Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

NGUOI LAI DO SONG DA NGUYEN TUAN (TIET 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.1 KB, 4 trang )

KHểA CHUYấN LTH Cụ NGUYN THANH MAI

NGI LI ề SễNG - NGUYN TUN (tit 1)

Li m: Tu bỳt l mt th loi vn xuụi cú úng gúp ỏng k vo nn vn hc hin i nc nh.
Cú th k ra nhiu tỏc gi, tỏc phm thnh cụng th loi ny: Thch Lam vi H Ni bm sỏu ph
phng, Nguyn Trung Thnh vi ng chỳng ta i, V Bng vi Thng nh mi hai, Hong
Ph Ngc Tng vi Ngụi sao trờn nh Phu Vn Lõu, Rt nhiu ỏnh la, Ai ó t tờn cho dũng
sụng? V khụng th khụng k n ụng vua ca th tựy bỳt Nguyn Tuõn vi Ngi lỏi ũ Sụng .
I. Tỡm hiu chung
1. Tỏc gi: Nguyễn Tuân (1910 1987) Xut hin trờn n vn vo cui thp niờn 30 v u 40,
Nguyn Tuõn ó khng nh ngay lp tc tờn tui ca mỡnh mt vn phm gn nh t n s hon
thin v hon m ca mt phong cỏch vit: Vang búng mt thi. ễng c coi l cõy i th ca
rng u ngun Vit Nam th k 20 vi mt phong cỏch ngh thut ti hoa, c ỏo. Là cây bút tài
năng c truyện ngắn, nghiên cứu phê bình văn học, ký...Tuy nhiên, v-ơng quốc để Nguyễn Tuân
xõy nờn lâu đài nghệ thuật nguy nga tráng lệ là ở Tuỳ bút. Ng-ời lái đò sông Đà là minh chứng cho
sở tr-ờng của nghệ thuật ở thể tài tuỳ bút. Qua õy, ngi c cú th thy chõn dung ca mt cỏi tụi
ti hoa, uyờn bỏc m mi con ch không chỉ là lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn, ch
nng tấm lòng của nhà văn đối với đất n-ớc, con ng-ời. Chính tấm lòng yêu con ng-ời, yêu đất n-ớc
góp phần làm nên những trang văn thật tài hoa của Nguyễn Tuân: Nói chuyện với Ng-ời lái đò sông
Đà nh- càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông n-ớc". (Lời tác giả).
MOON.V N

2. Tỏc phm
2.1. Xut x, hon cnh ra i, ti, ngun cm hng
- Tựy bỳt Ngi lỏi ũ Sụng rỳt t tp Sụng gm 15 tựy bỳt v mt bi th phỏc tho, ra
i nm 1960 trong khớ th phn khi ho hựng ca nhng nm thỏng min Bc xõy dng ch ngha
xó hi. Khp t nc dy vang Ting hỏt con tu, sc sụi ting gi vng v t on thuyn ỏnh
cỏ. Chớnh nhng õm thanh y ó thi bựng lờn nhit tỡnh cỏch mng, gic gió bc chõn phiờu lóng
ca Nguyn Tuõn tỡm v vi mnh t min Tõy ca T Quc, khỏm phỏ cht vng ca thiờn nhiờn
v tõm hn dõn tc ỳc li trong thiờn tựy bỳtVit v dũng sụng a u t quc, dn nột trong


