Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.92 KB, 34 trang )

Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam
I. THỰC CHẤT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
I.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các
lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế
quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã
xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những
bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học
hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại

Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá,
hiện đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau
nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá
trình thống nhất, có thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng
hiện đại

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) chỉ
rõ: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến


sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Coi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời


sống kinh tế- xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta
nhấn mạnh: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục
tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp”. Cùng với những thành tựu phát triển quan
trọng đạt được sau 10 năm đổi mới, sự xác định rõ ràng hơn về
chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh CNH,
HĐH.
Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và
quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận
định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công
nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng
nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối
cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có
bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta
có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai
đoạn 2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con


đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa
có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và

phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu
“phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này
hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã
hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
I.2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam
CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình
thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những
nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
- Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng
lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa
các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát
triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa
biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia
quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm
rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn


là nước ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
- Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học,
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực
hiện xong CNH rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời
và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể,

riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt
thống nhất với nhau: (i) thứ nhất, đó là quá trình xây dựng nền
công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chấtkỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và (ii) thứ hai, đó là
quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội
nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
- Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút
ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của
nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối
cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có
khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước
ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: (i)
thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước
đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách
chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để
đuổi kịp); và (ii) thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức
CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo
kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát


triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải
pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà
có thể thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định
hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với
việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại
không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ

hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng
bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển
kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy
nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri
thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút
ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu
của quá trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng
xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta
phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để
hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời
phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri
thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.
Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của
CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
(1) Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền
vững;
(2) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
của các ngành công nghiệp và dịch vụ;


(3) Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông
nghiệp và các ngành kinh tế hiện có;
(4) Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri
thức, khoa học và công nghệ; và
(5) Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
I.3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt nam
Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi
nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH, HĐH ở

Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với
nhau, có thể chuyển hóa cho nhau. Việc phân định một cách tương
đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội dung và
phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các
nhiệm vụ trong thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn
được khái quát hóa ở một số điểm sau đây:
I.3.1. Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã
thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như:
+ Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã
hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế- xã hội
được kết nối chặt chẽ hơn.


+ Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên
tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm
tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
+ Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận
kinh tế, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng, đã gia
nhập ASEAN, ASEM, APEC, ký kết Hiệp định Thương mại Việt NamHoa Kỳ và đang nỗ lực gia nhập WTO, v.v.
+ Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh
mẽ: cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của
tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển.
+ Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể
phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí thức và
quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ- kỹ
thuật, tri thức, thị trường...trở thành lực lượng thúc đẩy phát triển

quan trọng.
- Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm (i)
toàn cầu hoá kinh tế, (ii) phát triển kinh tế tri thức, và (iii) hoà
bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo
ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính
sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia
vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa
phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát


huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những
nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,… của thế
giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn
cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải
cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ
chung của quốc tế.
- Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận
dụng được những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút
những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các
nước đi sau như Việt Nam còn có thể học hỏi kinh nghiệm phong
phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm
đổi mới của chính bản thân mình, Việt Nam có điều kiện để học hỏi
và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH, HĐH. Một lợi
thế nữa của nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ
cấu, vì không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có (các
phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần thay

đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển
kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao gồm cả cơ
cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế
- Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm
vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu
và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên
tương đối phong phú để phát triển một số ngành công nghiệp
quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu
trẻ và giá nhân công thấp, năng lực trí tuệ con người Việt Nam
không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễ đào
tạo, có khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng


sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh
tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
I.3.2. Khó khăn
- Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững
chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu
và còn nghiêng về hướng nội, v.v. là những đặc tính của nền kinh
tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta chỉ mới đang hình thành, chưa đồng bộ và
chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa
có tính khuyến khích cao, v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế
nước ta còn đang phát triển (lạc hậu, nghèo) và đang chuyển đổi
(thể chế mới chưa hoàn thiện trong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn
bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc gia đang
phát triển, có tính tạm thời và được khắc phục dần trong quá trình

đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại lớn đối với quá trình
CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện
nay. Trong đó, thách thức đặt ra là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thế ưu trội như
nêu trên đây, song tình hình thế giới luôn luôn có những diễn biến
nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc
tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá đặt nền
kinh tế đất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự
dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, và những ảnh
hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng


ta không có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những
khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính “phá
huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều
năm.
- Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi,
Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi sau”. Khó khăn rõ
nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế,
do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và
trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc
tuân thủ các luật lệ kinh tế quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình
CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên- môi
trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi
trường sống là hệ quả của CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng
người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó
có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó
làm cho chi phí của công cuộc CNH, HĐH tăng lên đáng kể đồng

thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia
tăng của dân số, của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng
việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm
. Ở nước ta, đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu.
II. TIẾN TRÌNH CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010,
Đảng ta đã xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước


ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa xác định được cụ thể các tiêu
chí quan trọng khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm
đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành CNH,
HĐH thì nước ta khó có thể đạt tới vào năm 2020. Bên cạnh đó,
các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH cũng chưa được làm rõ. Khi
chúng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn”, thì việc
nghiên cứu và hoạch định các chặng đường CNH, HĐH từ nay đến
năm 2020 và những năm tiếp theo là đặc biệt cần thiết và có ý
nghĩa then chốt. Phần này phác họa một cách đại thể những mục
tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH chủ yếu của các chặng đường từ nay đến
năm 2010 và từ năm 2010 đến 2020.
II.1. Chặng đường đến năm 2010
Tính đến nay, chúng ta đã thực hiện được gần một nửa chặng
đường của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 20012010. Tuy chưa có tổng kết cụ thể, nhưng nhìn chung chúng ta có
khả năng hoàn thành những mục tiêu kinh tế và xã hội được đề ra
tại Phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 20012005. Những kết quả đạt được cho đến nay tạo điều kiện và tiền
đề quan trọng cho chặng đường CNH, HĐH đến năm 2010. Trong 5

năm tới, nước ta tập trung tạo chuyển biến cơ bản về năng lực nội
sinh về khoa học-công nghệ và công nghiệp của đất nước, tiếp tục
nâng cao vị thế trong hội nhập và chủ trương mở rộng hội nhập
quốc tế, định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Cụ thể hơn,
những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là:


- Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, nâng cao tích lũy trong nước. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, theo đó cơ cấu ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả
cao và bền vững, cơ cấu kinh tế theo vùng tạo được sự hài hòa
giữa vùng động lực phát triển và các vùng khác, các vùng khó
khăn có thể tự lực phát triển và cơ bản hết đói nghèo. Trong nền
kinh tế, hình thành một số ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; khoa
học và công nghệ có cơ sở tốt để chủ động tiếp nhận chuyển giao
công nghệ từ bên ngoài và tự tạo được đáng kể công nghệ tiên
tiến của nước ta; giáo dục và đào tạo phát triển hình thành đội ngũ
lao động và quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế ở mức cao hơn.
- Thứ hai: Định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với cơ cấu, thể chế đồng bộ, hoàn chỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh
hội nhập kinh tế khu vực ở một vị thế tốt hơn, cân bằng lợi ích và
mở rộng hội nhập ngoài khu vực. Hoàn chỉnh đồng bộ các kết cấu
hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển của chặng
đường tiếp theo.
- Thứ ba: Tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân: no đủ, lành mạnh, yên vui, có nhiều yếu tố văn
minh, hiện đại; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung
bình cao trong so sánh quốc tế. Giải quyết tốt hơn, toàn diện hơn

các vấn đề xã hội; cơ bản xóa nghèo, tạo nhiều việc làm, tạo điều
kiện để đi tới thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và
khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư.
Tựu trung lại, kết thúc chặng đường này, quá trình CNH, HĐH đất
nước đã định hình nên cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh tế, để nước ta


