Đại Việt rồi Việt Nam, dân tộc
ta đã phải giành nhiều thời gian và nguồn lực cho cuộc đấu tranh để dựng
nước và giữ nước. Trong lịch sử lâu dài và đầy thăng trầm đó, sức mạnh vĩ
đại và bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là sự đoàn kết của dân tộc Việt


Nam.
Đến Hồ Chí Minh, truyền thống đoàn kết của dân tộc được nâng lên một
tầm cao mới, trở thành một trong những nội dung tư tưởng quan trọng, mang
giá trị lý luận và thực tiễn lớn đối với đất nước, đặc biệt trong cuộc đấu tranh
giành độc lập của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: trong bầu trời không có gì mạnh bằng
sự đoàn kết của nhân dân. Người coi đoàn kết là lực lượng to lớn, là lực lượng
mạnh nhất của chúng ta để chống lại những thế lực xâm lược lớn mạnh hơn
về vật chất.
Trên cơ sở giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã
khảo sát, nghiên cứu, tiếp biến, tổng hoà và phát triển biện chứng tinh hoá văn
hoá của phương Đông và cuộc cách mạng ở các nước phương Tây thế kỷ
XVII, XVIII, đặc biệt là thế giới quan và phương pháp duy vật biện chứng
của học thuyết Mác-Lênin và kinh nghiệm của cuộc cách mạng vô sản trên
thế giới thế kỷ XX để xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện và sáng tạo
về tư tưởng giải phóng và phát triển dân tộc, trong đó cốt lõi là tư tưởng độc
lập tự do làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì nhu
cầu phát triển của đất nước theo xu thế tiến bộ của thời đại mới. Hệ thống
quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh là cơ sở của tư tưởng và chiến lược


4

đại đoàn kết dân tộc của Người trong cuộc đấu tranh giải phóng và phát triển
đất nước trong thế kỷ XX.
Nhờ vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, nên
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ (1945-1975) của
nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được thắng lợi to lớn,
đem lại độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
Việt Nam hiện nay đang trên con đường xây dựng, phát triển đất nước

với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Từ thời chiến tranh sang thời hòa bình, từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường… là
những bước chuyển đổi lớn lao, tác động đến cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp,
trạng thái tâm lý, lối sống của các tầng lớp nhân dân, các gia đình, cá nhân
trong xã hội. Do đó, đặt ra nhiều vấn đề về liên minh, liên kết, tập hợp các
tầng lớp xã hội, các cá nhân trong khối đoàn kết dân tộc, nhằm tạo nên sức
mạnh mới cho dân tộc Việt Nam.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là vấn đề
quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với việc phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, góp phần đưa Việt
Nam đạt được mục tiêu tốt đẹp mà toàn Đảng, toàn dân đều mong muốn.


5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều
yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng và phát triển
sáng tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng
giai đoạn cách mạng.
1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết
cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã
đắp bồi nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nên cốt cách của
con người Việt Nam, một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết.

Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
đoàn kết, cố kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau
cùng”. Triết lý nhân sinh của dân tộc: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao”. Tư duy chính trị được phản ánh: “Nước mất thì
nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn,
đem chí nhân thay cường bạo. Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề
cao trách nhiệm cá nhân với cộng đồng mà hàng đầu là bổn phận đối với Tổ
quốc.
Văn hóa Việt Nam “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc", hướng
về dân, lấy dân làm gốc, “Chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật thuyền


6

mới biết dân như nước”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến “Hội nghị
Diên Hồng”, những kiểu “tập hợp bốn phương manh lệ”, “Phụ tử trên dưới
một lòng, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Là người sinh ra và lớn lên trong vùng quê vốn nổi tiếng với tinh thần
tương thân tương ái, tinh thần cố kết, đùm bọc, sẻ chia, trong con người Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức và ngấm vào người truyền thống này của quê
hương, của đất nước.
1.2. Tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây.
Văn hóa phương Đông trong đó có Nho giáo, Phật giáo có nhiều giá trị
mà chính dân tộc Việt Nam đã bị ảnh hưởng một cách mạnh mẽ trong thời kỳ
phong kiến. Thuyết đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo.
Theo Khổng Tử “Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không
sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Hay quan điểm “nước lấy dân làm gốc” chính
là quan điểm “Quốc dĩ dân vi bản” của Nho giáo.

