Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.83 KB, 24 trang )

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
“NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ NHÀ NƯỚC”
(C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 21, Nxb.CTQG, HN, 1995, tr.41-265)
PGS, TS. Nguyễn Tĩnh Gia
Trần Mai Hùng
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học khảo cổ, dân tộc học và xã hội học đã
có những bước phát triển đáng kể, tạo tiền đề để giải thích những vấn đề về
giai đoạn tiền sử của thời đại văn minh. Trong gần 40 năm sinh sống trong
cộng đồng người In-đi-an ở Bắc Mỹ, L.Moóc-gan - nhà bác học, nhà dân tộc
học và là nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng người Mỹ đã phát hiện và khôi
phục lại những nét chủ yếu về cơ sở lịch sử của quá trình hình thành và phát
triển của thời đại văn minh. L.Moóc-gan đã trình bày những nghiên cứu của
mình trong tác phẩm "Xã hội cổ đại, hay là sự nghiên cứu những tuyến tiến
bộ của loài người từ mông muội, dã man đến văn minh’’ 1, xuất bản năm
1877, đây là tư liệu thực sự có ý nghĩa trong việc chứng minh tính đúng đắn
và khoa học về quan điểm duy vật lịch sử. C.Mác đã đọc và ghi chép kỹ trong
bản thảo "Tóm tắt tác phẩm của L.Moóc-gan", dự định viết một cuốn sách
viết về vấn đề này chưa được thực hiện thì ông mất. Đầu năm 1884, khi chỉnh
lý những di cảo của C.Mác, Ph.Ăngghen đã tìm thấy bản thảo viết tay này,
thực hiện ý nguyện của C.Mác, ông đã sử dụng các nhận xét và phê phán của
C.Mác về tác phẩm của L.Moóc-gan để viết "Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước". Tác phẩm đã chứng minh sự đúng đắn
những quan niệm duy vật lịch sử, hoàn thành mong muốn mà người bạn của
mình đang dở dang.

"Ancient Society, or Researches in the Lines of Human Progress from Savagery through Barbarism to
Civillzation"
1



Cuối tháng 3 năm 1884, Ph.Ăngghen bắt tay vào viết tác phẩm “
Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” , ông đã sử dụng
những nghiên cứu của L.Moóc-gan, phân tích trên quan điểm mác-xít để chỉ
ra quá trình phát triển của các hình thức gia đình trong xã hội xã hội loài
người; điều kiện ra đời, bản chất, đặc trưng và sự tiêu vong của giai cấp và
nhà nước....Ngày 26 tháng 5 năm 1884, Ph.Ăngghen đã hoàn thành tác phẩm
với chín chương, do sự cấm đoán của nhà cầm quyền Đức, ông phải gửi bản
thảo tới Xuy-rích để xuất bản. Đầu tháng 10 năm 1884, tác phẩm đã ra mắt
bạn đọc tại Xuy-rích.
Mặc dù bị nhà cầm quyền Đức gây trở ngại trong quá trình xuất bản và
phát hành, nhưng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước" vẫn được tái bản hai lần vào các năm 1886 và 1889 tại Stút-gát. Sau
khi tích luỹ thêm được những tài liệu lịch sử, khảo cổ học... về xã hội loài
người ở thời kỳ nguyên thuỷ, đặc biệt là khi có các công trình nghiên cứu của
các nhà bác học Bắc-hô-phen, Mắc-Lê-man, Cô-va-lép-xki...Năm 1891,
Ph.Ăngghen đã có những sửa chữa và bổ sung cho tác phẩm của mình, những
thay đổi này được ông thể hiện trong phần chú thích ở cuối trang.
Tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước" đã được xuất bản nhiều lần, với nhiều thứ tiếng ở nhiều quốc gia khác
nhau.
II. Những nội dung chủ yếu của tác phẩm.
1. Những quan điểm lý luận về gia đình, hôn nhân và tình yêu nam-nữ.
Trên cơ sở những dữ liệu của L.Moóc-gan, sử dụng những nhận xét của
C.Mác trong "Tóm tắt tác phẩm của L.Moóc-gan", và bằng kiến thức hiểu biết
của mình về lịch sử và xã hội của người Hy-lạp, La-mã, người Ai-rơ-len,
người Indian ở bắc Mỹ, người Giéc-manh cổ đại, Ph.Ăngghen đã phác hoạ
lên một bức tranh rộng lớn và đa dạng về nguồn gốc hình thành, quá trình
phát triển của các hình thức hôn nhân, vai trò và mối quan hệ của chế độ tư



hữu đối với hôn nhân trong các hình thái kinh tế xã hội; hôn nhân trong gia
đình tư sản; tình yêu nam nữ .v.v..
- Về nguồn gốc của gia đình.
Ph.Ăngghen đã lý giải một cách khoa học và duy vật về quá trình ra đời
và phát triển của gia đình và các hình thức hôn nhân trong các hình thái kinh
tế xã hội, đặc biệt ông đã chỉ ra vai trò của gia đình trong đời sống xã hội và
mối quan hệ giữa hôn nhân với các hình thức sở hữu.
Tán thành với L.Moóc-gan, Ph.Ăngghen cho rằng những giai đoạn đầu
tiên trong tiến trình lịch sử phát triển của xã hội loài người, những quan hệ gia
đình và những mối quan hệ thân tộc có ảnh hưởng rất lớn đên sự phát triển
của xã hội. Tuy nhiên, trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, các hình
thức hôn nhân và kết cấu của gia đình bị tác động hết sức sâu sắc. Thông qua
ba lần phân công lao động xã hội, lực lượng sản xuất phát triển hết sức mạnh
mẽ, gắn liền với đó là sự tăng lên của năng suất lao động và sự ra đời của chế
độ tư hữu đã phá vỡ kết cấu của xã hội dựa trên những mối quan hệ huyết tộc
và thay thế nó xuất hiện những mối quan hệ xã hội mới bị chi phối bởi những
quan hệ kinh tế.
Cũng như L.Moóc-gan, Ph.Ăngghen cho rằng gia đình là yếu tố năng
động, nó luôn luôn phát triển và biến đổi từ hình thức thấp lên hình thức cao
và sự thay đổi này gắn liền với những thay đổi trong phương thức sản xuất ra
của cải vật chất. Theo ông, trong thời kỳ đầu của lịch sử, khi mà nền sản xuất
còn kém phát triển, con người phải dựa vào nhau để kiếm sống và chống đỡ
những ảnh hưởng tiêu cực của thiên nhiên, nhân loại đã từng tồn tại những
hình thức khác nhau của chế độ quần hôn. Ông viết: "Và thực vậy, chúng ta
thấy hình thức gia đình nào là cổ nhất, sớm nhất, hình thức mà chúng ta có thể
chứng minh được một cách chắc chắn là có tồn tại trong lịch sử và ngày nay
chúng ta vẫn có thể nghiên cứu được ở một nơi nào đó? Đấy là hình thức
quần hôn, một hình thức hôn nhân trong đó trọn từng nhóm đàn ông và trọn
từng nhóm đàn bà quan hệ tình dục với nhau..." 2. Cùng với sự phát triển của
2


C.Mác và Ph.Angghen: Toàn t?p, NXB Chính tr? Qu?c gia, Hà n?i ,1995, t?p 21, trang 64.