đi nhanh hơn, mạnh hơn, vững chắc hơn trong chặng đường tiếp
theo (2010-2020).
II.2. Chặng đường từ năm 2010 đến 2020
Trong chặng đường này, nước ta đã hội đủ nhiều điều kiện mang
tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn nhân lực,
năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế để
tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện thành công các mục tiêu
phát triển đất nước đến năm 2020. Cụ thể, những mục tiêu và
nhiệm vụ chủ yếu là:
- Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy
mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH có hiệu quả và bền vững. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và
tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm; ở nông thôn có nền nông
nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ bản hiện đại, phát triển đa dạng các
ngành công nghiệp và dịch vụ, thực hiện sự chuyển biến căn bản
bộ mặt nông thôn Việt Nam phù hợp với một xã hội công nghiệp.
Công nghiệp có đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh ngang bằng
với các nước trong khu vực, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường
quốc tế. Khu vực dịch vụ phát triển đa dạng, trong đó dịch vụ tài
chính, ngân hàng, viễn thông phát triển hiện đại, tiếp cận trình độ
quốc tế.
- Thứ hai: Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng hội nhập

quốc tế ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền
tệ, lao động, công nghệ, thông tin. Tham gia có hiệu quả vào WTO


và các tổ chức quốc tế khác, về kinh tế có vị thế của một nước có
trình độ phát triển trung bình trên thế giới.
- Thứ ba: Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực theo kịp trình độ quốc tế. Hình thành đội ngũ các nhà quản lý
nhà nước tinh thông nghiệp vụ, trung thành, trung thực và tận tụy
với công việc; đội ngũ doanh nhân giỏi, năng động, nhạy bén và
sáng tạo; đội ngũ trí thức có trình độ cao, tâm huyết; và đội ngũ
công nhân kỹ thuật lành nghề theo kịp yêu cầu phát triển đất nước
đi dần tới hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức. Chỉ số HDI đạt mức
trên trung bình trên thế giới.
- Thứ tư: Tạo dựng và phát huy năng lực công nghệ nội sinh, kể cả
các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, chế tạo máy, tự động hóa, hóa
dầu, năng lượng,… và sự kết hợp các công nghệ đó; có chỗ đứng
vững chắc trên thị trường công nghệ, đạt trình độ tiên tiến về công
nghệ trong khu vực. Tăng cường ứng dụng và nâng cao hiệu quả
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế- xã
hội, tạo điều kiện cho sự “rút ngắn” trong một số ngành, lĩnh vực,
tiến thẳng đến trình độ hiện đại.
- Thứ năm: Hình thành lối sống và đạo đức trong xã hội lành mạnh,
văn minh, hiện đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng và dân tộc; nền
dân chủ được mở rộng, mọi người dân có điều kiện tiếp cận và
hưởng thụ công bằng các thành quả phát triển; Quản lý xã hội có
hiệu quả; các tệ nạn xã hội không còn là điều suy tư, lo lắng của
gia đình và xã hội; môi trường tự nhiên và sinh thái được giữ gìn,
hài hòa với cuộc sống con người. An ninh chính trị, xã hội luôn luôn

được củng cố vững chắc.


Đối với các tiêu chí cụ thể đánh giá nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trên cơ sở tham
khảo các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội được coi là đã hoàn
thành CNH, có thể sơ bộ nêu ra một số tiêu chí chủ yếu sau đây:
- Về cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt
90% trở lên, trong đó tỷ trọng công nghiệp đạt khoảng 40-45%
GDP, tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 10% trở xuống; tổng đầu tư
xã hội/GDP đạt trên dưới 40%; kết cấu hạ tầng đáp ứng đầy đủ cho
phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
- Về hội nhập kinh tế quốc tế: Đạt trình độ cao (độ mở cửa nền
kinh tế đạt trên 90%; tốc độ tăng xuất khẩu gấp 2-3 lần tốc độ
tăng GDP; hội nhập với thị trường thế giới về nhiều lĩnh vực; hội
nhập với thông lệ quốc tế về các thể chế,…).
- Về trình độ hiện đại hóa: Năng suất lao động xã hội đạt khoảng
10.000 USD/lao động/năm; áp dụng công nghệ hiện đại khoảng
60% trở lên; tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70-75% trở lên;
tỷ trọng lao động có trình độ cao đạt khoảng 30% trở lên; áp dụng
rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và quản lý
nền kinh tế (100% công sở và doanh nghiệp sử dụng công nghệ
thông tin),…
- Về mức sống và văn hóa- xã hội: Chỉ số HDI đạt nhóm 30-40 số
nước trên cùng của thế giới; GDP bình quân đầu người đạt khoảng
4.000 USD; tỷ lệ lao động được đào tạo đạt trên 70%; hoàn thành
phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi cả nước; tuổi thọ bình quân


