11 nâng cao
Câu 1.Viên quản ngục có điểm gì khiến Huấn Cao trân trọng mà cho chữ
A. Biết ngưỡng mộ bậc anh hùng
B. Biết nhẫn nhòn trước những lời khinh bạc của Huấn Cao
C. Biết trân trọng tài hoa và cái đẹp
D. Đối xử tử tế với những tên tử tù
Câu 2: Trong những phương án sau, đoạn nào Chí Phèo thấy lòng mơ hồ buồn, vui lẫn
lộn, thậm chí đã “ Khóc”, đã “ cười” như trẻ con?
A. Đoạn kể về cơn tỉnh rượu và những ngày sống hạnh phúc bên Thò Nở.
B. Đoạn kể về cuộc ăn vạ khi mới ở tù về.
C. Đoạn kể về cơn say ở nhà Tự Lãng
D. Đoạn kể về cơn ấm đầu của Bá Kiến và hành vi báo thù của Chí Phèo.
Câu 3: Thủ đoạn nào của Bá Kiến tỏ rõ sự độc ác, nham hiểm hơn cả?
A. “ Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”.
B. “ Bám lấy thằng có tóc không ai bám thằng trọc đầu”.
C. “ Mềm nắn rắn buông”.
D. Dùng “ thằng đầu bò” để “trò thằng đầu bò”.ø
Câu 4: Ở Thò Nở có đủ mọi cái thua thiệt kém cỏi: nghèo, xấu, dở hơi, thuộc dòng họ
nhà có mả hủi,..nhưng người đàn bà ấy vẫn quá tầm vưói chí Phèo. Thể hiện điều đó,
Nam Cao nhằm:
A. Chế giễu những người đàn bà như Thò Nở
B. Chế giễu những gã lưu manh như Chí Phèo.
C. Tô đậm cái bi đát trong số phận Chí Phèo.
D. Làm cho chuyệncó vẻ oái ăm kì thú.
Câu 5. Huấn Cao có những tài năng nào
A.Lãnh đạo cuộc khởi nghóa viết chữ đẹp
B. Viết chữ nhanh và đẹp bẻ khóa vượt ngục
C.Tháo xiềng vượt ngục viết chữ nhanh
D. Cầm quân viết tứ bình bẻ khóa
Câu 6: Viên quản ngục trong truyện ngắn: Chữ người tử tù” có điểm gì khiến Huấn
Cao trân trọng mà cho chữ?
A. Biết ngưỡng mộ bậc anh hùng
B. Biết nhẫn nhục trước những lời khinh bạc của Huấn Cao.
C. Biết trân trọng tài hoa và cái đẹp
D. Đối xử rử tế với những kẻ tử tù.
Câu 7 : Nếu Huấn Cao không cho chữ quản ngục thì điều gì chắc chắn sẽ xảy ra?
A. Hình tượng Huấn Cao sẽ không trọn vẹn tư tưởng của truyện không phát triển
được.
B. Viên quản ngục sẽ sống tàn nhẫn để trả thù.
C. Viên quản ngục sẽ coá quna về quê, ăn năn hối lỗi.
D. Huấn Cao không có cơ hội thể hiện tài năng lần cuối, không có cơ hội khuyên nhủ
quản ngục.
Câu 8: Tình huống nào là tình huống trào phúng chính của đoạn trích Hạnh phúc một
tang gia ?
A. Mọi người vui mừng khi nghó đến món tiền mà mình sẽ được chia từ gia tài của cụ
cố tổ.
B. Lo chuyện cưới xin của cô Tuyết trong khi cụ cố tổ vừa chết.
C. Mọi người chỉ nghó đến việc lo tang phục mà không nghó đến việc tổ chức đám ma
cho người chết.
D. Sự băn khoăn của ông Văn Minh về việc lo trả ơn cho Xuân tóc đỏ vì có công gây
nên cái chết của cụ tổ.ù
Câu 9 : Qua đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” Vũ Trọng Phụng đã phê phán
mạnh mẽ:
A. Bản chất giả dối, sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ngày trước
B. Bọn người bất hiếu mất hết tính người trong gia đình cụ cố Hồng.
C. Lối sống chạy theo thời của những con người thượng kưu ngày trước.
D. Những con người bất tài nhưng vì biết lợi dụng cơ hội nên trèo lên được đỉnh cao
của vinh quang, quyền lực và tiền bạc.