sản xuất, gia đình đã phát triển sang hình thức gia đình huyết tộc, đây là giai
đoạn đầu của gia đình mà : "ở đây, các tập đoàn hôn nhân đều phân theo thế
hệ: trong phạm vi gia đình, tất cả các ông và bà đều là vợ chồng với nhau, rồi
đến lượt con cái của họ, nghĩa là những người cha và các bà mẹ cũng đều là
vợ chồng của nhau, rồi đến lượt con cái của những người này cũng hợp thành
một nhóm vợ chồng thư tư"3. Tiếp đó là sự ra đời của gia đình pu-na-lu-an,
đây là một bước tiến trong sự phát triển của các hình thức gia đình, ông viết:
"Nếu bước đầu tiên trong tổ chức gia đình là huỷ bỏ quan hệ tình dục giữa cha
mẹ và con cái, thì bước tiến thứ hai là huỷ bỏ quan hệ tình dục giữa anh em
trai và chị em gái.....Bước đó được thực hiện dần dần chắc là bắt đầu bằng
việc huỷ bỏ quan hệ tình dục giữa những anh em trai và chị em gái cùng một
mẹ đẻ ra (tức là những anh em trai và chị em gái về phía mẹ); trước hết là tiến
hành trong những trường hợp cá biệt, rồi dần dần trở thành thông lệ...." 4. Gia
đình một vợ một chồng xuất hiện trên cơ sở từ gia đình cặp đôi vào giai đoạn
giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man, sự xuất hiện của hình thức gia đình
đánh dấu sự chuyển sang thời đại văn minh. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng chế
độ một vợ một chồng được hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực lượng
sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân hoá thành các giai cấp trong
xã hội và chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên không dựa
trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế, sự ra đời
của hình thức gia đình này đánh dấu sự thắng lợi của sở hữu tư nhân đối sở
hứu công cộng. Quá trình này gắn liền với sự phát triển của chế độ tư hữu,
nền tảng của hình thức gia đình ấy "dựa trên quyền thống trị của người chồng,
nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng không ai
tranh cãi đựoc và sự rõ ràng về dòng dõi đó là cần thiết, vì những đứa con đó
sau này sẽ được thừa hưởng tài sản của người cha với tư cách là những người

kế thừa trực tiếp"5 và Ph.Ăngghen kết luận: "việc chuyển sang chế độ tư hữu
hoàn toàn được thực hiện dần dần và sông sông với việc chuyển từ hôn nhân
Sđd. tr.66.
Sđd. tr.68.
5 Sđd. tr 99.
3
4


cặp đôi sang chế độ một vợ, một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn
vị kinh tế của xã hội"6
Bên cạnh vai trò của nhân tố kinh tế đối với sự phát triển của hôn nhân
và các hình thức gia đình, Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra vai trò của những yếu
tố di truyền sinh học đối với việc thúc đẩy của các hình thức hôn nhân và gia
đình, ông viết: "Khi nảy sinh ra quan niệm cho rằng quan hệ tình dục giữa
những người con cùng mẹ là không được phép, thì quan niệm ấy đã có tác
dụng trong việc phân nhỏ những cộng đồng gia đình cũ và thành lập cộng
đồng gia đình mới... Một hay nhiều nhóm chị em gái trở thành hạt nhân của
một cộng đồng, còn những anh em trai cùng mẹ của họ lại trở thành hạt nhân
của cộng đồng khác"7. Dưới sự tác động của nhân tố kinh tế, đặc biệt là qua
các lần phân công lao động xã hội và sự nhận thức về qui luật đào thải sinh
học, các hình thức gia đình đã không ngừng phát triển, Ph.Ăngghen kết luận:
“Vậy sự phát triển của gia đình trong thời đại nguyên thuỷ là sự thu hẹp
không ngừng của cái phạm vi mà lúc đầu bao gồm toàn thể bộ lạc, trong đó
tình trạng cộng đồng hôn nhân giữa nam và nữ thống trị. Bằng con đường dần
dần cấm đoán những người bà con thân thuộc không được lấy nhau, trước tiên
là cấm bà con gần nhất, rồi đến bà con xa hơn, và cuối cùng cả đến những
người bà con bên vợ nữa, cho nên trên thực tế, bất cứ hình thức quần hôn nào
cũng không thể tồn tại được, và rốt cuộc chỉ còn có từng đôi vợ chồng gắn bó
với nhau bằng những mối liên hệ rất lỏng lẻo”8.

- Về vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu của L.Moóc-gan, Bắc-hô-phen,
Cô-va-lép-xki và những tìm tòi của mình Ph.Ăngghen cho rằng vị trí và vai
trò của người phụ nữ trong gia đình trong các xã hội luôn thay đổi. Sự thay
đổi này gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các hình thức sở hữu
và các hình thức hôn nhân gia đình, đây là một quá trình lâu dài, bắt đàu từ
thời đại dã man đến thời đại văn minh với nhiều giai đoạn khác nhau.
Sđd. tr 44.
Sđd. tr 69
8 Sđd. tr 80
6
7


Trong các gia đình dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ người phụ nữ có
một vai trò hết sức quan trọng, điều này xuất phát từ những đặc trưng kinh tế
của xã hội. Nền kinh tế trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ kém phát triển,
cuộc sống phụ thuộc vào tự nhiên, vì vậy người phụ nữ có một vị trí kinh tế
đáng kể. Theo Ph.Ăngghen thì chính Bắc-hô-phen đã phát hiện ra rằng" kinh
tế gia đình cộng sản - trong đó, phần đông phụ nữ, nếu không phải là tất cả
phụ nữ, đều cùng thuộc một thị tộc duy nhát, còn đàn ông thì thuộc nhiều thị
tộc khác nhau, - là cơ sở thực hiện quyền thống trị của người đàn bà, cái
quyền thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong thời nguyên thuỷ"9. Chính vì
vậy, trong giai đoạn này, thân tộc chỉ xác lập theo hệ mẹ, " người ta không
biết chắc chắn ai là cha của một đứa trẻ, nhưng người ta lại biết rõ ai là mẹ
nó"10, do đó, "dòng dõi chỉ chỉ có thể được xác định về bên mẹ mà thôi, và vì
vậy, chỉ có nữ hệ là được thừa nhận"11. Tuy nhiên, trước sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, gia đình đã có những thay đổi đáng kể, gia đình cặp đôi xuất
hiện, vị trí của người phụ nữ trong gia đình đã có những bước giảm sút, trong
giai đoạn này thì "một người dàn ông sống với một người đàn bà, song việc

có nhiều vợ và việc không chung tình khi có dịp vẫn là quyền của người đàn
ông, mặc dù trong trường hợp nhiều vợ là rất hiếm do những nguyên nhân
kinh tế; nhưng thường thì những người phụ nữ lại phải triệt để chung tình
trong thời gian chung sống với chồng, và tội ngoại tình của họ sẽ bị trừng trị
một cách tàn ác"12. Nếu như trước đây, tài sản thừa kế trong thị tộc được giao
cho những người có dòng dõi theo hệ mẹ, những tài sản này thường cũng
không thực sự có giá trị lắm. Tuy nhiên, khi mà của cải dần dần tăng thêm thì,
một mặt, trong gia đình của cải đó mang lại cho người chồng một địa vị quan
trọng hơn người vợ và, mặt khác, của cải đó khiến cho người chồng có xu
hướng lợi dụng địa vị vững vàng hơn ấy để đảo ngược trật tự kế thừa cổ
truyền đặng có lợi cho con cái mình. Nhưng chừng nào mà dòng dõi tính theo
Sđd. tr 83
Sđd. tr 72
11 Sđd. tr 73
12 Sđd. tr 82
9

