Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

NGHIÊN cứu ( tìm HIỂU) hệ THỐNG AN TOÀN và báo nạn HÀNG hải TOÀN cầu – GMDSS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.3 KB, 25 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA HÀNG HẢI
BỘ MÔN HÀNG HẢI

SINH VIÊN: VÕ VĂN HIỂN
NGHIÊN CỨU ( TÌM HIỂU) HỆ THỐNG GMDSS
BÁO CÁO PHẦN TÌM HIỂU CỦA SINH VIÊN

HẢI PHÒNG – 2016

1


BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA HÀNG HẢI
BỘ MÔN HÀNG HẢI

SINH VIÊN: VÕ VĂN HIỂN
NGHIÊN CỨU ( TÌM HIỂU) HỆ THỐNG AN TOÀN VÀ BÁO NẠN
HÀNG HẢI TOÀN CẦU – GMDSS

Người hướng dẫn: ThS Nguyễn Đức Long
Tên môn học: Máy Vô Tuyến Điện Hàng Hải III
Lớp học: ĐKT 53 – ĐH2
Nhóm học: N03

HẢI PHÒNG – 2016



2


MỤC LỤC
Mở đầu

3

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

7

1.1 Cơ sở lý luận

7

1.2 Thực tiễn và yêu cầu thực tế hiện nay

7

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA CƠ SỞ VẬT CHẤT

9

VÀ KỸ THUẬT SỬ DỤNG HỆ THỐNG GMDSS
2.1 Đặc điểm và vai trò của hệ thống GMDSS

9


2.2 Thực trạng cơ sở vật chất phòng thực hành.

15

2.3 Quy trình sử dụng hệ thống GMDSS

15

2.3.1 Hoạt động của hệ thống GMDSS theo sơ đồ

15
2.

3.2 Khai thác hệ thống.

17

2.3.2.1 Quy trình xử lý chung.
2.3.2.2 Quy trình xử lý khi nhận được tín hiệu báo động

17

cấp cứu.
a. Thu nhận, xử lý báo động cấp cứu qua các thiết bị

17

VHF-DSC, MF/HF-DSC.
b. Thực hiện chức năng thoại trên kênh 16 và kênh 70 VHF.


20

c. Thu nhận xử lý báo động cấp cứu qua các thiết bị

20

INMARSAT.
d. Thu nhận, xử lý báo động cấp cứu từ thiết bị phát tín hiệu 21
cấp cứu khẩn cấp qua hệ thống vệ tinh Cospas-Sarsat.
CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

25

3


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển không ngừng của khoa học thì các trang thiết bị trang bị
cho nghành hàng hải cũng càng ngày được trang bị mới và hiện đại hơn. Tuy
nhiên để đáp ứng cho sinh viên được thực hành, khai thác các hệ thống này để
sau khi ra trường đáp ứng nhu cầu thực tế là điều rất khó khăn. Và trên thực tế
hiện nay sinh viên Khoa hàng hải khi đi thực hành thì chỉ khai thác và sử
dụng trên các máy móc thiết bị đã cũ, không phù hợp với thực tế, bên cạnh đó
lượng sinh viên lại đông, thiết bị trang bị không nhiều cho nên lượng sinh

viên được khai thác một cách thuần thục thực tế là không nhiều. Bên cạnh đó
thiết bị cũ thường xuyên trục trặc nếu không có sự khắc phục kịp thời thì
không có thiết bị để thực hành.
Việc xây dựng một bài giảng điện tử là một nhu cầu cần thiết cho thời
điểm hiện tại, nó cung cấp cho người học một cách đầy đủ về tính mới của
thiết bị, người học ngoài giờ học trên lớp thì vẫn có thể tham khảo ở nhà và
dành thời gian trao đổi, tương tác với giáo viên nhiều hơn.
Việc xây dựng một bài giảng vào thời điểm hiện tại là phù hợp với những
yêu cầu về đổi mới về dạy và học trên đại học, giúp cho người học rút ngắn
được thời gian mà trong khi đó vẫn có thể nắm bắt được khối lượng kiến thức
đầy đủ với yêu cầu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện với mục đích thể hiện rõ ràng giúp cho người sử
dụng đặc biệt là sinh viên trong quá trình học tập trong nhà trường có khả
năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị của hệ thống. Đồng thời đề tài cũng
tổng hợp và chỉ rõ ra các mặt còn hạn chế của thiết bị trong quá trình khai
thác, từ đó giúp cho người vận hành hệ thống Máy vô tuyến điện trên tàu biển
được tốt hơn tránh những lầm lẫn không đáng có.

4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các trang thiết bị thuộc học
phần Máy vô tuyến điện Hàng hải, bao gồm cấu tạo, toàn bộ các bộ phận cấu
thành trong hệ thống.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào nghiên cứu nguyên lý hoạt
động của hệ thống trang thiết bị Máy vô tuyến điện được lắp đặt trên tàu biển,
quy trình hoạt động và một số lưu ý khi khai thác vận hành các thiết bị để đạt
hiệu quả.

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Tìm và tập hợp các tài liệu về thiết bị trong phòng thực hành, bao gồm
các Hệ thống INMARSAT, Hệ thống VHF, Máy thu FACSIMALE,.. với
nguồn quốc tế và Việt Nam có liên quan đến hệ thống, từ đó xây dựng lại toàn
bộ nguyên lý hoạt động của thiết bị thông qua sử dụng linh hoạt các phần
mềm hỗ trợ như Power point, Adobe Presenter, Adobe Flash. Tác giả kết hợp
tham khảo kiến thức của những người đã từng lắp đặt, khai thác và sử dụng
thiết bị trên tàu, đặc biệt là có sự tư vấn giúp đỡ của các thuyền trưởng trong
Khoa Hàng hải, với kiến thức của bản thân về việc sử dụng hệ thống các trang
thiết bị và dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, để xây dựng lên Bộ bài
giảng điện tử nhằm giúp người học - sinh viên có thể sử dụng, khai thác hệ
thống đạt hiệu quả cao.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài sẽ nêu rõ cấu trúc của toàn bộ hệ thống trang thiết bị thuộc học phần
Máy vô tuyến điện hàng hải III. Nêu nguyên lý hoạt động của từng thiết bị
được lắp đặt trên tàu biển, xây dựng quy trình hướng dẫn sử dụng chi tiết và
qua đó phân tích các mặt còn hạn của thiết bị giúp cho người hàng hải hiểu rõ
hơn về thiết bị nhằm khai thác hiệu quả hơn. Đề tài là tài liệu tham khảo bổ

5


ích trong việc giảng dạy, học tập chuyên môn cho thuyền viên, sinh viên và
các chuyên ngành kỹ thuật liên quan.

