Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Xây dựng chương trình hỗ trợ dạy học mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 60 trang )

MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, xu hướng đổi mới hoạt động và giáo dục trẻ đã
được các cấp, ngành chức năng và được các bậc phụ huynh quan tâm rất nhiều,
với mục đích giúp trẻ phát triển tư duy chặt chẽ, đồng thời tạo cơ hội cho sự phát
triển tư duy tích cực, linh hoạt, nhạy bén, là cơ sở cho việc hình thành các ý
tưởng phong phú và độc đáo của trẻ sau này. Cùng với xu thế phát triển của công
nghệ thông tin trong thời đại mới, thời đại của công nghệ điện tử em có ý tưởng
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác dạy và học ở Mầm non nhằm giúp
trẻ làm quen dần và dần phát triển toàn diện các kĩ năng học một cách hứng thú
và tích cực. Ngoài ra chương trình còn hỗ trợ đắc lực cho phụ huynh và cô giáo
trong việc giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Nội dung báo cáo gồm ba phần:
Quá trình làm bài em còn nhiều khiếm khuyết, rất mong được sự hướng
dẫn chỉ bảo tận tình của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2007


CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC MẦM NON
Nội dung trình bày:
 Một số cơ sở tâm - sinh lý của trẻ em ở lứa tuổi mầm non
 Một số vấn đề về đổi mới mục tiêu chăm sóc - giáo dục trẻ lứa
tuổi mầm non
 So sánh các phương pháp phù hợp và không phù hợp trong
chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non

1.1 Một số cơ sở tâm - sinh lý của trẻ em ở lứa tuổi mầm non
Dưới đây là một số cơ sở tâm lí- sinh lí của trẻ em ở lứa tuổi Mầm non,
cần đặc biệt được chú ý và xem xét khi xác định những đổi mới nội dung và
phương pháp giáo dục mầm non.


1.1.1 Về phát triển cơ thể của trẻ
Trong lứa tuổi Mầm non, sự phát triển cơ thể của trẻ diễn ra với một tốc độ
nhanh. Cần phải nhấn mạnh đến một số điểm sau:
Một là, ngày nay có sự tăng tốc trong sự phát triển của trẻ em, đó là kết
luận của nhiều công trình nghiên cứu khoa học về trẻ em. Hiện tượng tăng tốc về
chiều cao và cân nặng được thể hiện rõ nét ở lứa tuổi mẫu giáo như: cân nặng của
trẻ em 6 tuổi đo vào năm 1970 chỉ bằng cân nặng và chiều cao của trẻ 5 đến 5
tuổi rưỡi đo vào năm 1996 (theo kết quả nghiên cứu “đặc điểm phát triển thể lực
của trẻ em dưới 6 tuổi- 1996” PTS Hàn Kim Chi). Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng
hiện tượng này diễn ra không đều so với các vùng trong cả nước, và còn thấp so
với thế giới.
Hai là, cơ thể của trẻ (nhất là trẻ dưới 3 tuổi) rất non nớt, nhạy cảm với các
tác động của thời tiết, dịch bệnh, sức đề kháng còn yếu. Trẻ hay mắc các bệnh
thường gặp, các bệnh truyền nhiễm như ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt, và một
số bệnh về hô hấp, đường ruột…. điều này có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng về
cơ thể và sự phát triển trí tuệ của trẻ.


Ba là, trẻ càng lớn thì khả năng vận động của trẻ càng khéo léo và thành
thạo hơn, độc lập hợn. Ở lứa tuổi này trẻ cần hình thành cả loại vận động thô và
loại vận động tinh khéo. Việc hình thành những kĩ năng này phụ thuộc rất nhiều
vào quá trình rèn luyện của trẻ.
Như vậy khi thiết kế chương trình chăm sóc- giáo dục thể lực cho trẻ, cần
chú ý hơn đến nội dung bảo vệ sức khỏe, phòng chống suy dinh dưỡng, việc tăng
cường rèn luyện thể lực cho trẻ ở lứa tuổi này phát triển.
1.1.2 Về phát triển tâm lí
* Đặc điểm ở tuổi nhà trẻ:
Từ khi lọt lòng đến12 tháng trẻ có những nhu cầu cơ bản cần được thỏa
mãn để phát triển. Đó là nhu cầu dinh dưỡng, nhu cầu gắn bó, nhu cầu vận động,
nhu cầu tiếp nhận những ấn tượng từ thế giới xung quanh, và nhu cầu giao tiếp

với người lớn xuất hiện sau cùng.
Trẻ ở giai đoạn này phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn, do đó giao tiếp với
người lớn là nhu cầu bức thiết của trẻ. Người lớn là cầu nối giữa trẻ và thế giới
đồ vật. Hoạt động chủ đạo trong giai đoạn này là giao tiếp xúc cảm trực tiếp với
người. Trẻ muốn người lớn chơi với chúng, giúp chúng tiếp xúc với đồ vật để
tiếp nhận những ấn tượng của thế giới xung quanh và phát triển. Trong thời đại
công nghiệp nhu cầu gắn bó với người than, với cha mẹ đối với trẻ bị hạn chế.
Chăm sóc- giáo dục trẻ ở lứa tuổi này phải chú ý đến đặc điểm đó nhằm thỏa
mãn nhu cầu của chúng.
Trong quá trình giao tiếp với người lớn những tiền đề đầu tiên của ngôn
ngữ xuất hiện, trẻ bắt đầu hiểu được lời nói của người lớn và phát âm được một
vài từ đầu tiên. Vấn đề tập nói và luyện tập bộ máy phát âm của trẻ trong giai
đoạn này là hết sức quan trọng.
Ở lứa tuổi này, cùng với quá trình cầm, nắm và thao tác bằng tay với đồ
vật, trẻ nhận biết được các thuộc tính khác nhau của đồ vật, đồ chơi; tiếp theo là
thao tác một mình với đồ vật. Qua giao tiếp trực tiếp với người lớn. Trẻ bắt đầu


nắm được những hành vi của con người, tạo ra được những tiền đề cần thiết để
hình thành chức năng tâm lí của trẻ.
Trẻ từ 12 đến 36 tháng tuổi: hoạt động chủ đạo của giai đoạn này là hoạt
động với đồ vật. Nhờ hoạt động với đồ vật trẻ khám phá ra các thuộc tính, nắm
bắt được chức năng và phương thức sử dụng đồ vật theo kiểu người lớn. Đây là
một bước phát triển mới và là nội dung quan trọng trong tiến trình làm người của
trẻ. Đứa trẻ như “ một nhà hoạt động thực tiễn ” hay “ một nhà thực nghiệm ”.
“Sự kiện” biết đi có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lí trẻ. Trẻ đã
bước sang thời kỳ tiếp súc với thế giới bên ngoài một cách độc lập và tự do hơn.
Hình thức giao tiếp với người lớn đã thay đổi. Thế giới đồ vật đã trở thành đối
tượng nhận thức của trẻ, nhu cầu nhận thức tò mò, hàm hiểu biết được phát triển
hết sức mạnh mẽ.