10


mẫu quyền ấy vẫn còn thịnh hành thì điều đó vẫn không thực hiện được. Vì
vậy, trước hết cần phải xoá bỏ chế độ tính dòng dõi theo mẫu quyền đi đã, và
chế độ đó đã bị xoá bỏ. Quá trình chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ
phụ quyền đánh dấu sự thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công
cộng, tán thành với quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng "sự phân
công lao động đầu tiên là sự phân công giữa người đàn ông và đàn bà trong
việc sinh con đẻ cái"13, theo ông thì "chế độ mẫu quyền bị lất đổ là sự thất
bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới nữ"14. Địa vị của người phụ nữ
bị giảm sút một cách thảm hại, từ chỗ là người nắm giữ quyền lực trong gia
đình, người phụ nữ chỉ đóng vai trò là "công cụ giải trí của đàn ông", còn

người đàn ông thì chiếm giữ quyền lực một cách tuyệt đối "ngay cả ở trong
nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai quản, còn người đàn bà thì bị hạ
cấp, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm đảng của đàn ông, thành một
công cụ sinh đẻ đơn thuần"15. Sự phát triển của sở hữu tư nhân không chỉ là
nguyên nhân của những xung đột, bất bình đẳng trong xã hội mà nó còn tác
động hết sức mạnh mẽ đến vai trò của người phụ nữ trong gia đình, theo
Ph.Ăngghen thì sự đối lập giai cấp đầu tiên xuất hiện trong lịch sử trùng với
sự phát triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ trong hôn nhân cá thể, và sự
áp bức giai cấp đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà.
Sau khi phê phán sự áp bức đối với người phụ nữ, Ph.Ăngghen đã chỉ
ra những điều kiện và nguyên tắc để giải phóng người phụ nữ khỏi sự áp bức
trong gia đình và xã hội, theo ông đó là hôn nhân phải được xác lập trên cơ
sở của tình yêu nam nữ và cần phải xoá bỏ sự bất bình đẳng vè kinh tế giữa
người đàn ông và người đàn bà trong gia đình cũng như là sự bất bình đẳng về
kinh tế giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Ông đã chỉ ra rằng "điều kiện
tiên quyết để giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia

13

Sđd. tr 104
Sđd. tr 93
15 Sđd. tr 93
14


nền sản xuất xã hội, và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể
không còn là một đon vị kinh tế của xã hội nữa"16.
Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra những điều kiện và tiền đề cần thiết để xây
dựng chế độ hôn nhân gia đình trong xã hội mới. Ph.Ăngghen cho rằng, xoá
bỏ chế độ tư hữu, thực hiện công hữu hoá các tư liệu sản xuất, phát triển của

nền đại công nghiệp sẽ tạo ra những tiền đề để giải phóng người phụ nữ và
xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc. Chỉ có nền công nghiệp
hiện đại, ngày càng có xu hướng biến lao động tư nhân của gia đình thành lao
động ngành công nghiệp công cộng mới có thể giải phóng được người phụ nữ
khỏi những ràng buộc của cuộc sống gia đình để tham gia vào các hoạt động
xã hội. Ông viết: "....đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà,
đem họ ra thị trường lao động, vào công xưởng, và thường biến họ thành
người nuôi dưỡng của gia đình, thì trong gia đình người vô sản, những tàn
tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông đã mất mọi cơ
sở ..."17Lúc đó, quan hệ vợ chồng sẽ được mở sang một trang mới, mà theo
ông: "... chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở
kinh tế từ trước tới nay của chế độ một vợ, một chồng, cũng như cơ sở của
điều bổ sung cho nó là nạn mãi dâm, đều nhất định bị tiêu diệt...các tư liệu
sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê,
giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ không còn tình trạng
một số phụ nữ ...cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa. Tệ mãi dâm sẽ mất
đi, và chế độ một vợ, một chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng
lại còn trở thành hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa" 18. Sự phát triển của
gia đình một vợ, một chồng sẽ là một bước tiến gần sự hoàn toàn bình đẳng
về mọi quyền lợi giữa nam và nữ, như điều L.Moóc-gan đã viết: "Gia đình
một vợ, một chồng đã được cải tiến ngay từ khi bắt đầu thời đại văn minh và
được cải tiến rất rõ rệt trong thời hiện đại...hình thức đó còn có thể được hoàn
16

Sđd. tr 116
Sđd. tr 106
18 Sđd. tr 118
17



thiện thêm nữa, cho tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ" 19. Đây là
quan điểm tiến bộ của L.Moóc-gan đã được Ph.Ăngghen tiếp nhận để phát
triển quan điểm tình yêu, hôn nhân và gia đình.
- Về hôn nhân và gia đình dưới chế độ tư sản.
Trong quá trình nghiên cứu các hình thức gia đình và hôn nhân dưới
chế độ tư hữu, Ph.Ăngghen đã đề cập đến hôn nhân trong gia đình tư sản.
Theo ông thì các cuộc hôn nhân của giai cấp thống trị là một việc có tính toán
lợi hại, do cha mẹ thu xếp, và mục tiêu của các cuộc hôn nhân là nhằm duy trì
sự kế thừa tài sản, cũng giống như trong các xã hội ttòn tại chế độ tư hữu
trước đây. Điều này luôn luôn đúng, kể cả trong môi trường đạo Thiên chúa
hay đạo Tin lành thì hôn nhân trong chế độ tư sản “…đều dựa trên địa vị giai
cấp của đôi bên, vì vậy, hôn nhân luôn luôn là hôn nhân có tính toán….Hôn
nhân có tính toán đó thường biến thành sự sản xuất dâm ti tiện nhất – có khi
là của cả đôi bên, nhưng thông thường nhất là về phía người vợ. Nếu ở đây,
người đàn bà có khác với gái đĩ thường thì chỉ là vì người đó không bán thể
xác mình từng thời gian như một người nữ công nhân làm thuê bán sức lao
động của mình, mà mãi mãi, như một nữ nô lệ" 20. Ông đã chỉ ra sự hạn chế
của nền sản xuất tư sản đó là "biến mọi thứ thành hàng hoá" và hợp đồng hoá
mọi quan hệ xã hội kể cả hôn nhân, theo ông hôn nhân dưới chế độ tư sản "chỉ
hoàn toàn phụ thuộc vào những lý do kinh tế mà thôi...người ta định giá
không những đàn bà, mà cả đàn ông nữa - hơn nữa, định gía không phải theo
phẩm chất cá nhân mà theo tài sản của họ"21. Mặc dù, xét về mặc hình thức thì
hôn nhân dưới chế độ tư sản được coi là một hợp đồng, "một giao kèo có tính
chất pháp lý, hơn nữa lại là một giao kèo quan trọng nhất trong tất cả mọi
giao kèo vì nó định đoạt cả thể xác lẫn tinh thần trong suốt cả đời họ" 22 nhưng
chủ thể ký hợp đồng đó không được thực sự được tự nguyện và bình đẳng mà