C©u 10: Søc hÊp dÉn cđa trun Th¹ch Lam chđ u to¸t ra tõ ®©u:
a. T×nh hng sù kiƯn
b. C¸c xung ®ét
c. TÝnh c¸ch sè phËn nh©n vËt
d. ThÕ giíi néi t©m cđa nh©n vËt
Câu 11 : Trong các tác phẩm sau, tác phẩm nào là thơ trữ tình:
1 Thương vợ, 2 Hầu trời, 3 Vònh khoa thi Hương, 4 Khóc Dương Khuê, 5 Tự tình, 6 Câu
cá mùa thu, 7 Mồng hai tết viếng cô Kí.
A. 1, 4, 5, 6 B. 1, 3, 5, 7 C. 2, 4, 6, 7 D. 3, 4, 5, 7.
C©u 12 : Trong trun ng¾n Hai ®øa trỴ , ba bøc tranh liªn hoµn miªu t¶ phè
hun trong nh÷ng thêi gian nµo ?
A : S¸ng , chiỊu , tèi
B : ChiỊu , chËp tèi , ®ªm khuya
C : Tra , chiỊu , tèi
D : S¸ng , tèi , ®ªm khuya.
Câu 13 : Ý nào sau đây không đúng?
A. Trong câu ghép chính phụ, vế câu bắt đầu bằng từ “ tuy” luôn là vế câu mở đầu.
B. Thành phần phụ chú phải đứng sau liền kề những từ ngữ, những ý mà nó giải thích.
C. Trong câu ghép chính phụ, vế câu nêu nguyên nhân có thể đứng đầu hoặc đứng sau
vế câu kết quả.
D. Vò trí của trạng ngữ trong câu có ảnh hưởng đến nội dung thể hiện cảu câu.
Câu 14 : Trong trích đoạn Vónh biệt Cửu Trùng Đài của vở kòch Vũ Như Tô” mỗi lần
nghe nói đến Cửu Trùng Đài bò phá, Vũ Như Tô đều nói “ Vô lí”. Câu nói đó có ý nghóa
gì?
A.Vũ Như Tô tin tưởng vào khả năng cảm nhận nghệ thuật của mọi người và ông luôn
nghó mọi người sẽ cùng ông gìn giữ công trình kiến trúc “ tranh tinh xảo với tạo hoá” này
B.Người nghệ só này không tin người đời lại dám phá bỏ một công trình kiến trúc tinh xảo
như vậy.
C.Người nghệ só này luôn tin rằng mọi người đều ủng hộ ông và xem Cửu Trùng Đài là
một kì công cần phải gìn giữ.
D. Vũ Như Tô không bao giờ nghó rằng người ta lại có thể đang tâm phá vỡ một công
trình kiến trúc tuyệt mó như thế.
C©u 15: Truyện Hai đứa trẻ không nhằm tái hiện gợi tả thành công bức tranh nào?
a. Bức tranh quê hương giàu chất thơ
b. Bức tranh ngoại cảnh và tâm hồn dệt bằng cảm giác
c. Bức tranh hiện thực về cuộc sống dân nghèo phố huyện
d. Bức tranh hòa phối tự nhiên về sắc độ ánh sáng và bóng tối
C©u 16 : T©m tr¹ng Liªn khi chiỊu bu«ng xng n¬i phè hun
A : Mn nhËp bän víi tơi trỴ ®Ĩ n« ®ïa
B : Nhê Hµ Néi
D : N«n nãng chê ®ỵi chun tµu ®ªm
C : Bn man m¸c
Câu17 : Rô mê ô trong đoạn trích Tình yêu và thù hận đã gọi Giu li et là gì?
A. Mặt trời, vừng dương, cô hầu của Hằng Nga.
B. Phương đông, Hằng Nga, mặt trời.
C. Vừng dương, Hằng Nga, mặt trời.
D. Vừng dương, cô hầu của Hằng Nga, phương Đông.
Câu 18: Xung đột chính của vở kòch Rô mê ô và Giu li ét là gì?