6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận

Hệ thống GMDS (Global Maritime Distress and Safety System) là hệ
thống thông tin an toàn và báo nạn hàng hải toàn cầu. GMDSS là một hệ
thống quốc tế dùng phương thức thông tin liên lạc mặt đất, vệ tinh và các hệ
thống vô tuyến trên tàu nhằm đảm bảo gửi các thông tin báo động cấp cứu
nhanh chóng, tự động đến các tổ chức cứu nạn trên bờ và đến các tàu thuyền
ở lân cận trong trường hợp bị nạn. Các đơn vị tìm kiếm cứu nạn trên bờ, cũng
như tàu thuyền trong vùng lân cận tàu bị nạn sẽ nhận được tín hiệu báo động
cấp cứu nhanh chóng và thực hiện phối hợp hoạt động tìm kiếm, cứu nạn
trong thời gian nhanh nhất, chính xác nhất.
Theo quy định của SOLAS, tất cả các tàu khách và tàu hàng từ 300 GT trở
lên hoạt động tuyến quốc tế, phải được trang bị thiết bị vô tuyến phù hợp các
tiêu chuẩn quốc tế đã được quy định cho hệ thống GMDSS.
1.2 Thực tiễn và yêu cầu thực tế hiện nay
Thông tin cứu nạn và an toàn hảng hải trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào
thông tin mặt đất. Do sử dụng các thiết bị như mã morse, VHF, MF/HF… nên
hệ thống cứu nạn và an toàn hàng hải cũ có rất nhiều nhược điểm là tầm hoạt
động ngắn chỉ đạt tới khoảng 150-250 hải lý. Khi một con tàu bị nạn xa bờ
phát tín hiệu cấp cứu, nó chỉ có thể hi vọng là tín hiệu cấp cứu có thể được
một con tàu nào đó trong khu vực lân cận nhận được. Việc phát tín hiệu cấp
cứu vào bờ gặp rất nhiều khó khăn về cự ly, chất lượng thông tin cũng như
những rủi ro trên đường truyền. Cư li cũng như chất lượng liên lạc phụ thuộc
vào các yếu tố môi trường như ngày, đêm, tầng khí quyển, mật độ của tầng
ion và mật độ thông tin của khu vực đó. Việc phối hợp tìm kiếm cũng gặp
nhiều khó khăn. Ngoài ra trên tàu cần phải có điện báo viên vô tuyến điện
chuyên nghiệp để thực hiện việc phát và thu nhận các bản tin cho tàu, việc
thông tin liên lạc và mã hóa tín hiệu rất chậm và độ chính xác không cao.
Ngày nay xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng được đầy mạnh và là xu
hướng tất yếu của thời đại, nhiều tập đoàn kinh tế lớn ra đời với sự phát triển
mạnh mẽ về số lượng cũng như chủng loại, kích thước tàu, phát huy được thế
mạnh về nghành kinh doanh vận tải đường biển, khai thác tốt và hiệu quả

nguồn tài nguyên và nhân lực đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển. Do
vậy nghành hàng hải đã có sự phát triển mạnh về mọi mặt. Tuy có sự hỗ trợ
tích cực của phương tiện và khoa học kỹ thuật nhưng trên phạm vi toàn cầu số
vụ tai nạn đường biển vẫn chưa được giảm đáng kể do cả nguyên nhân chủ
quan và khách quan, gây nên những thiệt hại không nhỏ về người và của, ảnh

7


hưởng xấu đến môi trường biển. Hệ thống GMDSS đi vào hoạt động đã mang
lại hiệu quả thiết thực, nhanh chóng, chính xác trong thông tin an toàn hàng
hải và tìm kiếm cứu nạn toàn cầu.

8


CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CỦA CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ KỸ
THUẬT SỬ DỤNG HỆ THỐNG GMDSS
2.1 Đặc điểm và vai trò của hệ thống GMDSS
Hệ thống DMGSS được xây dựng theo kế hoạch tổng thể (Master Plan)
trong ấn bản sổ tay GMDSS của IMO, miêu tả toàn bộ hệ thống và các tiêu
chuẩn thiết bị của nó. Kế hoạch tổng thể này chỉ ra các chi tiết của mạng liên
lạc toàn cầu, tình trạng hoạt động và kế hoạch của các trạm DSC. Các chi tiết
cũng bao gồm các trạm phối hợp cứu nạn (RCC) chịu trách nhiệm cho mỗi
vùng tìm kiếm cứu nạn (SRR) nhất định. Mỗi trạm RCC đều có khả năng phát
đi các thông tin an toàn hàng hải (MSI) dưới dạng điện báo thông qua vệ tinh
và/hoặc vô tuyến mặt đất.
Cấu trúc của hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn toàn cầu GMDSS
bao gồm hai thành phần chính là: Hệ thống thông tin vệ tinh và hệ thống
thông tin mặt đất.