19

Sđd. tr 129

Sđd. tr 112
21 Sđd. tr 123
22 Sđd. tr 124
20


điều này phụ thuộc vào sự sắp xếp của cha mẹ nhằm đạt được các lợi ích kinh
tế và chính trị nhất định.
Với cơ sở để thiết lập hôn nhân như vậy, gia đình tư sản phải đương
đầu với nhiều mâu thuẫn, dẫn tới nhiều kết cục ngoài ý muốn, đó là tệ mãi
dâm và nạn ngoại tình. Tệ mại dâm một hiện tượng xã hội, là nguyên nhân
góp phần làm tan vỡ hạnh phúc gia đình và làm bại hoại nhân cách con người
dưới chế độ tư sản. Ông viết: "Trong giới phụ nữ, tệ mại dâm chỉ làm truỵ lạc
những người nào không may đã trở thành nạn nhân của tệ nạn đó, và ngay
những người ấy cũng không truỵ lạc tới mức như người ta vẫn tưởng. Ngược
lại, tệ mại dâm đã làm bại hoại nhân cách của toàn thế giới đàn ông của nhân
loại. Chính vì thế mà chẳng hạn, trong mười trường hợp kéo dài thời kỳ đính
hôn thì chín trường hợp là một trường học thật sự để huấn luyện tệ ngoại tình
sau này"23. Điều này“làm cho mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ một vợ, một
chồng phát triển đầy đủ nhất: Chế độ hê-ta-ia, về phía người chồng là chế độ
hê-ta-ia bừa bãi, về phía vợ là ngoại tình lu bù" 24 và những người con trai ít
nhiều được lựa chọn vợ chồng trong cùng giai cấp thì chế độ hê-ta-ia của
người chồng được thực hành ít kiên quyết hơn, và tệ ngoại tình của vợ cũng ít
thành lệ hơn. Song “cũng chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn
nặng trĩu mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình"25.
- Quan niệm về tình yêu nam nữ và tự do hôn nhân.
Ph.Ăngghen cho rằng để xây dựng chế độ hôn nhân bền vững và cuộc
sống gia đình hạnh phúc thì hôn nhân phải bắt nguồn từ tình yêu nam nữ và
sự tự do hôn nhân.
Nghiên cứu các cung bậc và và tìm hiểu bản chất đích thực của tình yêu

nam nữ cũng như vai trò của tình yêu đối với hôn nhân gia đình, theo
Ph.Ăngghen thì trong thời trung cổ không thể nói đến tình yêu cá nhân giữa
trai gái được. Tuy nhiên, với vẻ đẹp tự nhiên, bao giờ cũng làm nảy nở trong
đôi bên nam nữ sự thèm muốn có quan hệ tình dục với nhau, nhưng từ đó đến
23

Sđd. tr 117
Sđd. tr 111
25 Sđd. tr 112
24


tình yêu nam nữ như chúng ta thấy ngày nay, thì còn vô cùng xa. Bởi vì, các
cuộc hôn nhân trong giai đoạn này đều do cha mẹ quyết định thay con cái, và
con cái đều yên tâm vâng theo. Nếu "người ta thấy có đôi chút tình yêu giữa
vợ chồng, thì tình yêu đó không phải là một sở thích chủ quan, mà là một
nghĩa vụ khách quan; không phải là cơ sở của hôn nhân, mà là điều bổ sung
cho hôn nhân"26. Ông cho rằng tình yêu nam nữ ngày nay khác về căn bản với
tình dục đơn thuần, nó đòi hỏi phải là sự rung cảm thực sự giữa đôi bên và
chính điều này nó tạo nên "một sức mạnh và sự bền bỉ đến mức khiến cho hai
bên thấy không lấy được nhau và phải xa nhau là một điều đau khổ lớn nhất;
để lấy được nhau, hai người phải đánh nước liều, có khi phải hy sinh cả tính
mạng; điều đó, trong thời cổ, hoạ chăng chỉ xảy ra trong trường hợp ngoại
tình mà thôi"27. Theo Ph.Ăngghen, tình yêu đích thực giữa nam và nữ là nền
tảng cho hôn nhân bền vững, và cùng với nó là quyền tự do kết hôn giữa nam
và nữ dựa trên cơ sở tình yêu. Tuy nhiên, dưới chế độ tư hữu không thể có
quyền tự do hôn nhân, bởi vì, quyền này gắn chặt với quyền thừa kế tài sản và
việc duy trì địa vị chính trị, và quyền này được quyết định bởi cha mẹ của đôi
bên. Tự do hôn nhân như một nghịch lý, nó không thể có được ở giai cấp bóc
lột, nhưng nó lại tồn tại một cách hiện hữu ở giai cấp bị bóc lột, ông viết:

"giai cấp thống trị bị chi phối bởi những ảnh hưởng kinh tế mà mọi người đều
biết, cho nên những trường hợp thực sự tự do kết hôn trong giai cấp đó là
ngoại lệ; còn trong giai cấp bị áp bức, như chúng ta đã thấy, những cuộc hôn
nhân thật sự tự do đó lại là thông lệ" 28. Muốn cho quyền tự do kết hôn được
thực hiện đầy đủ và phổ biến thì phải xoá bỏ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
cũng như các quan hệ tài sản do nền sản xuất ấy tạo ra, phải gạt bỏ được tất cả
những lý do kinh tế - những lý do phụ nhưng vẫn đóng vai trò quyết định
trong các cuộc hôn nhân. Ph.Ăngghen cho rằng khi nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa tiêu vong, tình yêu nam nữ sẽ là nền tảng vững chắc cho hôn nhân gia
đình và điều này sẽ được quyết định bởi "một thế hệ mới sẽ lớn lên: một thế
26

Sđd. tr 119
Sđd. tr 120
28 Sđd. tr 126
27


hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những phương tiện quyền
lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và một thế hệ đàn bà
không bao giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào khác ngoài tình
yêu chân chính, hoặc phải từ chối không dám hiến mình cho người yêu vì sợ
những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó"29.
2- Sự ra đời và phát triển của chế độ tư hữu và giai cấp.
Theo Ph.Ăngghen thì chế độ tư hữu là nguồn gốc của các mâu thuẫn
giai cấp, đồng thời là đòn bẩy phá huỷ công xã cũ. Do đó, nghiên cứu về sự ra
đời của chế độ tư hữu và giai cấp là một trong những mục đích của ông khi
viết tác phẩm "Nguồn gốc của gia đònh, của chế độ tư hữu và của nhà nước".
Trong tác phẩm này, trên cơ sở khảo sát quá trình phát triển sự phân công lao
động xã hội ông đã chỉ ra những qui luật, điều kiện ra đời và tồn tại của chế