A. Tình yêu và mối thù dòng họ.
B. Mối thù hận giữa hai dòng họ.
C. Tình yêu tự do và quan niệm phong kiến về hôn nhân.
D. Sự phân biệt sang hèn trong xã hội.
Câu 19: Hoàn cảnh sáng tác của một tác phẩm văn học là:
A. Bối cảnh văn hoá, bao gồm toàn bộ những nhân tố xã hội đòa lí kinh tế văn
hoá phong tục…khi tác phẩm đó được thai nghén và ra đời.
B. Toàn bộ những nhân tố xa hội, đòa lí kinh tế văn hoá, phong tục mà tác phẩm đó thể
hiện.
C. Tình hình lòch sử xã hội khi tác phẩm xuất hiện và vấn đề lòch sử mà tác phẩm đó
muốn thể hiện.
D. Bối cảnh đặc biệt tạo nên cảm hứng sáng tạo cho nhà văn.
Câu 20. Hiện thực được nói tới trong câu nói của An với Liên : “ Tàu hôm nay không
đông chò nhỉ “ là:
A. Nhận xét với Liên về đoàn tàu vừa đi qua: tàu đêm nay không đông khách như
những đêm trước.
B. Tại chõng tre trước cửa hàng nhỏ xíu của chò em Liên. Đêm khuya. Đoàn tàu phố
huyện gây nên xáo trộn nhỏ nơi con phố vốn vắng vẻ, tónh lặng.
C. Thông báo vóùi Liên đoàn tàu đã đến và đã đi qua. Đồng thời thể hiện nỗi buồn của
An vì sự thưa thớt khách trên tàu.
D. Xã hội Việt Nam vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. Lúc đó, đời sống
của người dân nghèo khổ, lam lũ nhiều.
Tản Đà
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Tản Đà (1988-1939)
Tản Đà (1888–1939) là một thi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia lãng mạn người Việt Nam. Trên văn đàn của văn học
Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi
dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất
nước, ông để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp
chí. Ông được đánh giá là người mở đầu cho thơ mới của văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn
học cổ điển và hiện đại". Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn dịch thơ Đường và được biết đến như một người
dịch thơ Đường sang thơ lục bát hay nhất Việt Nam.
Mục lục
[giấu]
• 1 Cuộc đời và sự nghiệp
• 2 Danh ngôn
• 3 Tác phẩm
• 4 Liên kết ngoài
[sửa] Cuộc đời và sự nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại
làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây; nay là huyện Ba Vì (một thời thuộc ngoại thành Hà Nội, nay
thuộc tỉnh Hà Tây).
Ông xuất thân trong một gia đình phong kiến quan lại. Thân sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, làm
đến Án sát và từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là đào Nghiêm, vốn là
một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.
Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà
Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi hương ở Nam Định, bị hỏng. Năm 1912, đi thi
khoa Nhâm Tý, vẫn hỏng. Trở về Hà Nội, chứng kiến người yêu là cô Đỗ thị đi lấy chồng, ông chán nản bỏ về
Hòa Bình tìm khuây lãng; rồi cùng bạn là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi lên chùa uống rượu, làm thơ và thưởng
trăng, sống theo lối "tịch cốc".
Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định
chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch
Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển.
Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện "Thề non nước". Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu
Thanh tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm, sau tập hợp
với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục.
Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một
chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo.
Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), nhưng bị quan lại địa phương gây
khó dễ, phải xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển
sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn.
Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau vì bị viên quan Tổng đốc
Hà Đông thù ghét, phải chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý
số Hà lạc. Ông sống nghèo đói, không đủ ăn và trả tiền nhà, bị chủ nhà tịch thu đồ đạc và đuổi đi, Tản Đà phải
cùng gia đình dọn về phố Cầu mới.
Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng trên báo Ngày nay, trong đó có bài Hoàng Hạc lâu nổi
tiếng của Thôi Hiệu.
Ông qua đời vì bệnh vào ngày 17 tháng 6 năm 1939.
Đêm đông hoài cảm (Tản Đà, Việt Nam)
Thể thơ: Song thất lục bát (thời kỳ: Cận đại)
Đã được xem 362 lần
Đăng bởi Điệp luyến hoa vào 21/10/2005 19:48
Đã sửa 1 lần, lần sửa cuối bởi Điệp luyến hoa vào 27/05/2006
07:39
Bầu chọn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5
Thao tác
Thao tác
Gửi cho bạn
Xuất RSS
Trăm năm nghĩ đời người có mấy
Một đêm đông sao thấy dài thay!