- Hệ thống thông tin vệ tinh: là một đặc trưng quan trọng trong hệ
thống GMDSS gồm hệ thống vệ tinh INMARSAT và hệ thống vệ
tinh COSPAS-SARSAT.
• Hệ thống thông tin vệ tinh INMARSAT: Với các vệ tinh địa tĩnh
hoạt động trên dải tần 1.5 – 1.6 Mhz cung cấp cho các tàu có lắp đặt
trạm đài tàu vệ tinh một phương tiện báo động và gọi cấp cứu. Nó
có khả năng thông tin hai chiều bằng các phương thức thoại và
telex. Ngoài ra các vệ tinh INMARSAT còn được sử dụng như một
phương tiện chính để thông báo các bức điện an toàn hàng hải MSI
(Maritime Safety Information) – cho các vùng không được phủ sóng
bởi dịch vụ NAVTEX. Hiện tại hệ thống thông tin vệ tinh gồm có
các thiết bị sau:
INMARSAT – A: là hệ thống thông tin inmarsat đầu tiên được
đưa vào hoạt động thương mại (năm 1982). Nó sử dụng Kỹ thuật
tương tự và cung cấp các dịch vụ truyền số liệu.
INMARSAT – B: ra đời năm 1994 là thiết bị thông tin di động
vệ tinh hiện đại sử dụng công nghệ số, kế tục sự phát triển của
INMARSAT–A. Nó cung cấp các dịch vụ của INMARSAT-A
nhưng kích thước gọn nhẹ và làm việc hiệu quả hơn INMARSATA.
INMARSAT – C: là thiết bị thông tin di động vệ tinh ra đời năm
1993. Cung cấp các dịch vụ truyền số liệu và telex hai chiều với tốc

9


độ 600 bit/s. INMARSAT-C đơn giản, giá thành rẻ với các anten vô
hướng nhỏ, gọn.
INMARSAT – E: là EPIRB vệ tinh hoạt động trên băng L qua hệ
thống inmarsat được dùng như một phương tiện báo động cứu nạn
cho các tàu hoạt động trong vùng bao phủ của vệ tinh INMARSAT.

INMARSAT-E sử dụng vệ tinh thế hệ 2 và kỹ thuật số nó cho phép
xử lý tới 20 cuộc gọi báo động đồng thời trong khoảng thời gian 10
phút, với khả năng thao tác nhân công hoặc tự động cập nhật thông
tin về vị trí vào EPIRB. EPIRB vệ tinh băng L có thể kích hoạt nhân
công hoặc tự động khi tàu chìm sau khi kích hoạt nó sẽ phát bức
điện báo động cấp cứu với nội dung bao gồm thông tin về nhận
dạng, vị trí và một số thông tin cần thiết khác phục vụ cho việc tìm
kiếm và cứu nạn, thông tin được phát theo phương thức trải thời
gian. Sau khi được vệ tinh INMARSAT chuyển tiếp, tính hiệu báo
động cấp cứu được đưa tới trạm đài bờ LES bằng tần số đã được ấn
định riêng và được hệ thống máy tính xử lý tính hiệu để nhận dạng
và giải mã bức điện. Bức điện báo động cấp cứu sau đó được gửi
cho trung tâm phối hợp cứu nạn thích hợp.
INMARSAT – M: là sự phát triển tiếp theo của INMARSAT-B
nhưng có kích thước gọn nhỏ và giá thành rẻ hơn. Các dịch vụ thông
tin trong INMARSAT-M chỉ có thoại, fax và truyền dữ liệu.
INMARSAT – mini M: giống INMARSAT-M nhưng sử dụng vệ
tinh thế hệ số 3.
Máy thu gọi nhóm tăng cường EGC – Enhand Group Calling là
máy thu chuyên dụng để thu các thông tin an toàn và cứu nạn hàng
hải trong hệ thống vệ tinh INMARSAT. Nó được thiết kế để đủ khẳ
năng tự động trực canh liên tục trong mạng Safety NET, phát trên hệ
thống vệ tinh INMARSAT. Máy thu EGC có thể được tích hợp
trong các trạm đài tàu INMARSAT-A,B,C hoặc được thiết kế độc
lập với một anten thu riêng. Máy thu EGC là thiết bị yêu cầu phải
được trang bị trong hệ thống GMDSS đối với các tàu hoạt động
ngoài vùng phủ sóng NAVTEX quốc tế.
• Hệ thống thông tin vệ tinh COSPAS – SARSAT: đây là một
hệ thống thông tin vệ tinh trợ giúp tìm kiếm và cứu nạn, được thiết
lập để xác định vị trí của thiết bị EPIRB trên tần số 121.5 MHz hoặc

406 MHz. Hệ thống COSPAS – SARSAT được sử dụng cho tất cả
các tổ chức trên thế giới có trách nhiệm tìm kiếm và cứu nạn trên
biển, trên không và trên đất liền. Đây là một hệ thống vệ tinh mang
tính quốc tế và được sử dụng phục vụ cho một số lượng lớn các hoạt
động tìm kiếm và cứu nạn toàn cầu.

10


- Hệ thống thông tin mặt đất: sử dụng DSC là công nghệ cơ bản để
thực hiện các thông tin an toàn và cứu nạn. Tiếp sau cuộc gọi DSC có
thể thực hiện bằng phương thức NBDP, Telex, thoại. Hệ thống thông
tin mặt đất bao gồm các thiết bị chính sau:
• Thiết bị thông tin thoại: thiết bị thông tin thoại trong hệ
thống GMDSS làm việc trên các dải sóng MF, HF và VHF ở các
chế độ J3E, H3E (cho tần số cấp cứu 2182 KHz) và G3E. Thiết bị
thông tin thoại này cũng được dùng để gọi cấp cứu, khẩn cấp và an
toàn. Nó là thiết bị thông tin chính phục vụ cho thông tin hiện
trường giữa một tàu bị nạn với các đơn vị làm nhiệm vụ cứu nạn.
Trên mỗi dải tần làm việc của thiết bị thông tin thoại đều có ít nhất
một tần số cấp cứu quốc tế giành cho thông tin cấp cứu. Đồng thời
thiết bị này sẽ đáp ứng các dịch vụ thông tin công cộng khác trong
nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải.
• Thiết bị gọi chọn số DSC: là một phần quan trọng của hệ
thống GMDSS trên các dải sóng HF, MF và VHF/DSC. Thiết bị này
được sử dụng để phát báo động cấp cứu từ tàu cũng như phát xác
nhận điện cấp cứu từ bờ, thiết bị này được cả tàu và bờ dùng để phát
chuyển tiếp các bức điện báo động cấp cứu hoặc phát các cuộc khẩn
cấp và an toàn. Ngoài ra các thiết bị DSC cũng cần được cả tàu và
bờ dùng để bắt liên lạc trong thông tin thông thường. Thủ tục khai