Hứng thú hoạt động với đồ vật ngày càng tăng, kích thích trẻ hướng tới
người lớn để nhờ họ giúp đỡ. Từ đó nảy sinh nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ
mạnh nhất. Trẻ học nói nhanh, vốn từ tăng nhanh. Trẻ đã nắm được ngôn ngữ
cuat tiếng mẹ đẻ, tuy nhiên phát âm còn chưa chính xác ở phụ âm đầu, phụ âm
cuối, nguyên âm; thanh điệu chưa được định vị hoàn toàn, còn chuyển đổi và
thay thế cho nhau. Vốn từ tăng nhanh nên trẻ dễ bị tật trong ngôn ngữ nói. Ở giai
đoạn mẫu giáo, nếu việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ không được tốt, trẻ sẽ khó
sửa và ảnh hưởng không có lợi đến sự phát triển tâm lí và tư duy của trẻ ở những
giai đoạn sau này.
Cuối tuổi nhà trẻ, “cái tôi” đã bắt đầu xuất hiện. Đó là dấu hiệu đầu tiên
của sự khởi đầu hình thành nhân cách. Trẻ lên 3 tuổi trở nên độc lập, muốn tự
làm lấy mọi việc, muốn có thẩm quyền với mọi thứ xung quanh; trẻ hiểu được
một cách sơ đẳng những hành vi đạo đức trong xã hội.
* Lứa tuổi mẫu giáo (3-6 tuổi):
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tâm lí của
trẻ, tạo ra một sự biến đổi về chất trong cấu trúc tâm lí.


Trong giai đoạn này một số phẩm chất tâm lí như tính tự lập, tính đồng
cảm, tính hợp tác, khả năng tôn trọng những quy định chung đã có điều kiện để
phát triển. Nhu cầu giao tiếp của trẻ đối với con người, với trẻ cùng lứa tuổi, với
môi trường xung quanh trở thành nhu cầu mạnh mẽ đối với trẻ.
Trẻ mẫu giáo đã có nguyện vọng muốn được tự lực. Tính độc lập là phẩm
chất quan trọng của nhân cách cần được hình thành và phát triển ngay chính từ
giai đoạn này. Để phát triển tính độc lập, cần tạo điều kiện để trẻ hành động trong
hoàn cảnh quen thuộc, biết tự mình sử dụng những cách thức quen thuộc vào
những tình huống mới nhưng không lạ; các quy tắc mà trẻ nắm được có tính chất
khái quát trở thành chuẩn mực quy định hành vi của nó trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Vấn đề phát triển tính độc lập cho trẻ trong giai đoạn này là mục tiêu mà
giáo dục Mầm non ở nhiều nước đang được hết sức quan tâm chú ý.

Hơn nữa ở lứa tuổi này trẻ vẫn đang trong thời kì phát cảm ngôn ngữ, trẻ
đã biết phát âm đúng hơn. Vốn từ tăng mạnh và khá phong phú không những về
danh từ mà cả về động từ, tính từ, danh từ và liên từ. Đồng thời từ gợi cảm, từ
ghép, thành ngữ, các câu nói có nhiều thành phần được phát triển mạnh. Giai
đoạn này trẻ cũng hoàn thiện dần về mặt phát âm. Phạm vi nghĩa trong vốn từ
của trẻ ngày càng mở rộng đa dạng, phong phú theo lứa tuổi, phụ thuộc vào điều
kiện sống và môi trường tiếp xúc của trẻ. Trẻ cũng nói mạch lạc hơn, vốn từ
phong phú hơn. Cần giáo dục trẻ, kích thích trẻ phát huy sử dụng vốn từ tích cực;
hình thành kĩ năng giao tiếp bằng lời nói; rèn luyện phát âm, nói đúng ngữ pháp,
giúp trẻ biết sử dụng tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày một cách chủ động.
Ở lứa tuổi này tư duy trẻ có một bước ngoặt cơ bản: đó là bước chuyển tư
duy từ bình iện bên ngoài vào bình diện bên trong, thực chất là chuyển những
hành động định hướng bên ngoài thành những hành động định hướng bên trong
theo cơ chế nhập tâm, bên cạnh kiểu tư duy trực quan hành động xuất hiện kiểu
tư duy trực quan hình tượng. Kiểu tư duy ngỳ được phát triển và chiếm ưu thế
trong suốt độ tuổi mẫu giáo. Tuy nhiên các biểu tượng và hình tượng trong đầu
trẻ vẫn còn gắn liền với hành động và còn bị chi phối mạnh mẽ bởi cảm xúc. Để
kích thích hoạt động nhận thức tích cực, cần thiết cho trẻ vừa tiếp xúc va chạm,


vừa nghe, quan sát hiện tượng sự vật một cách đa dạng và phong phú. Tăng
cường thu nhận ấn tượng từ bên ngoài với các giác quan khác nhau, làm cho thế
giới biểu tượng của trẻ ngày càng trở nên chính xác hơn. Trên cơ sở đó làm xuất
hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ, kiểu tư duy này đóng vai trò trung gian để phát
triển tư duy lên một bước mới, nảy sinh yếu tố của tư duy logic. Đó là điều kiện
cần thiết giúp cho trẻ vào học ở lớp Một thuận lợi.
Ngày nay, với sự biến đổi và đổi mới không ngừng của hiện thực khách
quan, nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng trí tuệ của trẻ em được phát
triển sớm hơn. Khuynh hướng, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, thẩm mĩ của trẻ ngày
càng mở rộng trở nên đa dạng phong phú và phát triển sớm hơn; trẻ biết nhiều

điều hơn, khôn hơn, nói năng mạch lạc hơn.
Những đặc điểm tâm lí của trẻ em từ 0 đến 6 tuổi và quy luật phát triển của
nó là một trong các cơ sở cho việc đổi mới giáo dục mầm non.
1.2 Một số vấn đề về đổi mới mục tiêu chăm sóc - giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non
Chúng ta dạy gì cho trẻ và dạy như thế nào bị chi phối bởi mục đích của
chương trình, mục tiêu đào tạo và các giá trị. Do vậy đổi mới nội dung và
phương pháp chăm sóc- giáo dục phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục Mầm non.
Cho đến nay, bậc học Mầm non nước ta vẫn thực hiện mục tiêu đào tạo
được qui định trong quyết định 55/QĐ do Bộ trưởng Bộ giáo dục ban hành từ
ngày 3-2-1990 về “mục tiêu, kế hoạch đào tạo nhà trẻ, mẫu giáo”. Mục tiêu này
được xây dựng đáp ứng yêu cầu của xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ 20,
trong đó nhấn mạnh việc phát triển toàn diện trẻ nhằm hình thành những cơ sở
ban đầu của nhân cách con người mới XHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, khi cách mạng Việt Nam bước sang thời kì mói, thời kì công
nghiệp hóa- hiện đại hóa với xu thế hòa nhập, nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc
Việt Nam. Giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng cần có những bổ
sung và làm rõ mục tiêu giáo dục đã đề ra- tức là có những sự đổi mới về mục
tiêu giáo dục.