Trong Phật giáo có tư tưởng đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn, “cầu đồng
tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn kết cao.
Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo yêu nước. Người
nhận được sự giáo dục nghiêm khắc theo kiểu Nho học từ người cha. Những
tư tưởng giáo dục dùng để “trị quốc” của Nho học theo Người từ lúc nhỏ. Khi
lớn lên, theo cha lên kinh thành Huế, học tại trường Quốc học Huế, Người lại
được tiếp cận một hệ tư tưởng mới. Người bắt đầu biết đến những giá trị của
văn hóa phương Tây. Ra đi tìm đường cứu nước từ sự thôi thúc của hoàn cảnh
lịch sử dân tộc, từ những mong ước giống như những từ ngữ tốt đẹp đề cập
trong tuyên ngôn của Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Quá trình tìm đường
cứu nước là quá trình Người bắt gặp và chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong
Tuyên ngôn độc lập của cách mạng tư sản Mỹ, trong Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền từ cách mạng tư sản Pháp. Người học được tư tưởng, phong


7

cách dân chủ phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ
nghĩa nhân văn từ các triết gia tư sản trong thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa
phương Tây góp phần làm giàu trí tuệ Hồ Chí Minh.
1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp
quần chúng
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. . Mác nêu khẩu hiệu "Vô sản toàn
thế giới liên hiệp lại". Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước Nga,
lực lượng công - nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác
được mở rộng "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại".

Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự
giải phóng. Lênin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp
công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản.
Rằng nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với
đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không
thể thực hiện được. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ
Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng
như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên
thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin vì Người đã tìm thấy con đường giải phóng các dân


8

tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ, tìm thấy sự cần thiết và con đường tập hợp lực
lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn thế giới.
1.4. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào cách mạng Việt Nam và thế giới.
Hồ Chí Minh tổng kết, đánh giá các di sản truyền thống về tư tưởng tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các phong trào cách
mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các phong trào giải phóng dân tộc
thuộc địa, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hoàn
chỉnh tư tưởng về đại đoàn kết của mình. Các phong trào cách mạng Việt
Nam thực tế vừa hào hùng, vừa bi tráng đã chứng tỏ nếu chỉ có yêu nước thôi
thì không đủ để đánh thắng giặc. "Sử ta đã dạy cho ta rằng, khi nào dân ta biết
đoàn kết thì khi đó dân ta giành thắng lợi."
Yêu cầu của thời đại mới là phải có lực lượng lãnh đạo đủ sức qui tụ cả

dân tộc vào đấu tranh cách mạng, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành thắng lợi. Hồ Chí
Minh đã thấy hạn chế trong phương pháp tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước tiền bối, Bác đã tìm cách sang Pháp để tìm hiểu và trở về giúp đồng bào
mình.
Khi ở nước ngoài, Hồ Chí Minh khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa
và các nước thuộc địa, Bác nhìn thấy tiềm ẩn to lớn của họ và cũng thấy hạn
chế là các dân tộc thuộc địa chưa có tổ chức, chưa biết đoàn kết, chưa có sự
lãnh đạo đúng đắn. Trong các phong trào cách mạng thuộc địa và phụ thuộc,
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến cách mạng của Trung quốc và Ấn độ, với tư
tưởng là đoàn kết các giai tầng, các đảng phái, các tôn giáo... nhằm thực hiện
mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng.
Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga, Người đã tìm hiểu thấu đáo
con đường cách mạng tháng Mười, bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là


9

bài học huy động lực lượng quần chúng công - nông giành và giữ chính quyền
Xô Viết non trẻ. Người cho rằng đây là cuộc cách mạng đến nơi, đến chốn.
Đó là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc.
1.5. Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, cùng với những
nội dung về lý luận tư tưởng, phải kể đến những phẩm chất cá nhân Hồ Chí
Minh trên các phương diện đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh. Hồ Chí Minh là lãnh tụ
quyết tâm suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Khi phải từ biệt thế giới này, Người không có điều gì phải
hối hận, chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người
thương dân, kính dân, tin tưởng nhân dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý,

chú trọng tới dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy, Người được dân
tin, dân phục, dân yêu. Lòng thương yêu nhân dân là điểm tựa cho mọi sáng
tạo của Hồ chí Minh trong việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ đoàn kết toàn
dân tộc.