độ tư hữu và giai cấp.
Quá trình ra đời, phát triển và tồn tại của chế độ thị tư hữu gắn liền với
giai cấp. ở thời kỳ đầu, trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất còn kém
phát triển, công cụ lao động lúc này mới chủ yếu là bằng đá và gậy gộc, cung
tên .v.v., cuộc sống của con người phụ thuộc chặt chẽ vào tự nhiên, lao động
còn mang tính chất cộng đồng, của cải xã hội được phân phối theo hình thức
bình quân. Tài sản thuộc về cả cộng đồng xã hội, không ai có tài sản riêng,
mặt khác, tài sản lúc này không đáng kể, chủ yếu là các tư liệu sinh hoạt hằng
ngày như quần áo; đồ trang sức bằng xương thú, đá...Những tài sản có giá trị
như ruộng đất và nhà cửa thì do bộ lạc cùng chiếm hữu. Năng suất lao động
thấp, các sản phẩm khai thác từ tự nhiên mới chỉ đủ để duy trì sự tồn tại của
con người, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối. Chính vì vậy, trong xã hội
này chưa sự chiếm hữu tài sản làm của riêng, vì vậy, chưa xuất hiện khả năng
người bóc lột người, chưa thể có giai cấp.
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là việc xuất hiện công
cụ lao động bằng kim loại, năng suất lao động tăng lên, "sản xuất tăng lên ở
tất cả các ngành...làm cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất
29

Sđd. tr 128


được nhiều sản phẩm hơn số sản phẩm cần thiết cho sự duy trì sức lao động
của họ"30, điều này tạo ra khả năng cho người này có thể tước đoạt lao động
của người khác. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ
giữa con người với nhau về tài sản đã có những thay đổi nhất định, mặc dù
lúc này ruộng đất vẫn thuộc sở hữu công cộng, song người ta đã giành một
phần ruộng đất để "duy trì cơ cấu quản lý" và phục vụ các hoạt động tôn giáo.
Cá nhân và gia đình đã bắt đầu hình thành quyền chiếm hữu và quyền thừa kế
ở một mức độ giới hạn, đó là việc họ có quyền chiếm hữu và thừa kế những

tài sản mà họ đang sử dụng như nhà ở, vật dụng sinh hoạt và sản phẩm sản xuất được.
Vào cuối thời kỳ dã man, với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng
sắt, lực lượng sản xuất phát triển hết sức nhanh chóng, sản phẩm thăng dư của
xã hội đã tăng lên một cách nhanh chóng. Động vật nuôi, công cụ lao động và
đặc biệt là ruộng đất trở nên có giá hơn bao giờ hết, nó trở thành đối tượng để
người ta trao đổi, sở hữu và thừa kế. Lúc này, nhu cầu trao đổi và tước đoạt
sản phẩm lao động làm của riêng phát sinh - chế độ tư hữu ra đời. Chế độ tư
hữu ra đời làm xuất hiện tình trạng bất đồng về của cải giữa các thành viên
trong cộng đồng thị tộc. Trong xã hội ấy đã sinh ra những lớp người giàu
nghèo khác nhau và địa vị của họ trong thị tộc cũng khác nhau. Sự bất đồng
về tài sản đó tạo ra những mầm mống đầu tiên của các tầng lớp quí tộc, đã bắt
đầu hình thành sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa chủ nô và nô
lệ: "Sự chênh lệch về tài sản đã ảnh hưởng trở lại đến tổ chức quản lý bằng
cách tạo ra những mầm mống đầu tiên của giới quí tộc thế tập và vương
quyền thế tập; chế độ nô lệ lúc đầu chỉ thi hành đối với tù binh, đã mở ra triển
vọng nô dịch ngay cả những thành viên trong cùng một bộ lạc và thậm chí cả
những thành viên của chính ngay thị tộc mình nữa" 31. Lực lượng sản xuất thì
của cải làm ra ngày càng nhiều, nhu cầu về lực lượng lao động tăng lên, do đó
cần phải thu hút một lực lượng lao động đáng kể, tù binh trong các cuộc chiến
tranh trước đây bị giết thì nay bị biến thành nô lệ - chế độ chiếm hữu nô lệ ra
30
31

Sđd. tr 240
Sđd. tr 163


đời, theo Ph.Ăngghen thì: " Từ sự phân công xã hội lớn lần đầu tiên, đã nảy
sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô
lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột"32.

Thực tiễn lịch sử đã cho thấy quá trình hình thành và phát triển của giai
cấp gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của chế độ tư hữu. Chế độ
tư hữu và giai cấp ra đời bắt nguồn từ những nguyên nhân kinh tế, việc sở hữu
tư liệu sản xuất đặc biệt là ruộng đất, là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các
giai cấp.
Cùng với việc vạch ra nguồn gốc sự phát triển của chế độ tư hữu và
giai cấp, Ph.Ăngghen khẳng định rằng chế độ tư hữu và giai cấp cũng nhất
định rẽ mất đi. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn lực lượng sản xuất đạt
tới trình độ cao, lúc đó sự tồn tại của chế độ tư hữu và sự tồn tại của giai cấp
trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển nền sản xuất. Theo qui luật tiến hoá
của lịch sử thì nó sẽ bị xoá bỏ, ông viết: "Bây giờ, chúng ta đang bước nhanh
đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất, trong đó sự tồn tại của những giai
cấp nói trên không những không còn là một yếu tố nữa mà còn trở thành một
trở ngại trực tiếp sản xuất. Những giai cấp đó sẽ không tránh khỏi biến mất,
cũng như xưa kia, chúng đã không tránh khỏi xuất hiện"33.
3- Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và sự tiêu vong của nhà nước.
Nghiên cứu nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển, sự tiêu vong và bản
chất của nhà nước qua tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước" là bước phát triển mới trong việc hình thành quan điểm
mác-xít về nhà nước, đây là sự tiếp nối có hệ thống những tư tưởng duy vật về
nhà nước qua các tác phẩm kinh điển trước đó như "Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản", "Ngày 18 tháng Sương mù của Lu-i Bônapactơ", "Nội chiến ở
Pháp", “Chống Đuy-rinh” v.v..
Qua tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguồn gốc ra đời, điều kiện
tồn tại và phát triển của nhà nước. Từ những công trình nghiên cứu của mình
32
33

Sđd. tr 240
Sđd. tr 257-258



cũng như của các nhà bác học khác, ông đã chỉ ra rằng không phải khi nào xã
hội cũng có nhà nước. Trong thời kỳ đầu của lịch sử loài người, khi nền kinh
tế còn chưa phát triển, xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, thì tổ chức đầu
tiên để quản lý đời sống trong xã hội đó là thị tộc, bộ lạc. Người đứng đầu thị
tộc, bộ lạc là những tộc trưởng do các thành viên trong thị tộc, bộ lạc đó bầu
ra dựa trên cơ sở đạo đức và uy tín cá nhân của họ. Trong xã hội ấy, chưa có
pháp luật mà mới chỉ có những qui tắc tắc xử sự chung trên cơ sở tự giác thực
hiện của các thành viên, việc quản lý xã hội ấy dựa trên nền tảng của các giá
trị đạo đức và uy tín cá nhân. Do đó, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa
hình thành những thiết chế xã hội - chính trị để quản lý những hoạt động
chung của cả cộng đồng, nhưng xã hội vẫn tồn tại "trong vòng trật tự", ông
viết: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một
tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có
quí tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không
có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy"34.
Qua nghiên cứu sự tan rã của chế độ thị tộc của người Hy lạp, người La
Mã, người Giéc-manh và những tộc tộc người khác ở châu Á và châu Mỹ,
Ph.Ăngghen đã cho thấy rằng sự xuất hiện nhà nước bắt nguồn từ những lý do
sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà trước hết là của công
cụ lao động đã dẫn tới sự phân công lao động xã hội, năng suất lao động tăng
lên, của cải không những đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày mà đã dư
thừa, điều này làm nảy sinh việc chiếm hữu số của cải dư thừa này làm của
riêng - chế độ tư hữu ra đời. Sự ra đời của chế độ tư hữu gắn liền với nó là
quá trình phân chia xã hội thành những giai cấp đối lập là nguyên nhân trực
tiếp cho sự ra đời của nhà nước. Với sự xuất hiện chế độ tư hữu, chế độ công
hữu thị tộc bị tan rã cùng với nó là sự xuất hiện trong xã hội những giai cấp
có lợi ích kinh tế đối lập nhau, đó là nguồn gốc của những mâu thuẫn xã hội.