thác thiết bị DSC đã được thống nhất và được quy định rõ trong các
khuyến nghị của tổ chức liên minh viễn thông quốc tế ITU. Thành
phần cơ bản của một bức điện DSC bao gồm: nhận dạng của đài
( hoặc nhóm đài) đích, tự nhận dạng trạm phát và nội dung bức điện,
bao gồm những thông tin ngắn gọn cơ bản nhất để chỉ ra mục đích
cuộc gọi.
• Thiết bị NBDP: - thiết bị truyền chữ trực tiếp băng hẹp – là
một bộ phận cấu thành hệ thống GMDSS để hỗ trợ trong thông tin
cấp cứu, khẩn cấp và an toàn. Ngoài ra các thiết bị NBDP nhằm đáp
ứng các dịch vụ thông tin trên các dải sóng VTĐ mặt đất giữa tàu
với bờ và ngược lại. Thiết bị NBDP hoạt động trên các dải sóng MF
và HF. Với các phương thức thông tin ARQ dùng để trao đổi thông
tin giữa hai đài và FEC dùng để phát các thông tin có tính chất
thông báo tới nhiều đài. Trên mỗi dải sóng VTĐ hàng hải đều được
thiết kế một tần số giành riêng cho cấp cứu, khẩn cấp an toàn bằng
thiết bị NBDP.
Liên lạc GMDSS giữa tàu và các trạm RCC được thực hiện thông qua
các hệ thống phụ của thông tin vệ tinh và/hoặc vô tuyến mặt đất. Các hệ thống

11


phụ thuộc của vệ tinh cung cấp liên lạc giữa tàu và bờ trong khi các hệ thống
phụ của mặt đất cung cấp cả liên lạc giữ tàu-bờ và tàu-tàu.
Các hệ thống phụ:
- Hệ thống VHF, MF/HF với chức năng gọi chọn số DSC.
- Hệ thống liên lạc vệ tinh Satellite Communication System.
- Hệ thống thông tin an toàn hàng hải MSI.
- Hệ thống phao vô tuyến chỉ báo vị trí khẩn cấp EPIRB.
- Hệ thống phát đáp tìm kiếm cứu nạn SART.

Chức năng và nhiệm vụ của hệ thống:
- Hướng dẫn an toàn giao thông trên biển:
• Phát các thông báo liên quan đến an toàn trên biển.
• Đầu tư, nâng cấp trang thiết bị đảm bảo yêu cầu đặt ra.
• Tổ chức học tập, hướng dẫn nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
• Tổ chức kiểm tra, giám sát theo công ước quốc tế.
- Chức năng thông tin liên lạc:
• Phát tín hiệu cấp cứu từ tàu vào bờ.
• Thu tín hiệu cấp cứu từ bờ ra tàu.
• Thu phát tín hiệu cấp cứu giữa các tàu với nhau.
• Thu phát các thông tin liên lạc phục vụ cho công tác tìm kiếm và
cứu nạn.
• Thu phát các thông tin hiện trường.
• Thu phát tín hiệu định vị.
• Thu phát các bản tin an toàn hàng hải MSI.
• Thu phát thông tin vô tuyến thông thường.
• Thu phát thông tin giữa các tàu với nhau.
- Tổ chức tìm kiếm cứu nạn:
• Tổ chức mạng lưới rộng khắp toàn cầu, hoạt động đồng bộ,
thống nhất.
• Mỗi khu vực, mỗi quốc gia đều có lực lượng chuyên trách chịu
trách nhiệm về tìm kiếm cứu nạn, được tổ chức theo mạng lưới từ
trung ương xuống địa phương.
• Các đội tìm kiếm cứu nạn được trang bị các phương tiện cứu nạn
đầy đủ và hiện đại, sẵn sàng ứng cứu trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh, thường trực 24/24.
• Khi có sự cố trên biển, thông qua hệ thống GMDSS mà tín hiệu
cấp cứu được phát trên diện rộng, đồng thời chỉ đạo kịp thời việc
phối hợp tìm kiếm cứu nạn. Đảm bảo hiệu quả tìm kiếm, cứu nạn
cao nhất.

Các hình thức phát (gọi) điện trong thông tin an toàn và cứu nạn

12


- Gọi cho 1 tàu: là hình thức khi muốn liên lạc với một đài tàu cụ thể
ta tiến hành gọi trực tiếp cho đài tàu đó bằng thoại hoặc gửi bản tin
telex, phương thức này áp dụng cho kỹ thuật gọi chọn số DSC.
- Gọi cho nhóm tàu: là hình thức đài bờ hay một đài tàu gọi hoặc gửi
bản tin telex cho một nhóm tàu đã được đăng ký, khi hoạt động trong
vùng phủ sóng các đài có thể hoạt động trao đổi và phát thông tin cho
nhau để thông báo hay trợ giúp trong hoạt động hàng hải.
- Gọi theo vùng địa lý: là hình thức trao đổi thông tin với nhau thông
qua việc phát thoại hoặc gửi bản tin bằng telex cho nhau, khi các tàu
hoạt động trong một vùng địa lý nhất định.
- Gọi cho tất cả các tàu: là hình thức đài bờ hay một đài tàu gọi hoặc
gửi bản tin telex cho tất cả các tàu hoạt động trong vùng phủ sóng, các
đài có thể trao đổi và phát thông tin cho nhau để thông báo hay trợ giúp
trong hoạt động hàng hải.
- Gọi chuyển tiếp.
- Gọi trả lời.
- Ngoài ra nếu cần phát báo động cấp cứu các tàu có thể ấn phím báo
động Distress màu đỏ trước khi rời bỏ tàu. Phím ấn Distress này có trên
các thiết bị như VHF-DSC, MF/HF. INMARSAT.
Để thực hiện hiệu quả các chức năng nêu trên, hệ thống GMDSS dựa trên
khái niệm của việc sử dụng 04 vùng biển thông tin hàng hải nhằm xác định
các yêu cầu đối với việc khai thác, bảo dưỡng và khai thác viên trong thông
tin vô tuyến điện hàng hải, đó là:
- Vùng biển A1: Là vùng biển được phủ sóng ít nhất bởi một đài bờ
VHF, có khả năng báo động cấp cứu liên tục bằng phương thức gọi