10

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
Trong những cống hiến to lớn của to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối
đạn đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và
giá trị thực tiễn hết sức quan trọng,tư tưởng đó được thể hiện qua đó được thể
hiện qua một số nội dung cơ bản sau đây.
2.1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
2.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược.
Nó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình
thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân
tộc, giai cấp. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần
thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau.
Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng đắn, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc, đưa
cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Hồ Chí Minh cũng nêu ra những luận điểm có tính chân lý, không chỉ
với cách mạng Việt Nam mà với cả thế giới: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”;

“đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”; “đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là
thắng lợi”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
Trong bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
lần thứ II (25/4/1961) Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết


11

Thành công, thành công, đại thành công”
2.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của Đảng, của
dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chính sách tới
hoạt động thực tiễn của Đảng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam(3/3/1951)
Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích
của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ: “Đoàn kết toàn dân,
phụng sự Tổ quốc”.
Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm
của quần chúng, gần gũi quần chúng, tổ chức, giáo dục quần chúng…
Đại đoàn kết là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm
vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng.
Cách mạng muốn thành công, Đảng phải cụ thể hoá những chính sách,
đường lối đúng thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng
phù hợp để tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó
chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm 1963, khi nói chuyện với các cán bộ tuyên truyền và huấn luyện
miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…Bây giờ
mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của dân tộc. Đại
đoàn kết dân tộc là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng và do


12

quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn,
lãnh đạo.
2.2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
2.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. “đoàn kết
toàn dân tộc”. Không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Không phân biệt
dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người theo tín ngưỡng với người không
theo tín ngưỡng…. “ ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Liên minh công nông lao động trí
thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, các khái niêm dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng, người dùng khái
niệm này để chỉ “mọi con dân đất việt”, không phân biệt dân tộc thiểu số với
dân tộc đa số, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như
vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa được hiểu là
mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân
tộc.Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập của tổ quốc;ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
với họ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn
kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong
suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.

Nói đến đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi
người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội
hàm khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, bao
gồm nhiều tầng nấc các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ
phận, lực lượng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ trong ra ngoài.


13

Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối
quan hệ giai cấp, dân tộc để tập hợp lực lượng trung thành và sẵn sàng phục
vụ Tổ quốc.
2.2.2. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu
nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc; đồng thời, phải có tấm lòng
khoan dung, độ lượng, tin vào dân, tin vào con người
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải kế thừa truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống đó là cội nguồn sức
mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch hoạ,
làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung độ lượng với con người.
Lòng khoan dung, độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống
nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu cách mạng mà người suốt
đời theo đuổi.
Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không phân
biệt tầng lớp, tín ngưỡng chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào,
hãy cùng nhau đoàn kết vì nước, vì dân.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ
Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của

nhân dân là nguyên tắc tối cao. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của
Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định
thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận.
2.2.3. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.


14

Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân. Trong những năm chuẩn bị thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, “trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ đó về sau, tư tưởng trên của Người ngày
càng được phát triển đầy đủ hơn. Trên thực tế, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây
dựng mối liên hệ mật thiết giữa cách mạng Việt Nam với phong trào đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, với cách mạng vô sản ở
nước Nga Xô viết và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng như với phong trào
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của nhân dân lao
động trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối
đại đoàn kết Việt - Miên - Lào, định hướng cho việc hình thành mối đoàn kết
quốc tế của ba nước Đông Dương, xây dựng phong trào nhân dân thế giới
đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống lại bọn thực dân, đế quốc xâm lược.
2.3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
2.3.1.Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc
thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng
lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành
chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng,
toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật
chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.

Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong
đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành
một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động
theo một đường lối chính trị đúng đắn…


15

Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng, quá trình tìm
đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm kiếm mô hình và
cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng
cho cuộc đấu tranh… Vì vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước
phù hợp với từng giai cấp, từng ngành nghề… Đó có thể là các hội ái hữu hay
tương trợ, công hội hay nông hội… Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân
tộc thống nhất (MTDTTN).
MTDTTN là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp
con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn
hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam, đều được coi là Mặt
trận.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng…,
MTDTTN có thể có những nét khác nhau, tên gọi của MTDTTN theo đó,
cũng có thể khác nhau: Hội phản đế đồng minh(1930), Mặt trận Dân
chủ(1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939)… Song thực chất chỉ là một, đó
là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam.
2.3.2. Môt số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận
dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh, nó hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các
nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của MTDTTN”. Người


16

chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng “Vì họ là người
trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết,
mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc
chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trong đối
với cách mạng. Người nói, “trong sự ngiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa, lao đông trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang;
và công, nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, MTDTTN và liên minh công - nông luôn
được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó
chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi có được Đảng lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc,
vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trân tồn tại, phát triển và có hiệu lực
trong thực tiễn.
Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối
quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thể
thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của Đảng,
Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt
động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của
Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.

Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa
là một tất yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt
thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử…
Quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải do Đảng tự phong cho
mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.


17

Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành được chính quyền, “Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là bộ phận
trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn
và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.”
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù
hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng… Người viết “Chính sách
Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác
rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Trong quá trình lãnh đạo
Mặt trận, phải đi đúng đường lối quần chúng. Phải dùng phương pháp vận
động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hóa, khơi dậy tinh thần tự giác, tự nguyện , hết sức tránh gò ép, quan liêu,
mệnh lệnh.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối
cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của tầng lớp nhân dân.
Thành lập MTDTTN là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song khối đại
đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao
độ về mục tiêu và lợi ích.
Mục đích chung của MTDTTN được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng
dân tộc vào khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất

dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai
cấp…, vào trong Mặt trận.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản
của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí
này được Đảng và Hồ Chí Minh cụ thể trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế,


18

văn hóa, xã hội…, phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời
kỳ lịch sử.
Mặt trận dân chủ thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương
dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả
dân tộc bao gồm nhiều gia cấp, tầng lớp, đảng phái…, với nhiều lợi ích khác
nhau. Do vậy, hoạt động của MTDTTN phải theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả vấn đề của Mặt trận đều
phải được tham gia để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để
đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, nhưng cũng là thành viên của Mặt
trận. Do vậy, tất cả, mọi chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải có trách
nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt trận
bàn bạc, hiệp thương dân chủ.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng…
Phải làm cho tất cả các thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích
chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết…

Trong quá trình hoạt động Mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết
thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Giải quyết mối quan hệ trong MTDTTN sẽ góp phần củng cố sự bền
chặt tạo sự đồng thuận nhất trí cao và thực hiện mục tiêu: “Đồng tình, đồng
sức, đồng lòng, đồng minh”.


19

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết
thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của Mặt trận, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn
có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp
những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố
chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc phục
tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng thời phải có tấm lòng nhân ái, khoan
dung độ lượng, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình…, nhằm củng
cố và mở rộng khối đoàn kết trong MTDTTN.
Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và
lập trường cũng phái nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê
bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến
bộ”.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã chứng minh ý nghĩa
vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng cách
mạng và nhân văn đó của Hồ Chí Minh trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường

lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam từ cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó của Người đã
thấm sâu vào trái tim và khối óc, lý trí và tình cảm của mọi người Việt Nam
yêu nước; biến thành hành động cách mạng của hàng triệu con người, tạo nên
sức mạnh vô địch trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


20

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI ĐẤT
NƯỚC HIỆN NAY
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ mới
của cách mạng. Trong quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng về đại
đoàn kết dân tộc đã có những phát triển mới với tư tưởng bao trùm là “Lấy
dân làm gốc”.
Đại hội VI của Đảng đã nêu lên bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó
bài học thứ nhất là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt
tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Trung ương 8 của
Đảng đã ra Nghị quyết số 8B (ngày 27/3/1990) về đổi mới công tác quần
chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhấn mạnh quan
điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Với
những nhận thức ngày càng rõ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của các tầng
lớp nhân dân trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó



21

có tầng lớp trí thức, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991,
Đảng ta khẳng định rằng, liên minh công – nông – trí thức là nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc. Thực vậy, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ phát triển mạnh mẽ và kinh tế tri thức trở thành khuynh
hướng phát triển chung của thế giới, vai trò của đội ngũ trí thức ngày càng
quan trọng. Vì thế, việc lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện sự vận dụng và phát triển một cách sáng tạo
tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong điều kiện mới.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định những ý kiến, nguyện vọng và sáng
kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhờ
có sự hưởng ứng của nhân dân đối với đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu
vượt qua bao khó khăn thử thách mà công cuộc đổi mới trong hai mươi năm
qua của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược, là
nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế,
của toàn xã hội”. Như vậy, cùng với các động lực khác, đại đoàn kết dân tộc
là động lực tổng hợp, có ý nghĩa quyết định đảm bảo sự thắng lợi và bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