Để cho kết cấu của xã hội đó tồn tại mà không bị phá vỡ bởi các xung đột lợi
34

Sđd. tr 147


ích, đặt biệt là lợi ích của giai cấp thống trị thì việc hình thành nên những
thiết chế nhằm bảo vệ "trật tự xã hội" đó trong vòng ổn định là hết sức cần
thiết. Chỉ có nhà nước được tổ chức một cách chặt chẽ, có bộ máy cưỡng chế
với các công cụ bạo lưc như quân đội, cảnh sát, nhà tù,...mới thực hiện được
chức năng thống trị nhằm giữ cho xã hội phát triển trong vòng "trật tự".
Ph.Ăngghen viét: " Nhưng bây giờ, một xã hội mới đã ra đời, một xã hội do
toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó mà phải chia ra thành
những người tự do và nô lệ, thành những kẻ giàu có đi bóc lột và những người
nghèo khổ bị bóc lột, - một xã hội không những không thể lại điều hoà một
lần nữa những mặt đối lập đó, mà còn buộc phải đẩy chúng đi đến chỗ ngày
càng gay gắt. Một xã hội như vậy chí có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh
không ngừng và công khai giữa các giai cấp đó với nhau, hoặc là tồn tại dưới
sự thống trị của một lực lượng thứ ba, một lực lượng tựa hồ như đứng trên các
giai cấp đang đấu tranh với nhau, dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các
giai cấp ấy và tốt lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra chỉ trong lĩnh
vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức thị tộc đã lỗi thời.
Nó đã bị sự phân công và hậu quả của sự phân công ấy - tức là sự phân chia
của xã hội thành giai cấp - phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế" 35. Tiếp đó,
ông kết luận: "Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết
quả của những mâu thuẫn giai cấp không thể dung hoà, là sản phẩm của sự
phát triển bên trong của xã hội, là công cụ của một giai cấp nhất định - giai
cấp thống trị xã hội"35.
Thứ hai, cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, các cuộc chiến tranh
tranh giành đất đai, cướp bóc lẫn nhau, vai trò của thủ lĩnh trong trong các thị

tôc, bộ lạc được củng cố, địa vị kinh tế và địa vị chính trị của họ được xác lập.
Do chiến tranh để bảo vệ mình giữa các thị tộc, bộ lạc phải có sự liên kết lại,
hợp nhất với nhau trên cùng một lãnh thổ là hết sức cần thiết. Vai trò của thủ
lĩnh quan sự được đề cao, tuy nhiên, khác với vai trò của thủ lĩnh quân sự
35
35

Sđd. tr 251
Sđd. tr 255


trước đây đều do hội đồng thị tộc bầu ra, với quyền lực kinh tế và quân sự
trong tay, các thủ lĩnh quân sự đã thiết lập sự thống trị của mình một cách
tuyệt đối bằng hình thức thừa kế theo kiểu cha truyền con nối. Điều này đã
làm cho các cơ quan trong tổ chức bộ máy của thị tộc, bộ lạc tách rời và từng
bước đối lập với các thành viên trong cộng đồng. Thị tộc, bộ lạc từ chỗ là cơ
quan giải quyết công việc chung của cộng đồng, được thiết lập và vận hành
một cách dân chủ thì những cơ quan này " đã dần dần tách khỏi gốc rễ của
chúng trong nhân dân, trong thị tộc, bào tộc, bộ lạc; và toàn bộ tổ chức thị tộc
chuyển hoá thành cực đối lập với nó: từ chỗ là tổ chức của bộ lạc nhằm giải
quyết một cách tự do những công việc của mình, tổ chức thị tộc đã trở thành
một tổ chức để cướp bóc và áp bức láng giềng; và do đó, các cơ quan của nó,
lúc đầu là công cụ của ý chí nhân dân, đã trở thành những cơ quan độc lập
nhằm thống trị và áp bức ngay chính nhân dân "36.
Có thể nói rằng nhà nước sinh ra không phải là cơ quan để điều hoà các
mâu thuẫn giai cấp, trái lại, với sự xuất hiện của mình nó chứng minh rằng
những mâu thuẫn xã hội đã đến lúc chín muồi, Đó là, "sự thú nhận rằng xã
hội đó bị lúng túng trong một mối mâu thuẫn với bản thân mà không sao giải
quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể
điều hoà mà xã hội đó bất lực không loại bỏ được. Nhưng muốn cho những

mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không
đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu
tranh vô ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng rõ ràng là
đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột
đó nằm trong vòng "trật tự". Và lực lượng đó, nảy sinh từ xã hội, nhưng lại
đứng trên xã hội, chính là nhà nước"37
Như vậy, sự ra đời của nhà nước có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển
của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển làm xuất hiện chế độ tư
hữu và giai cấp - đây là những nguyên nhân cho sự xuất hiện của nhà nước.
36
37

Sđd. tr 245
Sđd. tr 253


Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan, nó phản ánh mức độ mâu thuẫn
của xã hội đã đến lúc chín muồi, giai cấp bóc lột không thể duy trì sự bóc lột
và thống trị xã hội nếu như không dựa vào một bộ máy bạo lực đặc biệt nhằm
trấn áp giai cấp bị bóc lột.
Khi nghiên cứu về bản chất của nhà nước Ph.Ăngghen cho rằng nhà
nước xuất hiện nhằm bảo vệ lơị ích của giai cấp thống trị, đo đó, nhà nước là
nhà nước của giai cấp thống trị, nó mang bản chất của giai cấp thống trị và
bản chất này bị qui định bởi các yếu tố kinh tế. Ông viết: "nhà nước có chức
năng cơ bản là kiềm chế những mâu thuẫn đối kháng giai cấp, giữ cho những
xung đột giai cấp ở trong vòng "trật tự " của sự thống trị. Song chủ yếu nhà
nước là công cụ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, đàn áp và nảy sinh ra
từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp, nhưng vì nhà nước đồng
thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên theo lệ
thường nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp thống

trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt
chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột
giai cấp bị áp bức"38.
Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của nhà nước. Theo
ông, so với tổ chức thị tộc trước kia thì đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở
chỗ phân chia thần dân của nó theo địa vực cư trú. Đây là dấu hiệu hết sức
quan trọng để phân biệt nhà nước với các hình thức tổ chức của thị tộc và bộ
lạc. Nếu như thị tộc và bộ lạc được hình thành dựa trên cơ sở của những quan
hệ huyết thống thì nhà nước được hình thành dựa trên sự phân chia dân cư
theo địa bàn lãnh thổ cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực trên địa bàn cư
trú đó, các thành viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên địa bàn
đó mà không kể họ thuộc thị tộc hay bộ lạc nào. Theo Ph.Ăngghen thì "Cách
tổ chức những công dân của nhà nước theo địa vực họ cư trú như thế, là một
đặc điểm chung của tất cả các nhà nước" 39. Đặc trưng thứ hai của nhà nước,
38
39