chọn số DSC. Thông thường mỗi đài có vùng phủ sóng từ 20 – 50 hải
lý, phụ thuộc vào chiều cao của anten VHF đài bờ. Vùng A1 cự ly từ
(20 -50 NM).
- Vùng biển A2: Là vùng biển nằm ngoài vùng A1 được phủ sóng
bởi ít nhất một đài duyên hải MF, có khả năng báo động cấp cứu liên
tục bằng phương thức gọi chọn số DSC. Thông thường mỗi đài có vùng
phủ sóng từ 50 – 250 hải lý. Vùng A2 cự ly từ (A1 < A2 < 50 -250
NM).
Vùng biển A3: Là vùng biển nằm ngoài vùng A1 và A2, được phủ
sóng bởi các vệ tinh địa tĩnh của INMARSAT và có khả năng báo động
cấp cứu liên tục. Vùng phủ sóng của các vệ tinh thông tin địa tĩnh
INMARSAT trong khoảng 70 độ Bắc đến 70 độ Nam. Vùng A3 cự ly
từ (A1, A2 < A3 ≤ 70 độ (N,S)).

13


Vùng biển A4: Là vùng ngoài vùng biển A1, A2, A3. Đây thực
chất là các vùng cực của trái đất từ vĩ tuyến 76 độ Bắc đến cực Bắc và
từ 76 độ Nam đến cực Nam (không gồm các vùng khác).
Do vậy, các tàu hoạt động trên những vùng biển khác nhau sẽ được yêu cầu
về trang thiết bị vô tuyến cần thiết để thực hiện các chức năng của hệ thống
GMDSS nhằm đảm bảo an toàn trong suốt chuyến hành trình của mình.
Mức độ ưu tiên và tính chất của các loại bức điện trong hệ thống
GMDSS:
- Báo động cấp cứu (Distress Alert): là việc phát đi báo động cấp cứu
của tàu trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đài thông tin duyên hải
(TTDH), thông báo cho các tàu khác hoặc báo cho trung tâm phối hợp
tìm kiếm cứu nạn về một tình huống khẩn cấp của tàu như là đâm va,
cháy nổ, mắc cạn, thủng mà sự việc đã xảy ra cần được cứu giúp từ các

phương tiện khác. Tín hiệu cấp cứu từ tàu vào bờ được phát trên kênh
70 VHF, tần số 2187,5 KHz (DSC) trên máy MF/HF-DSC hoặc phát
bằng thiết bị INMARSAT và phao EPIRB-406 MHz. Việc phát thông
tin cấp cứu thoại bắt đầu bằng việc gọi MAYDAY 3 lần…. Các bản tin
cấp cứu này được ưu tiên cao nhất và không tính cước trong mọi trường
hợp, ngoài việc phát trên kênh 70 VHF (DSC) và tần số 2187,5 KHz
(DSC) ta còn có thể phát thoại trên kênh 16 VHF, tần số 2182 KHz
(Tel) trên MF/HF-DSC.
- Báo động khẩn cấp (Urgency Alert): là việc phát đi bức điện thông
báo về tình trạng nguy hiểm đang có nguy cơ đe dọa đến an toàn của
tàu và yêu cầu sự trợ giúp từ các tàu xung quanh cũng như đài TTDH.
Thông tin khẩn cấp được sử dụng trong các trường hợp như tàu yêu cầu
trợ giúp về y tế, về kỹ thuật hàng hải, về mất khả năng điều động và bị
trôi dạt, bị cướp biển và các tình huống nguy hiểm khác có nguy cơ đe
dọa tới hoạt động an toàn của tàu. Để phát thông tin khẩn cấp ta tiến
hành phát PANPAN 3 lần thoại trên kênh 16 hoặc 70 VHF.
- Thông tin an toàn (Safety Information): là các thông tin liên quan
tới an toàn hàng hải như cảnh báo hàng hải, thông báo khí tượng thủy
văn, thông báo bão, thông tin tìm kiếm cứu nạn và các thông tin tương
tự được phát đi từ đài bờ TTDH và các đài tàu nhằm cung cấp các bản
tin an toàn và hướng dẫn tàu bè hàng hải an toàn. Các bản tin an toàn
được thực hiện bằng phương thức thoại (Tel) bắt đầu bằng thuật ngữ
SECURITE 3 lần.
- Thông tin thường: đây là các thông tin thông thường hàng ngày
được thực hiện trao đổi giữa các tàu, giữa tàu với bờ, giữa bờ với tàu,

14


kể các thông tin được nối với mạng công cộng mặt đất. Thông tin này

có thể được phát và thu nhờ các thiết bị thu phát trên tàu như: VHF,
MF/HF, bằng INMARSAT với các tiện ích thoại, Telex, Fax, Data,
Email, Internet, dịch vụ gọi nhóm tăng cường EGC.
2.2 Thực trạng cơ sở vật chất phòng thực hành.
Các trang thiết bị phục vụ cho quá trình thực hành còn bị hạn chế về số lượng
và chưa cập nhật đầy đủ các thiết bị mới nhất hiện nay. Một số thiết bị quá cũ
không thực hành được.
Số lượng sinh viên cho mỗi phòng thực hành còn nhiều làm ảnh hưởng đến
quá trình thực hành và thời gian được thực hành của mỗi sinh viên.
Cơ sở vật chất chưa đầy đủ, một số phòng có hệ thống máy chiếu bên cạnh đó
một số phòng vẫn chưa có.
2.3 Quy trình sử dụng hệ thống GMDSS
2.3.1 Hoạt động của hệ thống GMDSS theo sơ đồ

Khi tàu bị nạn, ta cho các thiết bị thông tin trên tàu (VHF, MF/HF,
INMARSAT) phát tín hiệu cấp cứu tùy thuộc vào các cự ly thông tin khác
nhau, đồng thời cho hai thiết bị EPIRB-406 (Mhz) và SART (9 Ghz) hoạt
động phát tín hiệu tàu bị nạn. Trạm mặt đất MCC-Mission Control Center
(Trung tâm điều phối thông tin tìm kiếu cứu nạn) sẽ nhận tính hiệu rồi phát