tõm khm Nguyn Tuõn l cm hng ngi ca, khng nh s thay i ca thiờn nhiờn t nc trong
thi kỡ i mi.
2.2. Th loi
Tựy bỳt l mt dng cú tớnh cht trung gian gia t s vi tr tỡnh, gia th vi vn xuụi, gia yu
t ch quan v khỏch quan,va cú tớnh cht ghi chộp (kớ), va cú cht th (tr tỡnh) va mang mu
sc trit hc trong t duy. Trong tu bỳt cng cú k chuyn, thut s. Nhng cỏi mch chớnh, u
tri lờn, luụn l tr tỡnh. ú l th vn t do, tng i phúng tỳng, nhng vn cú nguyờn tc ca
nú. Mt trong nhng nguyờn tc m ngi ta hay núi n l nguyờn tc kt cu: va tỏn, va t. B
mt cú v tn mn, nhng b sõu li nht quỏn v ý ngha, t tng, ch , to trc xuyờn sut nh
khi vuụng ru bớch. Tựy bỳt Nguyn Tuõn l nh cao tựy bỳt Vit Nam m qua ú, ta thy mt cỏi
tụi ti hoa, uyờn bỏc. Nu nh trc cỏch mng thỏng Tỏm, ụng vit v nhng con ngi c chng,
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
đặc tuyển thì giờ đây, những con người bé nhỏ, bình thường mà vĩ đại lại là nhân vật chính trong
sáng tác Nguyễn Tuân.
2.3. Giá trị của tác phẩm
+ Giá trị thông tin, tư liệu: công trình khảo cứu về Sông Đà, cung cấp những hiểu biết chân xác, lí
thú về Sông Đà, về lịch sử, địa thế, phong cách vượt thác của người lái đò, sự chuẩn bị của nhà nước
để chinh phục Sông Đà.
+ Giá trị văn chương.
II. Đọc hiểu văn bản
Giá trị đích thực của tác phẩm văn chương không phải chỉ qua việc phản ánh, khắc họa hiện thực mà
còn ở tầm tư tưởng, cảm xúc và những suy nghiệm sâu sắc về con người, về cuộc sống. Cái đẹp
của văn tuỳ bút Nguyễn Tuân thể hiện tập trung ở Người lái đò sông Đà, nhưng lòng yêu mến thiết
tha, thái độ trân trọng chế độ mới, cuộc sống mới và sự thay đổi căn bản trong quan niệm thẩm mĩ
chính là cái mạch ngầm tư tưởng, cảm xúc có ý nghĩa quyết định đối với công việc sáng tạo của
người nghệ sĩ. Khi phân tích, không chỉ chú ý làm nổi bật cái tôi tài hoa, uyên bác, cần hết sức lưu
tâm đến cái tôi dào dạt, tinh tế trong cảm xúc, chân thành gắn bó với đất nước và dân tộc của một

nhà văn từng có thời kì dài thoát li cuộc sống, chỉ ham mải miết trong xê dịch,….
1. Hình tượng Sông Đà
1.1. Tính cách hung bạo- vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ
MOON.V N

* Vị trí của nhân vật trong tác phẩm: Hình tượng trung tâm của tùy bút là người lái đò, nhưng
những trang đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân lại dành cho con sông mà ở đó, hình như cái ngông của
ngòi bút Nguyễn Tuân đã gặp gỡ với cá tính đặc biệt của sông như một cuộc hẹn hò từ lâu với đứa
con bướng bỉnh của bà mẹ Tây Bắc. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã trân trọng viết hoa
cả hai chữ Sông Đà. Sông nước xứ mình đã chảy bao nhiêu trên trang viết của Nguyễn Tuân, nhưng
chưa ở đâu, hình ảnh dòng sông lại hiện lên sống động như một sinh thể, có tâm trạng, có linh hồn,
có tên riêng trong khai sinh, có lai lịch và tính cách phức tạp, phong phú như sông Đà trên trang văn
của Nguyễn. Sự phức tạp ấy tập trung thể hiện ở hai phương diện mà Nguyễn Tuân gọi là hung bạo
và trữ tình.
* Biểu hiện của tính cách hung bạo, vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của Sông Đà
- Hiện lên qua lời đề từ: Thơ Nguyễn Quang Bích:“Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc
lưu”. Nét riêng của Sông Đà: thế chảy độc đáo, nghịch ngược, không giống ai của Sông Đà. Nguyễn
Tuân tìm thấy sự đồng cảm với cái “ngông” của thiên nhiên.
- Biểu hiện chủ yếu ở khúc thượng nguồn: lắm thác, nhiều ghềnh, độ dốc lớn, nước chảy xiết.
+ Bờ sông có những đoạn rất hiểm trở: Vách đá: “dựng vách thành”, hai bờ sừng sững như áp sát
nhau. Đó là vách đá hẹp, sâu, dốc thẳng đứng được đặc tả bằng một loạt các liên tưởng, so sánh cụ
thể, độc đáo: Mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Nó chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.
Đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua vách… Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang
bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh…ta có cảm giác thất
thần như ngước nhìn lên một tòa cao tầng nào đó vừa tắt phụt đèn điện. Chưa hết bàng hoàng, ta bị
cuốn theo những âm thanh man dại của âm thanh tiếng nước mặt ghềnh Hát Loóng
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