Sđd. tr 255
Sđd. tr 253


theo Ph.Ăngghen đó là nhà nước "thiết lập một quyền lực công cộng, không
còn trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa" 40. Quyền lực
công được thiết lập nó tách rời khỏi xã hội, nó thuộc về giai cấp thống trị, nó
" không phải chỉ gồm những người được vũ trang mà còn gồm những công cụ
vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và các loại cơ quan cưỡng bức mà tổ chức
xã hội thị tộc không hề biết đến"41. Khác với xã hội thị tộc, bộ lạc trước đây,
những người đứng đầu thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình bằng
truyền thống, uy tín và đạo đức thì khi nhà nước hình thành, giai cấp thống trị
có một công cụ hết sức hữu hiệu để thực hiện chức năng quản lý và duy trì sự

thống trị của mình đó là pháp luật. Pháp luật là những qui tắc ứng xử xã hội
chung do giai cấp thống trị thiết lập nên và được đảm bảo thực hiện bằng bộ
máy cưỡng chế như quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù... Quyền lực công cộng
này được sử dụng để đàn áp giai cấp bị bóc lột, nó được duy trì bằng sự đóng
góp vật chất bắt buộc của các thành viên trong xã hội đó là thuế má - điều mà
trước đây xã hội thị tộc, bộ lạc chưa biết đến.
Khi nghiên cứu vấn đề tiêu vong của nhà nước, Ph.Ăngghen cho rằng:
nhà nước ra đời và tiêu vong là một tất yếu lịch sử. Nếu như trong phần đầu
của tác phẩm ông đã chỉ ra điều kiện ra đời và tồn tại của nhà nước thì kết
thúc tác phẩm ông đã kết luận nhà nước sẽ tiêu vong khi mà cơ sở xã hội và
cơ sở kinh tế của nó không còn nữa. Ph.Ăngghen viết: “….nhà nước tồn tại
không phải mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà
nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả;
Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn
liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho nhà
nước trở thành một tất yếu. Bây giờ…sự tồn tại của những giai cấp nói trên
không những không còn là một sự tất yếu nữa, mà còn trở thành một trở ngại
trực tiếp cho sản xuất. Những giai cấp đó không tránh khỏi biến mất…Giai
cấp tiêu vong thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong theo. Xã hội sẽ tổ
40
41

Sđd. tr 253
Sđd. tr 254


chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa những người
sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật sự của nó
lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng
đồng”42.

4- Mục tiêu các cuộc cách mạng trong lịch sử
Theo Ph.Ăngghen, từ xã hội nguyên thuỷ chuyển sang chế độ chiếm
hữu nô lệ, xã hội loài người đã thực hiện một cuộc cách mạng với mục đích
kinh tế là xác lập quyền sở hữu, đó là sự thay thế sở hữu công cộng bằng một
hình thức sở hữu khác: sở hữu tư nhân. Cuộc cách mạng này được thực hiện
trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất đã dẫn tới những thay đổi về xã hội, quan hệ gia đình, quan hệ
thị tộc và cuối cùng là đến sự thay đổi về chính trị - ở đây là sự xuất hiện của
giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, với những mâu thuẫn "không thể điều
hoà được".
Chế độ tư hữu ra đời, giai cấp xuất hiện kéo theo đó là sự bất bình đẳng
về kinh tế và chính trị, xoá bỏ sự bất bình đẳng này nhằm xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn, là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng trong lịch sử, động lực
bên trong của các cuộc cách mạng này đều bắt nguồn từ những nguyên nhân
kinh tế. Lịch sử các cuộc cách mạng cũng là lịch sử đấu tranh nhằm thay đổi
chế độ sở hữu. Theo Ph.Ăngghen thì: “Từ trước tới nay, tất cả mọi cuộc cách
mạng đều là những cuộc cách mạng nhằm bảo hộ một loại sở hữu này chống
lại một sở hữu khác. Những cuộc cách mạng đó không thể bảo hộ loại sở hữu
này mà lại không làm thiệt hại đến loại sở hữu kia…Và thật vậy, tất cả những
cuộc cách mạng đầu tiên đến cuộc cách mạng cuối cùng đều được thực hiện
bằng cách tịch thu, cũng còn được gọi một cách khác và ăn cắp, một loại sở
hữu khác. Thật hoàn toàn đúng là từ hai nghìn năm trăm năm nay, sở hữu tư
nhân chỉ có thể được duy trì bằng cách xâm phạm vào quyền sở hữu mà
thôi"43.
42
43

Sđd. tr 257-258
Sđd. tr 173



Sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thuỷ được đánh dấu bằng việc
xuất hiện của sở hữu tư nhân, đó là sự chiến thắng của sở hữu tư nhân đối với
sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân được xác lập, xã hội có giai cấp thay thế
xã hội không có giai cấp là một tất yếu lịch sử, là một biểu hiện cho sự phát
triển của xã hội. Thắng lợi này được đánh dấu bằng sự xuất hiện của chế độ
chiếm hữu nô lệ, với những mâu thuẫn xã hội hết sức sâu sắc. Tuy nhiên,
trước sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, chế độ chiếm hữu nô
lệ tỏ ra không còn phù hợp nữa. Để mở đường cho sản xuất phát triển chế độ
phong kiến ra đời, thay thế chế độ nô lệ, theo Ph.Ăngghen đó cũng là một
cuộc cách mạng trong lịch sử bắt nguồn từ sự phát triển của kinh tế, với mục
đích kinh tế. Đây là sự thay đổi từ chế độ sở hữu tư hữu này sang một chế độ
sở hữu tư hữu khác. Bởi vì, “Chế độ nô lệ đã không còn có thể là cái hình thái
cơ bản của nền sản xuất xã hội, còn lao động của người dân tự do thì chưa có
thể trở thành hình thái cơ bản ấy. Chỉ có một cuộc cách mạng hoàn toàn mới
có thể giải quyết được bế tắc đó"44
Cũng như chế độ chiếm hữu nô lệ, sự phát triển của chế độ phong kiến
đến một lúc nào đó nó trở thành gánh nặng đè lên mọi giai tầng trong xã hội,
là rào cản sự phát triển sản xuất trong xã hội thì việc chế độ tư bản thay thế nó
là một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, là sự
thay đổi chế độ sở hữu phong kiến bằng chế độ sở hữu tư bản. Ph.Ăngghen đã
chỉ ra rằng: Trong cuộc đại cách mạng Pháp, người ta hy sinh sở hữu phong
kiến để cứu sở hữu tư sản. Tiếp đến, Ph.Ăngghen đã chỉ ra những mâu thuẫn
kinh tế, giai cấp, xã hội đang diễn ra dưới chế độ tư sản. Trong xã hội đó, sức
lao động của con người đã trở thành hàng hoá, nó được đem trao đổi và tiêu
dùng, người lao động vẫn là con người nô lệ, chí khác với trước kia là nô lệ
hiện đại mà thôi. Vì vậy, tình trạng mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc và
đấu tranh giai cấp không ngừng tăng lên. Nhà nước tư sản hiện đại dù được
nguỵ trang khéo léo dưới hình thức “nền cộng hoà dân chủ” hay hình thức
"đầu phiếu phổ thông"…thì cũng không thể che đậy được bản chất giai cấp