15


chuyển tiếp cho các trạm RCC-Rescue Co-ordination Center (Trung tâm điều
phối cứu nạn khu vực) để chỉ đạo các đội tìm kiếm tại hiện trường tàu bị nạn.
Ngoài ra hệ thống còn được trang bị các hệ thống các đài duyên hải nhằm
cung cấp các bản tin liên quan tới an toàn và an ninh hàng hải cho tàu, máy
thu trên tàu tự động thu nhận các bản tin an toàn và cảnh báo hàng hải cho tàu
trên biển. Việc thu các bản tin trên và việc thực hiện tìm kiếm cứu nạn được
triển khai bằng hai phương thức thông tin như sau:

-

Sử dụng phương thức thông tin vệ tinh: Khi tàu bị nạn ta phát tín

hiệu cấp cứu vào bờ thông qua thiết bị INMARSAT trên tàu, đồng thời
cho phao EPIRB-406 MHz phát tín hiệu tàu bị nạn lên vệ tinh. Khi đó
trung tâm điều khiển của hai hệ thống vệ tinh INMARSAT và CospasSarsat nhận được tín hiệu tàu bị nạn sẽ phát chuyển tiếp tín hiệu này về
MCC rồi chuyển đến các RCC phù hợp để tìm kiếm cứu nạn cho tàu,
đồng thời phát các bản tin cấp cứu chuyển tiếp cho các đài tàu hoạt
động ở khu vực có tàu bị nạn để tăng cường cảnh giới, theo dõi và cứu
giúp tàu bị nạn.
-

Sử dụng phương thức thông tin mặt đất: song song với việc sử

dụng phương thức thông tin vệ tinh ta sử dụng các thiết bị thông tin cự
ly ngắn như VHF, MF/HF với chức năng DSC phát tín hiệu cấp cứu
vào bờ và sử dụng tiếp thiết bị SART (9 GHz) hoặc AIS-SART phát
kèm để hỗ trợ công tác tìm kiếm hiện trường. Khi đó các đài bờ TTDH
và các đài tàu hoạt động gần đó sẽ nhận được thông tin cấp cứu của tàu
bị nạn.
Như vậy trong khoảng thời gian rất ngắn, không chậm trễ, một hệ
thống liên lạc toàn cầu, hoặc ít nhất là trong một khu vực nhất định đã được
kết nối thông tin. Các trung tâm tìm kiếm cứu nạn nhận tín hiệu cấp cứu và
triển khai ngay công việc tìm kiếm cứu nạn bằng cách gửi đi lập tức các tàu

16


dịch vụ SAR ra hiện trường tai nạn. Trong các tín hiệu cấp cứu từ tàu hoặc

EPIRB (sau khi được sử lý) đều có thông báo vị trí tàu bị nạn, còn các thiết bị
SART phát các tín hiệu nhận dạng giúp tàu dịch vụ SAR, các tàu lân cận tiếp
cận nhanh chóng tàu bị nạn và tiến hành cấp cứu.
Ngoài ra hệ thống còn cung cấp các bản tin an toàn và cảnh báo hàng
hải cho tàu thông qua thiết bị thu NAVTEX, dịch vụ EGC qua INMARSATC, kỹ thuật gọi chọn số DSC qua thiết bị NBDP, VHF-DSC và MF/HF-DSC.
2.3.2 Khai thác hệ thống.
2.3.2.1 Quy trình xử lý chung.
Khi tàu bị sự cố, tùy cự ly và tính chất bị nạn mà ta sử dụng một số hay
tất cả (nếu có thể) những thiết bị trên tàu để phát tín hiệu cấp cứu.
Hành động của tàu khi nhận được tính hiệu cấp cứu:
- Chuyển máy về kênh thông tin thích hợp lắng nghe.
- Luôn sẵn sàng hỗ trợ việc tìm kiếm.
- Phát thông báo cứu nạn nếu cần thiết.
- Phải trả lời tàu bị nạn.
- Phát loan báo tàu bị nạn trên diện rộng.
- Tổ chức, phối hợp tìm kiếm cứu nạn.
2.3.2.2 Quy trình xử lý khi nhận được tín hiệu báo động cấp cứu.
a. Thu nhận, xử lý báo động cấp cứu qua các thiết bị VHF-DSC, MF/HFDSC.
DSC-Digital Selective Calling là một phương thức kết nối thông tin có
độ chính xác và an toàn cao. Đây là kỹ thuật gọi chọn số và là một phần công
nghệ quan trọng của hệ thống thông tin cấp cứu an toàn hàng hải toàn cầu
(GMDSS) trên các dải sóng MF, HF và VHF. Các thiết bị thu phát
VHF/MF/HF sử dụng chức năng DSC được dùng để tàu phát tín hiệu cấp cứu
tới bờ cũng như bờ phát xác nhận điện cấp cứu tới tàu.

17


Khi một con tàu bị nạn, khai thác viên vô tuyến điện (VTĐ) trên tàu
gửi các thông tin ngắn gọn về tình trạng của tàu theo mẫu điện sẵn có trên

máy thông tin VHF/MF/HF. Nội dung của bức điện cấp cứu phát đi gồm các
thông tin tên tàu gọi cấp cứu, số nhận dạng (MMSI), vị trí, thời gian bị nạn,
tính chất bị nạn và phương thức (kênh) liên lạc tiếp theo… Khi gửi điện cấp
cứu qua phương thức DSC, tàu có thể lựa chọn gửi điện tới một đài TTDH,
hoặc tới một nhóm đài TTDH, hoặc tới tất cả các đài TTDH trong một khu
vực địa lý, hoặc cho tất cả các tàu, cho đích danh một tàu nằm trong vùng phủ
sóng của thiết bị DSC. Trong trường hợp khẩn cấp mà phải rời tàu ngay,
không còn thời gian để soạn và gửi thông tin cấp cứu, khai thác viên có thể ấn
và giữ nút cấp cứu Distress màu đỏ trên các thiết bị trong khoảng 4 giây trở
lên để gửi những thông tin cơ bản của tàu cho đài TTDH và các đài tàu. Thời
gian phát mỗi bức điện DSC từ tàu đến tàu và đến đài TTDH mất khoảng 6
giây trở lên.
Bức điện DSC mà đài TTDH cũng như các đài tàu thu nhận được là
một bức điện ngắn (Telex) tương tự như tin nhắn SMS trên điện thoại di
động. Trường hợp là điện cấp cứu hoặc khẩn cấp, chuông báo hiệu sẽ reo liên
tục tại các thiết bị thu tương ứng cho tới khi khai thác viên tắt chuông và đọc
bức điện. Các thông tin về tàu bị nạn như tên tàu, số nhận dạng (MMSI), vị trí
tàu, tính chất tai nạn và yêu cầu trợ giúp của tàu ngay lập tức được đài TTDH
chuyển tới các cơ quan chức năng về tìm kiếm cứu nạn để phối hợp thực hiện
công tác cứu hộ cứu nạn cho tàu. Đồng thời các tàu khi nhận được tín hiệu
báo động này sẽ tăng cường cảnh giới để sẵn sàng trợ giúp tàu bị nạn trong
điều kiện có thể.
Ghi chú: các tần số Quốc tế DSC đài TTDH trực canh là: 2187,5 KHz,
4207,5 KHz, 6312 KHz, 8414,5 KHz, 12577 KHz, 16804 KHz, kênh 70
VHF.