+ Âm thanh tiếng nước: Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt...Chúng ta vẫn hát Em có nghe thấy gió nói gì không? Và hình
dung tiếng gió dịu dàng trong lời thì thầm tình tự. Nhưng hẳn đó không phải là cái gió cuồn cuộn
như thành hình, gùn ghè (biến âm của hai tiếng gầm gừ và hầm hè chăng?) như thành tiếng. Một thứ
tiếng quỷ quái và ghê rợn: Thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Chưa thỏa, nhà văn còn tiếp tục tả
tiếng thác với muôn vàn giọng điệu: Nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…Thế rồi, nó bất thần Rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng- Những câu văn trùng điệp gợi không khí quay
cuồng, bỏng rát của một trận cuồng lửa, hủy diệt. Dùng lửa để tả nước, lấy rừng tả sông, đem những
yếu tố vốn tương khắc, giờ lại hòa hợp để tương sinh một so sánh độc đáo, gợi cảm là nhà văn muốn
nhấn mạnh đặc tính hủy diệt ghê gớm của Sông Đà. Câu văn có kết cấu trùng điệp, liên hoàn, nhịp
ngắn tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp, căng thẳng, từ ngữ cực tả trạng thái dữ dội gợi ấn tượng hãi
hùng, rùng rợn và sức tàn phá khủng khiếp. Dữ dội nhất phải kể đến những hút nước. Trông xa nó
giống như cái lúm đồng tiền trên má một cô nàng xinh xinh, nhưng kì thực nó là mồ chôn bao số
phận. Nguyễn Tuân đã đặc tả hút nước Sông Đà: sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm bằng những so
sánh đặc biệt:
+ Hút nước: Giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Mặt giếng xây
toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh. Cốc pha lê nước
khổng lồ. Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao
đến vài sải.. Kết hợp thủ pháp của văn học và thủ pháp của điện ảnh, Nguyễn Tuân đã truyền đến độc
giả cảm giác chân thực, sống động như tận mắt chứng kiến vẻ hung bạo một cách hùng vĩ của Sông
Đà.
MOON.V N

+ Đá: Sông Đà đã dàn bày thạch trận trên sông như một trận đồ bát quái bắt dìm bằng hết, bắt chết
bằng được bất cứ con thuyền nào qua đó. Thạch trận không chỉ có vẻ hung hãn, dữ dằn của vách đá,
hút nước mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt. Mặt sông Đà “cả một chân trời đá nó bày
thạch trận trên sông đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngay trên sông đòi ăn chết cái
thuyền”. Có những đoạn mặt ghềnh “nước xô đá đá xô sóng sóng xô gió cuồn cuộn những luồng