Những quan điểm chung về đổi mới mục tiêu chăm sóc- giáo dục trẻ ở lứa
tuổi mầm non phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo của nền giáo dục
Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay và là mô hình dự kiến vươn tới trong
tương lai. Mục tiêu chăm sóc- giáo dục phải hướng tới xã hội hóa đứa trẻ, hình
thành một số kĩ năng cần thiết để trẻ tham gia thuận lợi vào cuộc sống của bản
thân, cộng đồng xã hội. Mục tiêu ở giai đoạn này phải là điều kiện thuận lơi để
thực hiện mục tiêu ở giai đoạn sau.
Mục tiêu chăm sóc- giáo dục mầm non phải hướng đến việc đáp ứng xu
hướng và phù hợp với đặc điểm phát triển và nhu cầu cơ bản của trẻ trong từng
giai đoạn, mặt chăm sóc và giáo dục được hiểu một cách thống nhất.

Mục tiêu chăm sóc- giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non được làm rõ
theo hướng:
 Nội dung của mục tiêu chăm sóc- giáo dục trẻ cần chứa đựng những
tiêu chí của mục tiêu chăm sóc về sức khỏe và tiêu chí về mục tiêu giáo dục phát
triển (phát triển vận động, tâm lí, xh).
 Mục tiêu giáo dục hướng đến việc hình thành và từng bước hoàn thiện
những chức năng và năng lực chung của con người, trên cơ sở đó hình thành và
phát triển những tiền đề, những nền tảng ban đầu của nhân cách trẻ theo định
hướng con người Việt Nam mới, đáp ứng với yêu cầu của nền văn minh công
nghiệp hiện đại, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào học tiểu học. Mục tiêu được cấu
trúc gồm mục tiêu khái quát chung cho trẻ từ 0-6 tuổi và mục tiêu cụ thể cho nhà
trẻ và trường mẫu giáo.
 Mục tiêu được xây dựng có tính định hướng, vừa mang tính định hướng
vừa mang tính định lượng để giúp cho việc đánh giá sự phát triển của trẻ một
cách dễ dàng, khách quan và khoa học.
Mục tiêu chăm sóc- giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non cần được bổ sung
theo hướng:


 Góp phần đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành các phẩm chất mới của
nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước: chủ động, thích ứng, sáng tạo, hợp tác.
 Như vậy, cần hình thành và phát triển ở trẻ cuối tuổi nhà trẻ một số giá
trị, nét tính cách, phẩm chất ban đầu cần thiết của nhân cách giúp trẻ dễ hòa nhập
vào cuộc sống, vào nhóm, lớp ở trường mẫu giáo sau này như: có ý thức về bản
thân, tự khẳng định theo hướng tích cực, mạnh dạn tự tin từng bước làm chủ bản
thân. Bước đầu biết thực hiện những qui tắc, nếp sống có văn hóa trong sinh
hoạt, tự phục vụ bản thân những việc phù hợp với khả năng của mình.
Mục tiêu chăm sóc- giáo dục mẫu giáo cần phát triển một số giá trị, nét
tính cách, phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi: mạnh dạn, tự tin, tự lực, độc

lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa nhập, dễ chia xẻ, dễ cộng tác, bảo vệ môi
trường sống, hình thành một số giá trị mang tính nhân văn, quốc tế, hình thành
nếp sống văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp thưo những qui tắc, chuẩn mực
phù hợp lứa tuổi, trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống đậm đà
bản sắc dân tộc, tạo điều kiện thuận lơi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị
tốt cho trẻ học tập ở lớp một và các bậc học sau có kết quả.
Từ những quan niệm trên về đổi mới mục tiêu, khi xây dựng các mục tiêu
cụ thể cho từng độ tuổi, từng vùng, miền, cần bổ sung thêm những nội dung phù
hợp với đối tượng trẻ cụ thể, có như vậy mới có thể xây dựng được các chương
trình giáo dục phù hợp với trẻ và thực sự giúp trẻ hình thành những năng lực cần
thiết cho cuộc sống của từng trẻ ở từng địa phương và vùng khác nhau.


CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG
Nội dung trình bày:





Thực tiễn đối với yêu cầu giáo dục
Chiến lược phát triển giáo dục trẻ mầm non
Đổi mới hình thức tổ chức chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non
So sánh các phương pháp phù hợp và không phù hợp trong chương
trình giáo dục trẻ mầm non

2.1 Thực tiễn đối với yêu cầu giáo dục
Bước vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 và chuẩn bị bước vào thế kỷ
21, đất nước ta đang ở trong thời kỳ thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta phát
động từ năm 1986 và bắt đầu thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

do đại hội lần thứ 8 đề ra.
Cuộc sống đang có những biến đổi to lớn, trên rất nhiều mặt. Ở đây chỉ xét
một cách khái quát những yếu tố có ảnh hưởng đến việc đổi mới giáo dục. Để
nhận thức được những đổi mới trong điều kiện mới, cần tìm hiểu những tiền đề
kinh tế - xã hội, những đặc điểm của xã hội tương lai.
Thời đại hiện nay là thời đại mà sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội ở mỗi
nước đòi hỏi từng quốc gia phải vừa hợp tác vừa đấu tranh trong một thế giới hòa
bình. Sự phát triển này mang tính bền vững, tức là phải dựa trên một sẹ hiểu biết
các vấn đề có tính toàn cầu, vừa có tác động đến lợi ích của đất nước mình, vừa
có tác động đến cả cục diện thế giới. Vừa hợp tác đấu tranh, đòi hỏi mỗi quốc gia
nâng cao trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm và bảo tồn, phát triển những đặc
điểm văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Xu thế thị trường hóa cũng đang ảnh hưởng một cách toàn diện cả mặt tích
cực lẫn mặt tiêu cực lên đời sống xã hội và con người. Các vấn đề: thái độ của
con người đối với tự nhiên, đối với con người; sự công bằng xã hội; vấn đề sinh


thái, môi trường, dân số, tệ nạn xã hội, phòng chống các bệnh hiểm nghèo… là
những vấn đề đặt ra ở phạm vi toàn cầu, đòi hỏi con người phải có cách nhìn
nhận mới.
Xu thế cách mạng khoa học công nghệ, thời đại văn minh- thông tin, điện
tử, tin học… dẫn đến sự bùng nổ của kiến thức, khiến tốc độ gia tăng kiến thức
rất lớn (cứ 15- 20 năm một lần, tăng gấp đôi); sự hình thành những xã hội “dựa
trên kiến thức”, trong đó vốn cơ bản là kiến thức. Thế kỷ 21 mở đầu cho một nền
văn minh mới: nền văn minh tin học. Khoa học và công nghệ đã và đang trở
thành những lực lượng có sức mạnh to lớn trong việc hình thành tương lai, trong
đó có con người của tương lai- con người có trí tuệ, phát triển cao, giàu tính sáng
tạo, giàu tính nhân văn, có khả năng thích ứng trong điều kiện xã hội luôn luôn
đổi mới.
Từ đó, giáo dục có nhiệm vụ cốt yếu trong việc bảo đảm cho kiến thức,