18


b. Thực hiện chức năng thoại trên kênh 16 và kênh 70 VHF.

Khi phát đi bức điện cấp cứu bằng Telex tới các đài TTDH và tới các
đài tàu, tàu phát tín hiệu cấp cứu sẽ sử dụng kênh 70 VHF (tần số 156,525
KHz) để phát tín hiệu cấp cứu “May Day” hoặc khẩn cấp “Pan Pan” bằng
thông tin thoại, đồng thời cũng sẽ tiến hành trực canh cấp cứu. Nội dung của
tín hiệu cấp cứu thoại cũng giống như phát bức điện Telex bao gồm thông tin
về tên tàu, số nhận dạng (MMSI), vị trí tàu, tính chất tai nạn và yêu cầu trợ
giúp. Đồng thời các đài TTDH và các đài tàu khi nhận được bức điện đó cũng
sẽ tiến hành trực canh trên kênh 70 VHF theo quy định.
Trên thiết bị VHF sử dụng kênh 16 (tần số 156,8 KHz) làm kênh trực
canh chung đồng thời chúng ta cũng dùng cho thông tin cấp cứu khẩn cấp.
Cũng giống như kênh 70, việc sử dụng chức năng thoại trên kênh 16 ở cự ly
ngắn (25-30 hải lý) trong dải sóng mặt đất vừa đảm bảo yếu tố kết nối thông
tin đơn giản vừa đem lại hiệu quả cao. Chính vì vậy, theo quy định của hệ
thống GMDSS thiết bị vô tuyến thoại VHF bắt buộc phải trang bị trên tàu.
c. Thu nhận xử lý báo động cấp cứu qua các thiết bị INMARSAT.
Trên tàu và trên các đài TTDH được trang bị hệ thống các thiết bị
INMARSAT để liên lạc thông qua hệ thống vệ tinh INMARSAT. Hệ thống
các đài TTDH sẽ thu nhận và xử lý báo động cấp cứu phát đi từ các thiết bị
như INMARSAT-B, C … Hệ thống INMARSAT được thiết kế một kênh
thông tin vệ tinh ưu tiên riêng trong các trường hợp cấp cứu, khẩn cấp. Mỗi
thiết bị INMARSAT-B, C đều có khả năng tạo một bức điện yêu cầu với mức
ưu tiên cấp cứu với cách thức khá đơn giản cho người sử dụng. Chỉ cần nhấn
nút Distress Button được thiết kế sẵn trên thiết bị, khai thác viên trên tàu có
thể chuyển bức điện cấp cứu tới đài thông tin vệ tinh INMARSAT (Đài LES)
đã được chọn sẵn trong máy. Đồng thời khai thác viên trên tàu cũng có thể
phát bức điện cấp cứu thông qua việc soạn nội dung bức điện và gửi vào bờ

19



qua đài LES, đài LES sẽ phát trả lời tàu bị nạn và gửi tín hiệu cấp cứu nhận
được tới trung tâm tìm kiếm cứu nạn.
Đặc tính nổi bật của phương thức cấp cứu từ thiết bị INMARSAT là
ngay sau khi gửi đi điện cấp cứu, tàu bị nạn và đài LES có thể thiết lập ngay
liên lạc hai chiều với nhau bằng các phương thức thoại hoặc Telex. Với chất
lượng thông tin cao, ổn định, tầm phủ sóng rộng khắp toàn cầu (loại trừ hai
vùng cực cso vĩ độ > 70 độ N, S), việc trang bị các thiết bị INMARSAT theo
GMDSS được quy định bắt buộc đối với các tàu hàng và tàu khách hàng hải
trong nước và quốc tế.
d. Thu nhận, xử lý báo động cấp cứu từ thiết bị phát tín hiệu cấp cứu
khẩn cấp qua hệ thống vệ tinh Cospas-Sarsat.
Thiết bị phát tín hiệu cấp cứu qua hệ thống vệ tinh Cospas-Sarsat gồm
3 loại:
- Thiết bị phát tín hiệu cấp cứu ELT (Emergency Locator Transmitter):
dùng trong nghành hàng không.
- Thiết bị phát tín hiệu cấp cứu EPIRB (Emergency Position Indicating
Radio Beacon): dùng trong nghành hàng hải.
- Thiết bị phát tín hiệu cấp cứu PLB (Personal Locator Beacon): dùng
trên đất liền.
Đối với tàu biển theo quy định của hệ thống GMDSS, mỗi tàu đều phải
được trang bị EPIRB dùng cho mục đích cứu nạn trong trường hợp khẩn cấp.
Thiết bị này hoạt động theo 2 cơ chế phát tín hiệu: Tự động và thủ công (bằng
tay).
- Ở chế độ phát tín hiệu cấp cứu tự động: Khi tàu chìm xuống độ sâu
nhất định, dưới áp lực của nước, khóa của bộ nhả thủy tĩnh giữ EPIRB
được bật tung ra, làm thiết bị này được giải phóng ra giá đỡ và nổi lên trên