là 75; nhà ở đô thị đạt trên 20m2/người; cả nước không còn hộ

nghèo; hệ số GINI nhỏ hơn 0,4.
Tựu trung lại, sau khi kết thúc chặng đường CNH, HĐH 2010-2020,
trình độ “cơ bản là một nước công nghiệp của Việt Nam” hiện ra
tương đối rõ. Những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục phát triển trên
con đường hiện đại hóa trong bối cảnh của thế giới đương đại, mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
dần dần trở thành hiện thực.
Những phác họa trên đây, đặc biệt phác họa cho chặng đường
2010-2020, chưa có đủ căn cứ và ít nhiều mang dáng dấp dự đoán
tương lai học. Tuy nhiên, xin mạnh dạn nêu lên phác họa ấy như
một vài gợi ý ban đầu rất sơ lược.
III. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CÁC NGÀNH, CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Như vừa nêu trên đây khi trình bày đại thể tiến trình CNH, HĐH ở
Việt nam từ nay đến 2010, một quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta là công cuộc CNH, HĐH đất nước không chỉ gồm
những hoạt động kinh tế, mà bao quát một phạm vi rộng lớn, đúng
với nghĩa CNH, HĐH toàn bộ đất nước, chứ không chỉ riêng nền
kinh tế.
Tuy nhiên, do khung khổ có hạn của chuyên đề này, sau đây chỉ
lựa chọn trình bày một số chủ trương và biện pháp được xem là rất
quan trọng và thiết thực.


III.1. Chủ trương, biện pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn
Do còn là một nước nặng về nông nghiệp, tỷ lệ dân số sống ở các
vùng nông thôn chiếm phần lớn, cho nên Việt Nam tất yếu phải
dành nhiều ưu tiên cho phát triển nông nghiệp và nông thôn trên

con đường phát triển của mình. Trong nhiều năm qua, Đảng ta đã
khẳng định CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khoá IX về "Đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010" được ban hành
ngày 18/3/2002 đã đề ra chủ trương toàn diện về CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn ở nước ta trong tình hình hiện nay.
Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát của cả quá trình là xây
dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và
bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ
sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng
nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng
giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh.
III.1.1. Chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Thứ nhất: Coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nội dung quan trọng nhất của toàn bộ quá trình CNH, HĐH
đất nước, là bộ phận cấu thành hữu cơ của quá trình này. Quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn có thể được “rút ngắn” một
cách thích hợp.


- Thứ hai: Phải ưu tiên cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất ở
nông thôn đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; trong
đó, đặc biệt chú trọng phát huy nguồn lực con người và ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại; đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, gắn
với thị trường. Hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông
thôn, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Thứ ba: Dựa chủ yếu vào các nguồn nội lực, khơi dậy và huy động
các nguồn sức mạnh tiềm tàng của tất cả các lực lượng, thành

phần kinh tế; kết hợp và tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên
ngoài.
- Thứ tư: Phát triển kinh tế phải đi liền và kết hợp chặt chẽ với việc
giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn, nhanh chóng cải thiện
đời sống của người dân nông thôn trên tất cả các mặt.
- Thứ năm: Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nông thôn với củng
cố an ninh trật tự và bảo vệ tổ quốc.
III.1.2. Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn
- Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn và
đổi mới các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo
đó, cần mở rộng các điều kiện tiếp cận của các chủ thể kinh tế
nông thôn đến các thị trường, coi sự vận hành của cơ chế thị
trường trong việc phân bổ nguồn lực và cạnh tranh thị trường là
động lực kinh tế quan trọng thúc đẩy phát triển nông thôn. Các
chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn cần tập trung giải