cho khoa học và công nghệ trở thành “tài sản” của từng con người, của nhân dân
để phục vụ lợi ích của xã hội, cộng đồng và từng cá nhân. Giáo dục trở thành
chất súc tác cho mọi yếu tố trong sự phát triển của đất nước. Nguồn lực con
người là yếu tố quyết định sự phát triển của sự phát triển kinh tế- xã hội; phát
triển là để phục vụ cho sự phát triển nguồn con người.
Chính vì vậy Đảng ta đã khẳng định rằng cần làm cho giáo dục thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu.
Trong quá trình đổi mới giáo dục vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, để làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, mục đích của
giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nghị quyết
của hội nghị trung ương Đảng lần thứ 2 khóa 8 đã khẳng định rằng: “Lấy giáo
dục- đào tạo và khoa học công nghệ làm yếu tố cơ bản, coi đó là khâu đột phá ”.
Trong thời gian vừa qua, từ khi Đảng ta khởi xướng việc đổi mới toàn
diện, sự nghiệp giáo dục quốc dân ở nước ta đã có những tiến bộ đáng kể. Những
nhân tố mới trong giáo dục đã và đang xuất hiện làm tiền đề cho sự nghiệp phát
triển tiếp theo của giáo dục.


Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của đất nước, gd Việt Nam đang đứng trước
những cơ hội và thử thách to lớn. Một mặt phải khắc phục những yếu kém đang
tồn tại, mặt khác phải đáp ứng những nhu cầu mới của đất nước, giáo dục phải
phục vụ đắc lực cho sự phát triển nhân cách con người, tạo điều kiện cho con
người tạo ra giá trị của mình và giá trị của xã hội.
Giáo dục phải được tiếp tục đổi mới nhằm: nâng cao dân trí, bảo đảm sự
công bằng trong giáo dục, sự bình đẳng trong cơ hội học tập. Hạn chế mặt tiêu
cực, phát huy vai trò và tác dung tích cực của cơ chế thị trường, hội nhập Quốc
tế, phát huy dân chủ trên mọi mặt cuộc sống. Giáo dục phải đảm bảo tạo nên một
hệ thống giáo dục mở; hình thức nhà trường mở; mềm dẻo linh hoạt với mọi hình
thức giáo dục, học tập hiện đại với hình thức tổ chức giáo dục và dạy học. Giáo
dục và đào tạo gắn chặt với nền văn hóa; phát triển trên nền văn hóa, là sản phẩm

của nền văn hóa dân tộc, kết hợp hài hòa với nền văn minh nhân loại trong thời
đại công nghệ thong tin văn minh và trí tuệ. Sản phẩm của quá trình giáo dục
phải tạo nên những con người năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn
đề, có khả năng thích ứng vơi mọi biến đổi trong kinh tế và xã hội, có đạo đức
trong sáng, có lối sống lành mạnh, có đầy đủ sức khỏe để sống và làm việc. Giáo
dục cần được xã hội hóa, đa dạng hóa.
Được như vậy giáo dục và đào tạo mới thực sự trở thành nhân tố phát triển
kinh tế- xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục Mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
ở nước ta.
Mục đích chung của giáo dục Mầm non là phát triển tất cả các khả năng
của trẻ, hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, tạo
điều kiện để trẻ có nhiều cơ may thắng lợi trên con đường học hành cũng như
trong cuộc sống.
Để thực hiện nhiệm vụ là khâu đầu tiên chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào
thế kỷ 21- thời đại của nền văn minh trí tuệ. Giáo dục Mầm non cũng cần có
chuyển biến mới về chất lượng, đổi mới trong sự đổi mới chung của ngành giáo


dục và đào tạo, nhằm khắc phục những mặt tồn tại mà giáo dục Mầm non chưa
đáp ứng kịp theo sự đổi mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xu thế
phấn đấu của ngành học trong những năm tới là: không ngừng nâng cao chất
lượng chăm sóc- giáo dục trẻ phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế- xã
hội trong điều kiện thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể đến
năm 2010 phấn đấu mở rộng quy mô nhà trẻ- trường mẫu giáo ở những nơi có
nhu cầu và điều kiện, tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng chăm sócgiáo dục trẻ tại các trường lớp nhà trẻ, trường mẫu giáo dân lập, quốc lập, tư thục
và nhóm trẻ gia đình nhằm phát triển tốt ở trẻ về thể lực, tình cảm, trí tuệ.
Xuất phát từ đó ngành học Mầm non đã có những chủ trương cho những
năm tới, phấn đấu đạt những mục tiêu:
 Đảm bảo mọi trẻ em trong các loại hình giáo dục Mầm non đệ được

hưởng chương trình chăm sóc- giáo dục được đổi mới cả nội dung và phương
pháp, cung cấp cho trẻ một nền mong phát triển về thể lực, trí tuệ, tình cảm, đạo
đức- xã hội. Trong đó một bộ phận trẻ em được chăm sóc giáo dục trong những
điều kiện tương đương với những khu vực trên thế giới.
 Phấn đấu giảm tỉ lệ trẻ me suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục
Mầm

non
 Phối hợp giữa gia đình và xã hội nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ

em trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ, góp phần giảm thiệt thòi cho số trẻ còn
lại chưa được đến trường.
Tiến tới phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2020: “xây dựng và phát
triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi
dạy trẻ cho các gia đình”.
Bên cạnh đó, giáo dục Mầm non còn có nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ đến
trường tiểu học, góp phần thực hiện luật phổ cập giáo dục tiểu học. Chuẩn bị cho
trẻ đến trường tiểu học là giúp cho trẻ làm quen với cuộc sống mới, môi trường
mới với những mối quan hệ mới. Vấn đề phổ cập tiểu học và sự đổi mới của
chương trình tiểu học đòi hỏi một cách thích hợp. Trên cơ sở đó tạo tiền đề, đặt


nền móng cho sự phát triển nhân cách toàn diện và chuẩn bị tốt cho trẻ về thể
lực, trí tuệ, tình cảm- xã hội, năng lực và thái độ học tập… để trẻ học lớp Một
một cách thuận lợi.
Tóm lại, yêu cầu mới về con người trong cuộc sống hiện đại hóa, công
nghiệp hóa của đất nước cùng với yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non và vị trí
quan trọng của nó trong chiến lược phát triển con người, chiến lược phổ cập tiểu
học là cơ sở khoa học mang tầm vi mô trong việc đổi mới mục tiêu, nội dung
phương pháp chăm sóc- giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non.