44

Sđd. tr 174


của nó là cơ quan quyền lực của giai cấp tư sản chuyên áp bức, bóc lột giai
cấp vô sản. Ông đã chỉ ra rằng: "sự diệt vong của xã hội đang đứng sừng sững
trước mặt chúng ta một cách đe doạ như là sự kết thúc của một quá trình lịch
sử mà của cải là mục đích cuối cùng và duy nhất, vì một qua trình phát triển
như vậy đang chứa đựng những yếu tố làm cho chính nó bị tiêu diệt" 45.Trên
cơ sở đó, Ph.Ăngghen khẳng định tính tất yếu của một cuộc cách mạng mới
dựa trên sức sản xuất phát triển cao. Cuộc cách mạng này sẽ thay đổi toàn bộ
trật tự xã hội: Xoá bỏ chế độ tư hữu và giai cấp, cơ sở của nhà nước không
còn tồn tại nữa, nhà nước sẽ tiêu vong, nền sản xuất của xã hội sẽ được thiết
lập lại trên cơ sở tự do và bình đẳng. Trong xã hội mới đó, quan hệ gia đình,
quan hệ giữa người và người sẽ thay đổi. Đó là, mối quan hệ bình đẳng và
hữu ái, xã hội đó L.Moóc-gan đã từng phác hoạ: “…Dân chủ trong công việc
quản lý, hữu ái trong xã hội, bình đẳng về quyền lợi, giáo dục phổ thông, tất
cả những thứ đó sẽ thần thánh hoá giai đoạn cao sắp tới của xã hội, mà kinh
nghiệm, lý trí và khoa học đang không ngừng vươn tới"46.
III. Ý nghĩa tác phẩm
1. Nghiên cứu tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và nhà nước” của Ph.Ăngghen giúp chúng ta có những căn cứ khoa học để
hiểu và bảo vệ những nguyên lý, những luận điểm của chủ nghĩa Mác trước
sự xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch.
Giai cấp tư sản thường tuyên truyền rằng quyền tư hữu là cái thiêng
liêng xuất hiện từ khi có xã hội loài người và nó sẽ tồn tại vĩnh viễn với cùng
với xã hội loài người; gia đình tư sản là hình thức gia đình ra đòi từ khi có xã
hội loài người, đó là gia đình bình đẳng, hạnh phúc, tự do; nhà nước là cơ
quan điều hoà các xung đột quyền lợi giữa các giai cấp cùng tồn tại trong một

thiết chế xã hội. là nhà nước có chế độ dân chủ tốt đẹp nhất, nó tồn tại vĩnh
viễn với quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, qua nghiên cứu,
tác phẩm này đã cung cấp cho chúng ta cơ sở khoa học để hiểu rõ quá trình ra
45
46

Sđd. tr 265
Sđd. tr 265


đời của gia đình, sự phát triển của các hình thức hôn nhân trong lịch sử; bóc
trần những bí mật của chế độ tư hữu và chỉ ra quá trình hình thành, phát triển
cũng như điều kiện tồn tại của chế độ tư hữu và giai cấp; sự tiêu vong của
nhà nước... Qua đó góp phần vạch trần, phê phán những luận điểm phản khoa
học, nguỵ biện và lỗi thời nói trên của giai cấp tư sản; xây dựng cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động những quan điểm đúng đắn nhằm lật đổ trật
tự tư sản, xây dựng chế độ xã hội mới, xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây
dựng quan hệ gia đình mới trên cơ sở tình yêu và hôn nhân tự nguyện; xây
dựng nhà nước mới – nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2. Tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước” đã bổ sung, làm phong phú những nguyên lý của chủ nghĩa Mác.
Đây là một công trình có ý nghĩa đối với nhiều ngành khoa học như
dân tộc học, nhân chủng học, xã hội học, chính trị học...Đặc biệt, tác phẩm
đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình phát triển có hệ thống và hoàn
thiện những luận điểm của chủ nghĩa Mác. Đó là, quan niệm về chủ nghĩa duy
vật lịch sử, cách mạng vô sản, động lực của các cuộc cách mạng trong lịch sử;
lý giải một cách khoa học về những hiện tượng xã hội và tiến trình phát triển
của lịch sử xã hội loài người.
Tác phẩm giúp chúng ta xây dựng những quan điểm đúng đắn về tình
yêu, hôn nhân và gia đình trong chủ nghĩa xã hội, cũng như xây dựng những

quan điểm đạo đức mới về lao động, về bình đẳng, bác ái giữa các dân tộc;
xây dựng quan điểm đúng đắn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng
được tình cảm cách mạng, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân.
3. Qua tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước” chúng ta học tập được một mẫu mực về phương pháp nghiên cứu khoa
học. Ph.Ăngghen đã kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp lô-gích với phương
pháp lịch sử, sử dụng tài liệu một cách chính xác để dựng lại hết sức tài tình,


sinh động quá trình phát triển của xã hội loài người qua các thời đại trên cơ sở
của sự phát triển sản xuất.
Qua tác phẩm này chúng ta còn học được ở Ph.Ăngghen một mẫu mực
về thái độ khách quan, trung thực của người nghiên cứu khoa học. Đó là, sự
trân trọng đối với những thành quả khoa học đương thời (Bắc-hô-phen, Mắc
Lê-man, L.Moóc-gan …), tiếp thu có phê phán những kết quả của họ. V.I
Lênin đã nhận xét: "có thể tin vào từng câu, có thể tin rằng mỗi một câu
không phải được nói một cách hời hợt, mà được viết trên cơ sở những đống
tài liệu lịch sử và chính trị khổng lồ"45
Cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen không bao giờ coi những quan điểm lý
luận của mình là tuyệt đích, là hoàn thiện. Khi có những phát kiến mới về
khoa học (những phát kiến của Bắc-hô-phen, của M. Cô-va-lép-xki...), ông đã
nghiên cứu nghiêm túc và không ngần ngại bổ sung và sửa chữa những thiếu
sót của mình. Những sửa chữa này đã được ông chú thích vào cuối trang trong
những lần tái bản sau đó. Có thể nói rằng đây là một mẫu mực của ngưòi làm
công tác khoa học, Ph.Ăngghen đã nêu một tấm gương sáng đó là tinh thần
cầu tiến, thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. Trong giai đoạn hiện
nay, trước yêu cầu phát triển lý luận chủ nghĩa Mác cho phù hợp với thực tiễn
cuộc sống của đất nước, đòi hỏi chúng ta cần phải không ngừng học tập
Ph.Ăngghen.

Đánh giá vai trò của tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước", V.I. Lênin cho rằng: đây là một trong những tác phẩm
của chủ nghĩa xã hội hiện đại; là cuốn sách gối đầu giường của những người
công nhân giác ngộ.

45

V.I Lênin, Toàn t?p, t?p 39, t.67, Nxb Mát-xco-va, 1981.



×