quyết những khó khăn của các chủ thể kinh tế nông thôn về các
vấn đề đất đai, thị trường tiêu thụ, nguồn vốn, khoa học và công
nghệ, lao động, v.v. Trong đó, chính sách đất đai có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, cần được đổi mới theo hướng khuyến khích việc
lưu chuyển đất đai từ người sử dụng này tới người sử dụng khác, từ
mục đích sản xuất này tới mục đích sản xuất khác theo quy hoạch
và quy định của pháp luật; không nên hạn chế việc tích tụ đất đai
vào tay những người sử dụng có hiệu quả cao, tạo điều kiện áp
dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào nông nghiệp và
tạo mặt bằng sản xuất cho các hoạt động công nghiệp ở nông
thôn. Chính sách tài chính, tín dụng cần hướng tới việc tăng tỷ lệ
vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn

phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH, trong đó chú trọng đổi mới cơ cấu
vốn đầu tư của nhà nước phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuấtkinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở bình đẳng
trước pháp luật. Muốn vậy, trước hết cần tạo lập và hoàn thiện
hành lang pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại
hình tổ chức sản xuất- kinh doanh ở nông thôn như các hộ gia
đình, các trang trại, các hợp tác xã, và các loại hình doanh nghiệp
khác trên cơ sở bình đẳng. Về lâu dài, cần có một đạo luật duy
nhất điều chỉnh tất cả các loại hình tổ chức này. Cần khuyến khích
phát triển rộng rãi các doanh nghiệp dân doanh ở nông thôn, đặc
biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi đây là lực lượng chủ lực tạo
việc làm mới, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu
ngành, nghề và cơ cấu lao động ở nông thôn. Bên cạnh đó, khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn.


- Thứ ba: Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông
thôn. Theo đó, cần đẩy nhanh và nâng cao chất lượng quy hoạch
phát triển ngành và vùng theo nguyên tắc xác định các hướng sản
xuất- kinh doanh trên cơ sở lợi thế so sánh của ngành và vùng.
Cần có kế hoạch phối hợp giữa các ngành chuyên môn ở từng
vùng, đồng thời có kế hoạch phối hợp hoạt động của các ngành
chuyên môn với các cấp chính quyền ở nông thôn liên quan đến
lĩnh vực quản lý nhà nước về tài chính công. Quy hoạch ngành và
vùng cần được xây dựng gắn kết và đồng bộ với các quy hoạch
khác ở nông thôn như: quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế- xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, làng, xã, thị trấn; quy
hoạch xây dựng các trung tâm thương mại, chợ, khu, cụm công

nghiệp, làng nghề,… ở nông thôn.
- Thứ tư: Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công
nghệ vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao
năng suất của từng người lao động nông nghiệp, nâng cao thu
nhập của từng hécta đồng ruộng, của từng hộ nông dân. Nhà nước
cần tăng cường đầu tư cho việc nhập khẩu các công nghệ hiện đại,
các loại giống tốt, đầu tư cho việc hiện đại hoá các cơ sở nghiên
cứu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ cho việc
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào thực tiễn sản
xuất- kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng một số
khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin như các cơ sở sản xuất giống mới dựa vào công
nghệ gen, các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi sử dụng các giống mới
cùng với những công nghệ mới tự động điều khiển quá trình sản
xuất. Nhà nước có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia nghiên cứu phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông


nghiệp, nông thôn và thực hiện xã hội hoá để mở rộng hệ thống
khuyến nông đến cơ sở.
- Thứ năm: Nâng cao trình độ và đảm bảo tính đồng bộ của nguồn
lao động nông thôn thông qua đổi mới chính sách đào tạo và dạy
nghề. Trong thời kỳ đầu CNH, HĐH, cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo
đại học, cao đẳng và giáo dục chuyên nghiệp theo hướng tăng đào
tạo nghề nghiệp và trung học chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng
giáo dục đại học. Nhà nước cần tăng cường đầu tư để nâng cấp
các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có chính sách khuyến
khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng và
khuyến khích thu hút những người được đào tạo về làm việc ở
nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa.