2.2 Chiến lược phát triển giáo dục mầm non
Hiện nay hàng năm ở nước ta có khoảng gần 26% số trẻ ở tuổi mầm non
được chăm sóc- giáo dục ở tất cả các loại hình trường: công lập, bán công, tư
thục, dân lập. Tính đến năm 1995, 1996 số trẻ đi mẫu giáo đạt 39,2% số trẻ trong
độ tuổi, riêng trẻ 5 tuổi đạt gần 77%, trong đó có 30 tỉnh thành đã huy động được
80% số trẻ trong độ tuổi ra lớp để chuẩn bị cho trẻ đi học lớp Một.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa 8 về định hướng chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
tiếp tục khẳng định mục tiêu của giáo dục Mầm non đến năm 2000 là: “phát triển
bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi. Bảo đảm hầu
hết trẻ 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn chuẩn bị đi học lớp Một”.
Đồng thời, nghị quyết cũng đã vạch ra mục tiêu đến năm 2020 là: “xây dựng
hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong đọ tuổi. Phổ
biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình ”.
Để thực hiện được những mục tiêu trên trong điều kiện hiện nay, chiến
lược phát triển giáo dục mầm non từ nay đến năm 2020 đã đưa ra quan điểm phát
triển giáo dục mầm non nước ta, trong đó xác định: vi tri của giáo dục mầm non
là đặt nền tảng cho sự phát triển nhân cách thông qua hệ thống giáo dục quốc
dân, tạo tiền đề phỏ cập tiểu học. Tính chất cơ bản của giáo dục mầm non là thực
hiện giáo dục toàn diện: nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe, phát triển trí tuệ, tình
cảm, thái độ, rèn luyện thói quen tốt. Mục tiêu xã hội của giáo dục mầm non


nhằm tạo điều kiện để phát huy hiệu quả của lực lượng lao động hiện đại trong
các lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn hóa xã hội, lực lượng vũ trang, đồng thời tạo
tiền đề để phát triển nguồn nhân lực lao động cho tương lai. Phương thức phát
triển giáo dục Mầm non theo hướng đa dạng hóa lọa hình, thu hút nhiều nguồn
lực: nhà nước, nhân dân, các tổ chức quốc tế. Các giải pháp lớn để thực hiện mục
tiêu là:
 Tiếp tục sắp xếp, củng cố mạng lưới trường lớp mầm non và xây dựng

cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non: đối với khu vực nông thôn cần đảm bảo
mỗi xã có ít nhất một trường mầm non làm nòng cốt cho việc đa dạng hóa các
loại hình giáo dục mầm non ở cơ sở. Mở rộng khả năng huy động trẻ ở thành phố
thị xã, các khu công nghiệp tập trung trọng điểm các cấp từ huyện đến quốc gia.
Củng cố các trường mầm non dân lập, phát triển mạnh mẽ các trường mầm non
tư thục góp phần bổ sung cho thiếu hụt của mạng lưới giáo dục mầm non. Có các
lớp mẫu giáo hoặc các lớp mẫu giáo ghép các độ tuổi. Hiện đại hóa cơ sở vật chất
trường lớp hiện có, bảo đảm diện tích trường và sân chơi đúng qui định của Nhà
nước, khu vệ sinh đúng qui cách, có đủ nước sạch, môi trường cho trẻ phải trong
lành. Trang bị đủ và đồng bộ thiết bị cho dạy và học, đồ chơi cho trẻ.
 Cải tiến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục mầm non.
Thực hiện mục tiêu đổi mới nội dung, phương pháp phù hợp với yêu cầu
mới và phù hợp với từng vùng, từng địa bàn. Bao gồm đổi mới và đa dạng hóa
chương trình, tài liệu chăm sóc- giáo dục trẻ theo hướng gon, cơ bản phát huy
được sáng tạo của giáo viên. Tiếp tục đổi mới phương pháp, kết hợp nhần
nhuyễn giữa học và chơi cho trẻ. Hoàn thiện chương trình phổ biến kiến thức cho
các gia đình thông qua các phương tiện truyền thông.
 Xây dựng đội ngũ giáo viên hiện có, tăng cường đào tạo bổ sung giáo
viên cho các năm tới. Khẩn trương đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên để nâng
cao trình độ đội ngũ giáo viên; cập nhật những kiến thức mới của thế giới, nhằm
thỏa mãn nhu cầu nâng cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ đầu thế kỉ 21. Phấn
đấu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên , có chính sách ưu tiên thỏa đáng đối với giáo
viên mầm non, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa.


Cải thiện trang bị và điều kiện lao động cho giáo viên, nhằm phát huy cao nhất
năng lực và phẩm chất của đội ngũ giáo viên.
Nâng nguồn lực tài chính cho giáo dục mầm non bằng nguồn ngân sách
Nhà nước các cấp, các nguồn ngoài ngân sách và hợp tác quốc tế.
Đổi mới công tác quản lí giáo dục mầm non, chỉ đạo phát triển giáo dục mầm

non theo các dự án, chương trình linh hoạt phù hợp với các vùng miền khác nhau.
2.3 Đổi mới hình thức tổ chức chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non
Con đường chuyển tải các nội dung giáo dục đến trẻ được thực hiện chủ
yếu theo hai cách đó là:
 Trẻ học thông qua hoạt động chơi tự chọn trong môi trường giáo dục,
được sắp xếp theo kế hoạch, kế hoạch này được xây dựng không phải do chủ
quan của người giáo viên mà xuất phát từ trẻ.
 Trẻ học thông qua hoạt động có sự hướng dẫn của cô (hoạt động cấu trúc).
Chơi trong môi trường học tập được hoạch định
Thông qua hoạt động chơi tự chọn và khám phá, trẻ có được những hiểu
biết và phát triển ccs kĩ năng và hứng thú của mình. Trẻ nhỏ cần rất nhiều cơ họi
để học và khám phá thông qua việc chúng chơi hàng ngày. Chơi là cách học phù
hợp nhất khi chúng ta muốn trẻ tìm tòi khám phá cho bản thân chúng. Lợi ích của
hoạt động vui chơi đối với trẻ là ở chỗ qua chơi trẻ được phát triển hiểu biết, kĩ
năng trong rất nhiều tình huống khác nhau. Đồng thời, trẻ được vui sướng và trở
nên hứng thú với việc khám phá và học tập.
Để trẻ có thể chơi rg môi trường học tập được hoạch định, cô giáo cần
tạo và duy trì các góc hoạt động nhằm thường xuyên cung cấp cơ hội, thách
thức kích thích sự tò mò của trẻ. Cô cũng cần tạo điều kiện về không gian,
thời gian, điều kiện phương tiện và đồ dung đồ chơi để trẻ có thể học được
trong quá trình chơi.
Học có sự hướng dẫn của cô
Không một ai, kể cả người lớn và trẻ em có thể sống và học trong môi
trường không có gì cả. Trong mọi xã hội, người lớn đều gữ vai trò chuyển giao


những hiểu biết, kĩ năng cho trẻ em. Có rất nhiều điều trẻ học được qua các hoạt
động chơi hàng ngày, nhưng rõ rang còn rất nhiều điều chúng phải học. Người
giáo viên là rất cần thiết cho trẻ, sự hướng dẫn của giáo viên là cần thiết và phù
hợp khi dạy trẻ những ý tưởng mói, hoặc khi giúp trẻ thấy được mối lien hệ giữa