ghùn ghè suốt năm...”. Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, “nhăn nhúm”, méo mó. Nó đứng, ngồi, nằm,
nghiêng với những nhiệm vụ riêng, bày sẵn thạch trận thành ba tuyến. Bày ba trùng vi nhằm tước
đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con người: giở mọi thủ đoạn, mưu ma chước quỷ để dẫn dụ,
phục kích, đó là “binh pháp” sâu hiểm của “thần sông thần đá”. Chúng đã chọn khúc ngoặt – khi tầm
nhìn bị hạn chế để đánh phục kích, dụ người vào sâu thế trận, đánh quật vu hồi, cô lập hóa, chặn mọi
đường sinh. Khi giáp lá cà: giở mọi ngón đòn hiểm ác: nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, uy
hiếp tinh thần đối phương.
Với cách miêu tả mang cảm giác mạnh, nhà văn Nguyễn Tuân đã dựng nên một nét tính trội của
sông Đà đó là rất dữ dội hung bạo nhưng đồng thời nó cũng rất sống động như một sinh thể sống. Vì
thế tác giả thường gọi con sông Đà chứ ít gọi là dòng sông.
+ Tuy nhiên, để thấy hết cái dữ dội của Sông Đà, phải cùng ông bước vào trận thủy chiến với cả
một đội quân hùng hậu, đông đảo, dữ dằn, hung hãn của sông gồm có lực lượng: đá hậu, đá tướng, đá
tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi, tập đoàn cửa
sinh cửa từ, hệ thống boongke, pháo đài đá chìm nổi, lộ diện hay giấu mặt... Trùng vây thứ nhất có
bốn cửa tử, một cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng vào mình, mặt nước hò la vang dậy (…), ùa vào
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay ông lái, chúng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến, sóng nước như
quân liều mạng đội thuyền lên với vẻ hùng hổ, nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò
đòi lật ngửa mình giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, hung hăng như một đấu sĩ bất bại. Chúng
đã dùng đến miếng đòn hiểm độc nhất: luồng nước (..) bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Chúng muốn
giở ngón đòn hiểm hóc quyết định nhằm nốc ao đối phương.
- Trùng vây thứ hai, chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Chúng bộc lộ bộ mặt nham hiểm, xảo quyệt. Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sông đá- thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải
nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tử- dai dẳng, quyết liệt. Chúng không
ngừng khiêu khích. Trùng vây ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sống ở
ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…Dường như có bao nhiêu liên tưởng độc đáo, bao nhiêu sáng

tạo từ ngữ dồn chứa đã tụ hội về đây, tạo nên bức tranh sơn dầu hoành tráng với những mảng màu va
đập tới tấp làm náo động cả không gian. Bằng cách đó, Nguyễn Tuân đã bắt sự hung bạo phải hiện
lên thành hình khối, đường nét, âm thanh và muôn vàn chuyển động sống động.
* Dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân
- Về nội dung: Qua vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà, Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước say đắm
thiết tha của một người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ hào hùng của thiên nhiên Tây
Bắc. Đồng thời, cũng tạo nên bối cảnh không gian chuẩn bị cho sự xuất hiện của con người, nhấn
mạnh môi trường lao động đầy gian lao thử thách để ca ngợi con người. Khắc họa bản chất Sông Đà:
vừa “khắc nghiệt như dì ghẻ, chúa đất”, vừa hùng vĩ dữ dội để tạo ấn tượng về con sông mang diện
mạo một kẻ thù số một, thách thức đối với con người, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự.
MOON.V N

- Về nghệ thuật: Ngôn từ phong phú, sử dụng thuật ngữ, hệ từ vựng của nhiều ngành khoa học, nghệ
thuật khác nhau (quân sự, võ thuật, thể thao…) để diễn tả tính chất cuộc đấu tranh giữa con người –
tự nhiên: quyết liệt, căng thẳng, một mất một còn. Cảm xúc dạt dào, tinh tế.
* Tiểu kết: Mặc dù hình tượng nổi bật trong tác phẩm là người lái đò nhưng xuyên suốt tác phẩm là
hình tượng rất riêng của con sông Đà. Nếu như thần thoại “Sơn Tinh, Thủy Tinh” lý giải cái hung
bạo, khắc nghiệt của Sông Đà bằng tư duy cổ sơ “năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Nguyễn
Tuân lại dựng lên vẻ đẹp dữ dội, hung bạo, hùng vĩ của Sông Đà bằng những trang văn cụ thể,
chân xác, giàu liên tưởng. Qua đó, có thể thấy niềm say mê của Nguyễn muốn dùng chữ nghĩa để tái
tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người, tình yêu thiên nhiên đắm say
và tinh thần dân tộc. Một tấm lòng dào dạt với cuộc sống mà Nguyễn Tuân đã hòa nhịp bằng trái tim
chân thành của một nghệ sĩ tài hoa.

- hotline: 04.32.99.98.98



×