20



mặt biển. Nước biển lúc này sẽ làm dây dẫn điện ngắn mạch phao, làm
phao tự kích hoạt, tự động phát tín hiệu cấp cứu lên vệ tinh.
- Ở chế độ phát tín hiệu cấp cứu thủ công: trong các trường hợp cấp cứu,
khẩn cấp, người bị nạn có thể chủ động kích hoạt thiết bị phát tín hiệu cấp
cứu bằng tay, lúc này chỉ việc chuyển công tắc chức năng sang vị trí ON
để phao phát tín hiệu tàu bị nạn lên vệ tinh.
Khi các thiết bị trên phát tín hiệu cấp cứu và được các vệ tinh trong hệ
thống COSPAS-SARSAT thu nhận và xử lý tín hiệu. Các tín hiệu đó được
chuyển tới đài thu nhận và xử lý tín hiệu vệ tinh (LUT), ở đó thông tin thu
nhận sẽ được xử lý để xác định vị trí bị nạn cùng các thông tin liên quan đến
người và phương tiện bị nạn. Các thông tin này sẽ cùng được gửi tới MCC và
RCC hoặc tới một tổ chức tìm kiếm và cứu nạn thích hợp xác định rõ tính
chất bị nạn, đưa ra phương án hành động phù hợp.

21


-

CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận
Bằng các phương pháp sử dụng linh động các phần mềm tiện ích đa
dụng luận văn đã thu được một số kết quả như sau:
Đưa ra được một số bất cập trong quá trình đào tạo hiện nay, những
yêu cầu và thách thức của xã hội và những thuận lợi và khó khăn mà các loại
hình học chế mắc phải.
Chỉ rõ thực trạng của phòng thực hành hiện nay và từ đó đưa ra tính
cấp thiết để xây dựng một bài giảng chuyên môn có ứng dụng thực tế cao đáp
ứng nhu cầu đổi mới cho cả việc dạy và học.

Nêu rõ yêu cầu nhiệm vụ cụ thể cho từng thiết bị và một số chú ý khi
sử dụng.
Phương pháp sử dụng công cụ hiệu quả để thiết kế một bài giảng điện
tử đơn giản, sinh động giúp người xem dễ hiểu, không nhàm chán.
Kiến nghị
Với mục đích tăng cường chất lượng dạy và học, phù hợp với đường lối chính
sách đổi mới cải cách giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế, đào tạo
đội ngũ thuyền viên có chuyên môn cao chất lượng đảm bảo cạnh tranh thị
trường trong nước, trong khu vực và trên thế giới, tôi xin kiến nghị một số
vấn đề sau:
Để lớp học có một buổi học hiệu quả thì Nhà trường nên bố trí một lớp
học lý thuyết khoảng từ 20 – 30 sinh viên và thực hành khoảng 12-15 sinh
viên. Như vậy sinh viên mới có cơ hội trao đổi thảo luận với giáo viên và có
thời gian trình bày quan điểm ý kiến của mình.
Nên tăng cường cơ sở vật chất sửa chữa cho các phòng thực hành.
Thường xuyên bảo hành bảo dưỡng các máy móc, thiết bị. Sửa chữa, khắc

22


phục kịp thời các hư hỏng để có thể đưa thiết bị vào khai thác một cách nhanh
nhất.
Bố trí nhiều phòng thực hành và liên tục cập nhật các thiết bị mới, hiện
đại nhằm hướng dẫn người học tiếp cận công nghệ mới phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh thực tế đòi hỏi.
Nên trang bị máy tính, máy chiếu trên các phòng học nhằm làm cho tiết
học không chỉ có phấn và bảng dẫn tới nhàm chán cho người học.
Để sinh viên sau khi ra trường đáp ứng được yêu cầu nhà tuyển dụng
thì Nhà trường nên tăng cường các giờ thực hành và các tiết học ngoài thực
tế, liên hệ và hỗ trợ sinh viên tham gia các công tác thực tế trên tàu.

Có chính sách hỗ trợ và khuyến khích cán bộ, giảng viên tìm hiểu cập
nhật trang thiết bị mới trên tàu và đưa vào giảng dạy, hướng dẫn cho sinh viên
khai thác sử dụng nhằm phù hợp tình hình hiện tại.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu của IMO ®
R1
Sổ tay-GMDSS handbook
R2
Sổ tay về hoạt động tìm kiếm-cứu nạn-MERSAR Manual
R3
Mẫu đàm thoại chuẩn hàng hải của IMO.
R4
Sơ đồ hướng dẫn hành động cho các phương tiện trên bờ với hệ
thống GMDSS
R5
Công ước STCW78, sửa đổi 2010
R6
Nghị quyết-Resolution A.814 (19) của IMO
R7
Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển-SOLAS74 kèm
theo các sửa đổi bổ sung.
Tài liệu tham khảo chính
T1 Sổ tay sử dụng trong dịch vụ lưu động hàng hải và lưu động hàng hải
qua vệ tinh-Manual for Maritime mobile communications and
Maritime mobile satellite service
T2 .1 Danh bạ đài duyên hải-ITU List of Coast stations

.2 Danh bạ các đài làm nghiệp vụ xác định và nghiệp vụ đặc biệt-ITU
List of Radio determination and Special Service Stations
.3 Danh bạ hô hiệu của ITU-ITU Lists of call Signs Numerical
identities
.4 Danh bạ các đài tàu-ITU Lists of Ship Stations
T3 .1 Sổ tay thông tin Inmarsat -Inmarsat Maritime Communications
Handbook
.2 Tài liệu và bản vẽ thiết kế lắp đặt Inmarsat -B, -C
.3 Sổ tay sử dụng Inmarsat-Inmarsat -C User Manual
.4 Sổ tay sử dụng hệ thống phát báo-Inmarsat safety NET User’s
Handbook

Tài liệu tham khảo thêm
B1 P.C. Smith và J.J Seaton, GMDSS for Navigators. (Rushden,
Butterworth-Heinemann, 1994) (ISBN 0-7506-2177-X)

24


B2 I. Waugh, The Maritime Radio and Satellite communications Manual.
(Shrewsbury, Waterline, 1994) (ISBN1-85310-471-X)
B3 G.D Lees, Handbook for Marine Radio Communication. 2nd edition.
(London,Loyd’s of London Press, 1996) (ISBN 1-85978-041-5).

25


×