những kinh nghiệm đã có dựa trên những vấn đề trẻ quan tâm và qua đồ dung, đồ
chơi hàng ngày.
Hai hình thức hoạt động này được lựa chọn, phối hợp hợp lí tùy thuộc mục
tiêu, nội dung giáo dục cụ thể cũng như tùy thuộc vao ftr và đặc điểm phát triển
của trẻ để đạt được mục đích giáo dục một cách tốt nhất.
Cả hai dạng hoạt động đệu có những ưu điểm và có những hạn chế và nó
chỉ phù hợp với loại nội dung nhất định nào đó.
Hai hình thức hoạt động này được thực hiện theo cả ba cách tổ chức hoạt
động: hoạt động cá nhân; hoạt động nhóm nhỏ; hoạt động nhóm lớn tùy thuộc
vào mdinh của cô.
*) Các hoạt động cá nhân: thường được sử dụng khi giáo viên muốn trẻ
hoặc một nhóm trẻ có kĩ năng và kiến thức cụ thể nào đó. Đây là hoạt động giữa
giáo viên và trẻ có nhu cầu và hứng thú cụ thể. Hoạt động cho phép cô giáo quan
sát và đánh giá kiến thức, kĩ năng ôf trẻ và có được sự điều chỉnh phù hợp với trẻ
dựa trên những nhận xét thu được.
*) Các hoạt động nhóm nhỏ: được dung để dạy kiến thức mới, giới thiệu
các hoạt động, tạo sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa trẻ nhằm hình thành mối quan hệ
giữa người với người, đặc biệt phù hợp để trẻ tranh luận nhằm thay đổi các ý
kiến của trẻ trong nhóm trẻ.
*) Các hoạt động nhóm lớn: có thể là cả lớp hoặc đa số trẻ. Hoạt động
này cho phép cả lớp cùng chia sẻ các trải nghiệm chung, hoặc cùng nghe một
thông tin nào đó. Cô là người dẫn dắt, người chơi cùng với trẻ trong quá trình
hoạt động.


Không gian lớp học, thời gian cho trẻ hoạt động cũng được bố trí nhằm tạo
môi trường, cơ hội kích thích trẻ tìm tòi khám phá và rèn kĩ năng thực hiện đến
cùng các công việc.
2.4 So sánh các phương pháp phù hợp và không phù hợp trong chương
trình giáo dục trẻ mầm non

Các
thành phần

Các phương pháp phù hợp

chương trình
Các

mục

Các kinh nghiệm được cung cấp

Các phương pháp
không phù hợp
Các kinh nghiệm được

của đáp ứng với các yêu cầu của trẻ, kích xem xét một cách hạn

tiêu
chương

thích việc học tập ở tất cả các lĩnh hẹp và sự phát triển trí

trình

vực: thể lực, tình cảm, xã hội và trí tuệ mà không biết rằng
tuệ.

mọi lĩnh vực phát triển


- Mỗi trẻ được nhìn nhận như một đều quan
con người độc lập, voéi mô hình phát nhau.
triển riêng.

trọng

như

- Trẻ em được đánh

Chương trình và sự giao tiếp của giá chỉ bằng cách so
người lớn đáp ứng sự khác biệt về sánh với các chuẩn đã
khả năng và hứng thú riêng. Mức độ xác định trước, cho cả
khác nhau về khả năng, về sự phát nhóm.
triển và các kiểu học cần có ở trẻ sẽ

Chúng được dạy để

được sử dụng để thiết kế các hoạt thực
động phù hợp.

hiện

cùng

một

nhiệm vụ và đạt được

- Sự giao tiếp và các hoạt động những kĩ năng hẹp đã

được thiết kế để phát triển niềm tin được xác định và dễ đo
và tình cảm tích cực đối với việc học. đạc.
Các

chiến

lược dạy

- Giáo viên chuẩn bị môi trường

- Giáo viên sử dụng

cho trẻ học qua sự khám phá, tìm tòi các bài học có cấu trúc


và giao tiếp với người lớn, với trẻ và được định hướng bởi
khác và các học liệu.
- Trẻ chọn nhiều hoạt động riêng

giáo viên.
- Giáo viên hướng dẫn

của chúng từ các góc học khác nhau mọi hoạt động, quyết
do giáo viên chuẩn bị, bao gồm đóng định trẻ làm cái gì và khi
kịch, các khối xây dựng, khoa học, nào. Giáo viên làm hầu
toán, trò chơi lắp ghép, sách, băng, hết hoạt động cho trẻ.
tạo hình, âm nhạc.

- Trẻ được yêu cầu


- Trẻ được tạo điều kiện để hoạt ngồi, nhìn, yên lặng,
động tích cực về thể lực và tinh thần. lắng nghe, hoặc làm các
trẻ chọn các hoạt động do giáo viên nhiệm vụ với giấy bút.
đã sắp đặt hoặc do trẻ tự tạo ra.

Phần lớn thời gian dành

- Trẻ làm việc cá nhân hoặc trong cho ngồi, lắng nghe và
nhóm nhỏ, không chính qui hầu hết chờ đợi thụ động.
thời gian.

- Phần lớn thời gian

- Trẻ được cung cấp các hoạt động dành cho việc hướng dẫn
học với các vật liệu và những mối cả nhóm đông trẻ.
quan hệ giữa con người thich hợp với
các kinh nghiệm sống của trẻ.

- Các sách bài tập,
giấy bài tập, các phiếu

- Giáo viên đi lại giữa các nhóm học hoặc tập có cấu trúc
và từng trẻ để hướng dẫn, nêu câu sẵn được sử dụng cho
hỏi, đưa ra đề nghị, gợi ý mới hoặc chương trình.
bổ sung các học liệu.

- Trẻ được mong muốn

- Giáo viên chấp nhận nhiều cách đáp lại bằng một câu trả
trả lời đúng của trẻ và nhận thấy rằng lời đúng giống nhau. Sự

trẻ học tự cách chúng tự giải quyết ghi nhớ và luyện tập được
vấn đề và thí nghiệm

nhấn mạnh.