III.2. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành công nghiệp
III.2.1. Chủ trương phát triển các ngành công nghiệp
Có thể phân biệt ba nhóm ngành công nghiệp chính sau đây:
- Các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất, bao gồm những ngành
phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên và công nghệ nước
ngoài như: nông-lâm sản, thuỷ-hải sản, may mặc, da giầy, v.v.
Những ngành công nghiệp này dễ dàng xây dựng, nhu cầu vốn
không lớn, nhưng ít sáng tạo và giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên,
việc xuất khẩu các sản phẩm thuộc những ngành này có thể tạo
nguồn ngoại tệ quý giá để phát triển các ngành khác, tạo nhiều
việc làm, khởi động quá trình CNH đất nước, đồng thời phát huy
được những lợi thế so sánh về nguồn tài nguyên và nguồn lao
động.


- Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai, bao gồm những ngành đòi
hỏi công nghệ cao hơn như: công nghiệp dệt, cơ khí chế tạo, sản
xuất hàng tiêu dùng cao cấp, điện tử, công nghệ thông tin, tự động
hoá, v.v. Các sản phẩm thuộc những ngành này có độ chính xác,
chất lượng và giá trị gia tăng cao. Chúng được xây dựng trên cơ sở
các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất, có mối liên kết và tạo đầu
vào cho các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất. Việc phát triển
các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai có tác động lan toả, nâng
cao năng suất lao động của nhiều ngành công nghiệp và ngành
kinh tế khác, là một mục tiêu quan trọng để thu hút công nghệ từ
nước ngoài, đồng thời phát huy những lợi thế so sánh về nguồn
nhân lực có chất lượng cao.
- Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba, bao gồm những ngành sản
xuất ra nguyên vật liệu đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao như:
công nghiệp hoá dầu, công nghiệp hoá chất quy mô lớn, công

nghiệp luyện kim, v.v. Các loại nguyên liệu này sẽ có nhu cầu lớn
về số lượng và ngày càng cao về chất lượng khi nền công nghiệp
nước ta phát triển mạnh mẽ, nhưng hiện nay hầu hết hoặc phần
lớn phải nhập khẩu. Tuy vậy, trong bối cảnh tự do hoá quốc tế hiện
nay, việc phát triển những ngành công nghiệp có nhiều tính chất
thay thế nhập khẩu này cần được cân nhắc cẩn trọng, và nhìn
chung cần một khoảng thời gian tương đối dài để có thể tạo điều
kiện đầy đủ cho sự phát triển có hiệu quả, nhất là về nguồn vốn và
công nghệ.
Dựa trên sự phân loại khái quát ba nhóm ngành công nghiệp như
trên, việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp
trong thời gian tới cần quán triệt những quan điểm sau đây:


- Thứ nhất: Việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu các ngành công
nghiệp phải dựa trên lợi thế so sánh của đất nước, trong đó phải
chú ý đến sự dịch chuyển từ những ngành công nghiệp dựa trên lợi
thế so sánh tĩnh (nguồn lao động và tài nguyên) sang những
ngành dựa trên lợi thế so sánh động (những thế mạnh lâu dài của
đất nước, con người và xã hội Việt nam, cho phép phát triển những
ngành công nghiệp có mức độ chế biến sâu ).
- Thứ hai: Việc phát triển các ngành công nghiệp phải đảm bảo
tính hiệu quả, nhất là đối với những ngành thuộc thế hệ thứ ba.
Chúng ta đề ra 5 tiêu chuẩn để lựa chọn phát triển những cơ sở
thuộc các ngành công nghiệp ấy. Đó là: có thị trường, có nguồn
vốn, có công nghệ đích đáng, có thị trường, có bước đi thích hợp,
có hiệu quả cao. Tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả phải được coi
là tiêu chí hàng đầu khi ra quyết định đầu tư, có tính tới hiệu quả
tổng hợp cả về mặt xã hội, quốc phòng, an ninh, cả trước mắt và
lâu dài, tránh quan điểm phải làm bằng bất cứ giá nào.