22


Tiếp tục đường lối được xác định trong các Đại hội trước, tại Đại hội X,
XI, XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh vấn đề phát huy sức mạnh
toàn dân tộc. Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc được thông qua với
những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
công - nông - trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Thứ hai, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng
nhiều hình thức và biện pháp.
Trong quá trình đổi mới tư duy lý luận về vấn đề đại đoàn kết toàn dân
tộc, Đảng ta coi động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích
thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và
nghĩa vụ công dân. Như vậy, yếu tố quan trọng đầu tiên, có ảnh hưởng quyết
định đến sự vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc là đảm bảo công bằng xã
hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội. Cùng với việc giải quyết đúng đắn và hợp lý các quan hệ lợi ích,
cần phải đẩy mạnh việc phát huy chủ nghĩa yêu nước, thực hiện dân chủ. Đây
là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước luôn là động lực lớn nhất của dân tộc trong lịch sử; vì
thế, nó cần được khơi dậy và phát huy hơn nữa trong điều kiện mới. Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Nhân dân ta rất coi trọng dân


23

chủ. Muốn đoàn kết thì phải dân chủ, dân chủ là biện pháp tích cực để tăng

cường đoàn kết.
Lợi ích, chủ nghĩa yêu nước và dân chủ là ba yếu tố có quan hệ gắn bó
với nhau, đồng thời là cơ sở tạo nên điểm tương đồng để thực hiện đại đoàn
kết dân tộc. Trong điều kiện hiện nay, nhiệm vụ lớn nhất của chúng ta là tập
hợp mọi lực lượng của cả dân tộc, kể cả những kiều bào ở nước ngoài, tham
gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có thể khẳng định rằng, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng ta đã xác định vừa là nguyện vọng chung,
vừa là mong muốn tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam và do vậy,
là điểm tương đồng bao trùm nhất của dân tộc Việt Nam, là cơ sở để xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Tại Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ điểm tương đồng để gắn bó đồng bào
các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất
Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với
tinh thần đó, Đảng ta chủ trương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, xoá
bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp;
tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao
truyền thống nhân nghĩa, khoan dung; xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác
trên tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định và phát triển của đất nước
về các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội, hướng tới tương lai
tươi sáng của dân tộc. Đây thực sự là một quan điểm rất mới, thành quả của
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta: thay thuật ngữ “đại đoàn kết
toàn dân” bằng thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân tộc” với nội hàm đầy đủ hơn,
toàn diện hơn.


24

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, là công việc của mỗi người

dân. Để đạt được sự đồng thuận xã hội, đòi hỏi mọi thành viên trong xã hội
phải tôn trọng và hành động theo những nguyên tắc và ý chí chung. Mỗi quyết
định được thông qua phải là “mẫu số chung”, phản ánh và thể hiện nguyện
vọng, lợi ích của mọi thành viên, của toàn xã hội. Sự đồng thuận nhằm đạt tới
sự gắn kết xã hội, chống lại sự phân liệt xã hội. “Mẫu số chung” ấy trong bối
cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế, trong điều kiện đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo… cũng là biểu hiện
của điểm tương đồng. Do vậy, có thể quan niệm đồng thuận trong xã hội ta
hiện nay là sự nhất trí trên những điểm tương đồng. Về chính trị, đó là sự
đồng thuận vì mục tiêu chung: giữ vững độc lập dân tộc và thống nhất Tổ
quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về kinh
tế, đó là sự phát triển hài hoà các lợi ích vì sự phát triển chung của đất
nước. Về tinh thần, tư tưởng, đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về văn
hoá, đó là sự hướng tới những giá trị chân – thiện – mỹ, tôn trọng những giá
trị văn hoá, đạo đức mang tính nhân văn...
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó vai trò hạt nhân
lãnh đạo là tổ chức Đảng. Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện
đại đoàn kết không phải chỉ bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của
Đảng thành chính sách, pháp luật, mà còn ở trách nhiệm tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật đó. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần
chúng khác có vai trò đại diện cho lợi ích chung của nhân dân cũng như của
các nhóm quần chúng; là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Nói
tóm lại, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp


25

của người Việt Nam nhằm xây dựng thành công xã hội mới với những đặc
trưng cơ bản: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phương hướng và giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
như Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ, là thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp
luật của nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương trong xã hội;
tổ chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm
kinh tế giỏi, phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội, mỗi
người, mỗi gia đình cố gắng phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng, đất
nước; chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công
bằng xã hội; tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những
người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo.

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết có một vai trò quan trọng đối với
lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn
80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã chứng minh
hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt
Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng


×