Phát

triển

- Giáo viên khuyến khích phát

- Giáo viên mất nhiều

tình cảm, xã triển sự độc lập, tự kiểm soát ở trẻ thời gian để áp đặt các
bằng cách sử dụng các kĩ thuật qui tắc, có các hành vi

hội.

hướng dẫn tích cực như làm mẫu, phạt trẻ, bắt trẻ ngồi im.
khuyến khích hành vi mong muốn,
hướng trẻ đến các hoạt động được
chấp nhận nhiều hơn, đưa ra những
sẹ hạn chế rõ rang. Những mong đợi
của giáo viên trên cơ sở tôn trọng các
khả năng phát triển của trẻ.
- Trẻ được cung cấp nhiều cơ họi
để pr các kĩ năng xã hội như cộng
tác, giúp đỡ, đàm phán, nói chuyện
với những người có lien quan để giải

quyết các vấn đề. Giáo viên khuyến
khích các kĩ năng xã hội tích cực ở
mọi nơi mọi lúc.
Phát

triển

ngôn ngữ

- Trẻ được cung cấp nhiều cơ hội

Hướng dẫn trẻ đọc viết

để biết việc đọc có lợi như thế nào theo cách riêng biệt:
trước khi chúng được dạy chữ cái, nhận biết từng chữ cái,
phát âm và nhận biết các từ. các kĩ đánh vần, tô các nét theo
năng cơ bản sẽ phát triển khi chúng mẫu viết sắn.
trở nên có ý nghĩa đối với trẻ. Nhiều
hoạt động được cung cấp để phát
triển ngôn ngữ và học đọc, học viết,
qua các kinh nghiệm: nghe, kể lại
chuyện, thơ, đi dạo, xem các bảng
biểu ở lớp hoặc các chữ in, đóng
kịch, các hoạt động khác đòi hỏi sự
giao tiếp; nói chuyện một cách không


chính qui với trẻ và người lớn, học
viết qua vẽ, sao chụp, và sáng tạo
cách đánh vần của riêng mình.

Phát

triển

nhận thức

- Trẻ phát triển sự hiểu biết các

- Việc hướng dẫn

khái niệm về bản thân, những người nhấn mạnh vào phát
khác, về thế giới xung quanh qua quan triển các kĩ năng riêng
sát, giao tiếp với người khác, và các biệt qua sự ghi nhớ, và
vật thật, tìm các giải pháp để giải học vẹt, xem trình diễn
quyết các vấn đề. Việc học về toán, làm mẫu, luyện tập…
khoa học, nghiên cứu xã hội, sức khỏe,

- Sự phát triển nhận

và các lĩnh vực nội dung khác được thức của trẻ được xem xét
tích hợp thể hiện thông qua các hoạt rời rạc trong các lĩnh vực
động có nghĩa với trẻ, như chơi xây nội dung như toán, khoa
dựng với các hình khối; đong đo cát, học, nghiên cứu xã hội;
nước,hoặc các thực đơn nấu ăn; quan và thời gian được qui
sát những thay đổi của môi trường; tìm định cho mỗi lĩnh vực.
các đồ vật theo mục đích; làm việc với
các mẩu gỗ và dụng cụ; tìm tòi khám
phá các con vật, cây cối, nước, xe có
bánh; hát và nghe nhạc từ các dân tộc
khác nhau; sơn, vẽ và làm việc với đất

nặn. các công việc quen thuộc hàng
ngày được thực hiện để đảm bảo cho
trẻ khỏe mạnh và an toàn.
Phát
thể lực.

triển

- Trẻ em có các cơ hội hàng ngày

- Cơ hội cho các hoạt

để tập luyện phát triển các cơ bắp: động cơ bắp bị hạn chế.
chạy, nhảy, thăng bằng. các hoạt Thời gian chơi ngoài trời
động ngoài trời được tổ chức hàng ít vì sợ ảnh hưởng đến
ngày như vậy trẻ có thể phát triển các giờ học; nếu có thì cũng


kĩ năng của các cơ lớn; học về môi được xem như thời gian
trường ngoài lớp học, và thể hiện giải lao, chứ không phải
mình một cách tự do và sinh động.

là một bộ phận tích hợp

- Trẻ có các cơ hội hàng ngày để trong môi trường học
phát triển các kĩ năng của các cơ nhỏ của trẻ.
qua các hoạt động chơi trên bàn
chông, ghép hình, cắt,…

- Hoạt động cơ nhỏ bị

hạn chế ở cầm bút viết, tô
màu các hình vẽ trước
hoặc các bài học chính qui.

Phát

triển

Trẻ có các cơ hội hàng ngày cho

Vẽ, âm nhạc chỉ được

thẩm mĩ.

sự thể hiện và đánh giá thẩm mĩ cung cấp khi có thời

.

thông qua vẽ tạo hình và âm nhạc. trẻ gian. Vẽ chỉ có tô màu
thử nghiệm và thích thú các loại âm các bản vẽ trước, bắt
nhạc khác nhau; thể hiện sự sáng tạo chước vẽ lại mẫu hoặc
qua sử dụng đất nặn, vẽ bằng các vẽ theo sự chỉ dẫn của
ngón tay.

Động



học


Sự tò mò tự nhiên, và ham hiểu

giáo viên.
Trẻ được yêu cầu

biết thế giới của trẻ được sử dụng để tham gia mọi hoạt động
kích thích trẻ tham gia các hoạt động để thu được sự chấp
học tập.

thuận của giáo viên,
nhận được sự ban khen,
và tránh bị phạt.

Đánh giá trẻ

Kết quả đánh giá sự tiến bộ và

Các trắc nghiệm tâm lí

những thành công của trẻ được sử được sử dụng làm tiêu
dụng cho việc lên kế hoạch chương chuẩn duy nhất.
trình, nhận biết các nhu cầu đặc biệt
của trẻ, trao đổi với cha mẹ và đánh
giá tính hiệu quả của chương trình


CHƯƠNG 3: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ UML
Nội dung trình bày:
 UML (Unifield Modeling Language)
 UML trong phân tích thiết kế hệ thống

 UML và các giai đoạn phát triển hệ thống
 Các thành phần của ngôn ngữ UML
 Các ưu điểm chính của UML
3.1 UML (Unifield Modeling Language) - Ngôn ngữ mô hình hoá thống nhất
Ngôn ngữ mô hình hóa thống nhất (Unifield Modeling Language – UML)
là một ngôn ngữ để biểu diễn mô hình theo hướng đối tượng được xây dựng với
chủ đích là:
- Mô hình hoá các hệ thống sử dụng các khái niệm hướng đối tượng.
- Thiết lập một kết nối từ nhận thức của con người đến các sự kiện cần mô
hình hoá.
- Giải quyết vấn đề về mức độ thừa kế trong các hệ thống phức tạp, có
nhiều ràng buộc khác nhau.
- Tạo một ngôn ngữ mô hình hoá có thể sử dụng được bởi người và máy.
3.2 UML trong phân tích thiết kế hệ thống
UML có thể được sử dụng trong nhiều giai đoạn, từ phát triển, thiết kế cho
tới thực hiện và bảo trì. Vì mục đích chính của ngôn ngữ này là dùng các biểu đồ
hướng đối tượng để mô tả hệ thống nên miền ứng dụng của UML bao gồm nhiều
loại hệ thống khác nhau như:
- Hệ thống thống tin (Information System): Cất giữ, lấy, biến đổi biểu
diễn thông tin cho người sử dụng. Xử lý những khoảng dữ liệu lớn có các quan
hệ phức tạp , mà chúng được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu quan hệ hay hướng
đối tượng .
- Hệ thống kỹ thuật (Technical System): Xử lý và điều khiển các thiết bị
kỹ thuật như viễn thông, hệ thống quân sự, hay các quá trình công nghiệp. Đây là
loại thiết bị phải xử lý các giao tiếp đặc biệt , không có phần mềm chuẩn và
thường là các hệ thống thời gian thực (real time).