- Thứ ba: Việc phát triển các ngành công nghiệp kế tiếp sau các
ngành công nghiệp ban đầu phải đảm bảo sự liên kết chặt chẽ và
bền vững, tạo nên một cơ cấu có hiệu quả, năng động. Trong đó,
cần chú ý đến việc nâng dần trình độ công nghệ của các ngành
công nghiệp từ trình độ thấp lên trình độ cao, tranh thủ đi thẳng
hoặc đi nhanh và công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
- Thứ tư: Việc phát triển các ngành công nghiệp kế tiếp sau các
ngành công nghiệp ban đầu có thể diễn ra một cách tuần tự hoặc
tuỳ thuộc vào các điều kiện tạo được mà một số ngành có thể phát
triển nhanh và mạnh. Trong thời kỳ đầu CNH, có thể phát triển


ngay những ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ cao trên cơ sở
xác định có trọng tâm những ngành mũi nhọn.
III.2.2. Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh phát triển các
ngành công nghiệp
- Thứ nhất: Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng Chiến lược phát
triển công nghiệp đến năm 2020. Chiến lược này phải giải quyết
thoả đáng các vấn đề lớn như phương pháp luận và công cụ để xây
dựng chiến lược; tiêu chí cụ thể để xây dựng chiến lược; xác định
vị trí nền công nghiệp Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; tư
tưởng chiến lược chủ đạo phát triển toàn bộ nền công nghiệp;
phân nhóm các ngành hoặc chuỗi các ngành công nghiệp đi kèm
với chính sách phát triển ở mọi khía cạnh và các vấn đề về thể
chế, tổ chức thực hiện, giám sát, điều chỉnh trong từng bước đi.
Trong đó, cần xác định tư tưởng chiến lược mang tính chủ đạo là:
(i) ưu tiên phát triển các ngành mũi nhọn và các ngành hướng
mạnh về xuất khẩu dựa trên năng lực cạnh tranh; (ii) đẩy nhanh
tốc độ hiện đại hoá, đổi mới công nghệ; (iii) đẩy mạnh CNH, HĐH
nông thôn; và (iv) tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân

vào phát triển công nghiệp, đặc biệt khuyến khích sự phát triển
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thứ hai: Cải thiện vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực
hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển công nghiệp
hướng tới việc huy động hữu hiệu các nguồn lực và khai thác tốt
các tiềm năng của đất nước. Nhà nước có vai trò rất quan trọng
trong việc thực hiện các tư tưởng chiến lược chủ đạo phát triển
công nghiệp thông qua việc tạo môi trường thích hợp và các chính
sách ưu tiên, khuyến khích, cả đối với các ngành và đối với các


doanh nghiệp (được trình bày cụ thể hơn ở các phần dưới đây).
Đầu tư của Nhà nước cho phát triển công nghiệp đóng vai trò rất
quan trọng, giải pháp cần quan tâm là nâng cao hiệu quả đầu tư
của Nhà nước, và có tính toán kỹ lưỡng đến hiệu quả trước khi đưa
ra các quyết định đầu tư mới.
- Thứ ba: Các biện pháp phát triển các ngành công nghiệp cần chú
trọng phát huy lợi thế so sánh và dựa trên năng lực cạnh tranh của
các ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực cạnh
tranh của các ngành công nghiệp phải được đánh giá trên cơ sở
khoa học, so sánh với các nước trong khu vực và có dự báo xu
hướng trong tương lai. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh
cao, Nhà nước có thể tăng cường đầu tư và khuyến khích đầu tư
của khu vực tư nhân, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với
những ngành có năng lực cạnh tranh có điều kiện, Nhà nước có các
chính sách trợ giúp có điều kiện và có thời hạn để nâng cao năng
lực cạnh tranh, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân và nước
ngoài đầu tư vào những ngành này. Đối với những ngành có năng
lực cạnh tranh thấp, cần tích cực điều chỉnh cơ cấu đầu tư, một
mặt có thể hạn chế đầu tư để tránh gây lãng phí, kém hiệu quả,

mặt khác có thể khuyến khích đầu tư thích hợp để nâng cao năng
lực cạnh tranh tuỳ theo đặc trưng cụ thể của từng ngành.
- Thứ tư: Các biện pháp thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công
nghiệp cần chú trọng đến việc huy động nguồn lực tiềm tàng của
tất cả các loại hình doanh nghiệp. Cụ thể là:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước: Cần đẩy mạnh tái cơ cấu và
nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp này thông qua các
biện pháp như cổ phần hoá, công ty hoá, giao, bán, khoán kinh


×