- Hệ thống nhúng (Embeded System): Thực hiện trên phần cứng gắn vào
các thiết bị như điện thoại di động, điều khiển xe hơi, … Điều này được thực

hiện bằng việc lập trình mức thấp với hỗ trợ thời gian thực. Những hệ thống này
thường không có các thiết bị như màn hình đĩa cứng, …
- Hệ thống phân bố ( Distributed System): Được phân bố trên một số
máy cho phép truyền dữ liệu từ nơi này đến nơi khác một cách dễ dàng. Chúng
đòi hỏi các cơ chế liên lạc đồng bộ để đảm bảo toàn vẹn dữ liệu và thường được
xây dựng trên một số các kỹ thuật đối tượng như CORBA, COM/DCOM, hay
Java Beans/RMI.
- Hệ thống giao dịch (Business System): Mô tả mục đích, tài nguyên (con
người, máy tính, …), các quy tắc (luật pháp, chiến thuật kinh doanh, cơ chế, …),
và công việc hoạt động kinh doanh.
- Phần mềm hệ thống (System Software): Định nghĩa cơ sở hạ tầng kỹ
thuật cho phần mềm khác sử dụng, chẳng hạn như hệ điều hành, cơ sở dữ liệu,
giao diện người sử dụng.
3.3 UML và các giai đoạn phát triển hệ thống
Đặc tả (Preliminary Investigation): use cases thể hiện các yêu cầu của
người dùng. Phần miêu tả use case xác định các yêu cầu, phần diagram thể hiện
mối quan hệ và giao tiếp với hệ thống.
Phân tích (Analysis): Mục đích chính của giai đọan này là trừu tượng hóa
và tìm hiểu các cơ cấu có trong phạm vi bài toán. Các biểu đồ (Class diagrams)
trên bình diện trừu tượng hóa các thực thể ngoài đời thực được sử dụng để làm rõ
sự tồn tại cũng như mối quan hệ của chúng. Chỉ những lớp nằm trong phạm vi
bài toán mới đáng quan tâm.
Thiết kế (Design): Kết quả phần analysis được phát triển thành giải pháp
kỹ thuật. Các lớp được mô hình hóa chi tiết để cung cấp hạ tầng kỹ thuật như
giao diện, nền tảng cho database, … Kết quả phần Design là các đặc tả chi tiết
cho giai đoạn xây dựng phần mềm.


Phát triển (Development): Mô hình Design được chuyển thành code.
Programmer sử dụng các UML diagrams trong giai đoạn Design để hiểu vấn đề

và tạo code.
Kiểm thử (Testing): Sử dụng các UML diagrams trong các giai đoạn
trước. Có 4 hình thức kiểm tra hệ thống:
- Unit testing (class diagrams & class specifications) : kiểm tra từng đơn
thể, được dùng để kiểm tra các lớp hay các nhóm đơn thể.
- Integration testing (integration diagrams & collaboration diagrams) :
kiểm tra tích hợp là kiểm tra kết hợp các component với các lớp để xem chúng
hoạt động với nhau có đúng không.
- System testing (use-case diagrams) : kiềm tra xem hệ thống có đáp ứng
được chức năng mà người sử dụng yêu cầu hay không.
- Acceptance testing: Kiểm tra tính chấp nhận được của hệ thống, thường được
thực hiện bởi khách hàng, việc kiểm tra này thực hiện tương tự như kiểm tra hệ
thống.
3.4 Các thành phần của ngôn ngữ UML
Ngôn ngữ UML bao gồm một loạt các phần tử đồ họa (graphic element)
có thể được kếp hợp với nhau để tạo ra các biểu đồ. Bởi đây là một ngôn ngữ,
nên UML cũng có các nguyên tắc để kết hợp các phần tử đó. Một số những thành
phần chủ yếu của ngôn ngữ UML:
Hướng nhìn (view)
Hướng nhìn chỉ ra những khía cạnh khác nhau của hệ thống cần phải được
mô hình hóa. Một hướng nhìn không phải là một bản vẽ, mà là một sự trừu tượng
hóa bao gồm một loạt các biểu đồ khác nhau. Chỉ qua việc định nghĩa của một
loạt các hướng nhìn khác nhau, mỗi hướng nhìn chỉ ra một khía cạnh riêng biệt
của hệ thống, người ta mới có thể tạo dựng nên một bức tranh hoàn thiện về hệ
thống. Cũng chính các hướng nhìn này nối kết ngôn ngữ mô hình hóa với quy
trình được chọn cho giai đoạn phát triển. Một hệ thống cần phải được miêu tả với
một loạt các khía cạnh khác nhau: Về mặt chức năng (cấu trúc tĩnh của nó cũng


như các tương tác động), về mặt phi chức năng (yêu cầu về thời gian, về độ đáng

tin cậy, về quá trình thực thi, v.v. và v.v.) cũng như về khía cạnh tổ chức (tổ chức
làm việc, ánh xạ nó vào các code module, ...). Vì vậy một hệ thống thường được
miêu tả trong một loạt các hướng nhìn khác nhau, mỗi hướng nhìn sẽ thể hiện
một bức ảnh ánh xạ của toàn bộ hệ thống và chỉ ra một khía cạnh riêng của hệ
thống. UML có tất cả các hướng nhìn sau:
- Hướng nhìn Use case (use case view) : đây là hướng nhìn chỉ ra khía
cạnh chức năng của một hệ thống, nhìn từ hướng tác nhân bên ngoài.
- Hướng nhìn logic (logical view): chỉ ra chức năng sẽ được thiết kế bên
trong hệ thống như thế nào, qua các khái niệm về cấu trúc tĩnh cũng như ứng xử
động của hệ thống.
- Hướng nhìn thành phần (component view): chỉ ra khía cạnh tổ chức
của các thành phần code.
- Hướng nhìn song song (concurrency view): chỉ ra sự tồn tại song
song/ trùng hợp trong hệ thống, hướng đến vấn đề giao tiếp và đồng bộ hóa
trong hệ thống.
- Hướng nhìn triển khai (deployment view): chỉ ra khía cạnh triển khai
hệ thống vào các kiến trúc vật lý (các máy tính hay trang thiết bị được coi là trạm
công tác).
Biểu đồ (diagram)
Biểu đồ là các hình vẽ bao gồm các ký hiệu phần tử mô hình hóa được sắp
xếp để minh họa một thành phần cụ thể hay một khía cạnh cụ thể của hệ thống.
Một mô hình hệ thống thường có nhiều loại biểu đồ, mỗi loại có nhiều biểu đồ
khác nhau. Một biểu đồ là một thành phần của một hướng nhìn cụ thể; và khi
được vẽ ra, nó thường thường cũng được xếp vào một hướng nhìn. Mặt khác,
một số loại biểu đồ có thể là thành phần của nhiều hướng nhìn khác nhau, tùy
thuộc vào nội dung của biểu đồ. UML có tất cả 9 loại biểu đồ khác nhau được sử
dụng trong những sự kết hợp khác nhau để cung cấp tất cả các hướng nhìn của
một hệ thống.



×