Lạnh lùng gió thổi sương bay
Chập chờn giấc bướm canh chầy lại canh.
Ngó trên án đèn xanh hiu hắt,
Nghe tiếng kim kí cách giục giờ,
Đêm trường nghĩ vẩn lo vơ
Cái lo vô tận bao giờ là xong!
Thân nam tử đứng trong trần thế
Cuộc trăm năm có dễ ru mà!
Có đời mà đã có ta
Sao cho thân thế không là cỏ cây,
Đường có kẻ đường mây gặp bước,
Bước công danh sấn trước trèo cao
Thế gian tỏ mặt anh hào
Muôn nghìn mắt miệng trông vào ngợi khen.
Cũng có kẻ tài hoa chữ lợi
Trắng hai tay làm nổi nên giàu
Chẳng khanh tướng, chẳng công hầu
Cũng bao vạn kẻ cúi đầu vào ra.
Ấy những hạng vinh hoa phú quý
Làm tài trai đắc chí hơn người
Trăm năm nghĩ cũng nên đời
Trăm năm rồi nữa, biết rồi ra sao?
Lại những kẻ chí cao tài thấp
Bước đường đời lấp vấp quanh co
Phong lưu rồi đủ ấm no
Kém ra lưu lạc giang hồ cũng thân!
Nghĩ qua thử thách trần bao kẻ
Giật mình cho thân thế trăm năm,
Mối đâu bối rối tơ tằm
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng?
Bước lận đận thẹn cùng sông núi
Mớ văn chương tháng lụi năm tàn
Lụy trần ngày tháng lan man
Nỗi lòng riêng nghĩ muôn vàn càng thêm.
Đèn hiu hắt tiếng kim kí cách
Mõ sang canh giục khách đòi cơn
Mạch sầu canh vắng như tuôn,
Nhớ ai nước nước non non bạn tình!
Đề khối tình con thứ nhất (Tản Đà, Việt Nam)
Thể thơ: Thất ngôn bát cú (thời kỳ: Cận đại)
Đã được xem 301 lần
Đăng bởi Điệp luyến hoa vào 21/10/2005 18:31
Bầu chọn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5
Thao tác
Thao tác
Gửi cho bạn
Xuất RSS
Chữ nghĩa Tây, Tầu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy,
Một mối tơ tằm mấy đoạn vương.
Có kẹo có câu là sách vở,
Chẳng lề chẳng lối cũng văn chương.
Còn non còn nước còn trăng gió,
Còn có thơ ca bán phố phường.
Còn chơi (Tản Đà, Việt Nam)
Thể thơ: Thơ mới bảy chữ (thời kỳ: Cận đại)
Đã được xem 257 lần
Đăng bởi Điệp luyến hoa vào 21/10/2005 19:26
Đã sửa 1 lần, lần sửa cuối bởi Điệp luyến hoa vào 27/05/2006
07:26
(4 điểm, 1 người bầu)
Bầu chọn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5
Thao tác
Thao tác
Gửi cho bạn
Xuất RSS
Ai đã hay đâu tớ chán đời
Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi.
Chơi cho thật chán, cho đời chán,
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi.
Nói thế, can gì tớ đã thôi ?
Đời đương có tớ, tớ còn chơi
Người ta chơi đã già đời cả
Như tớ năm nay mới nửa đời.
Nửa đời chính độ tớ đương chơi
Chơi muốn sao cho thật sướng đời.
Đời người ai có chơi như tớ
Chơi cứ bằng văn mãi chửa thôi.
Chơi văn sướng đến tớ là thôi,
Một mảnh trăng non chiếu cõi đời
Văn vận nước nhà đương buổi mới
Như trăng mới mọc tớ còn chơi.
Làng văn chi thiếu khách đua chơi,
Dan díu ai như tớ với đời ?
Tớ đã với đời dan díu mãi,
Muốn thôi, đời cũng chửa cho thôi.
Đời đương dan díu, chửa cho thôi
Tớ dám xa xôi để phụ đời ?
Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ,
Nhớ đời nên tớ vội ra chơi.
Tớ hãy chơi cho quá nửa đời
Đời chưa quá nửa tớ chưa thôi.
Tớ thôi, tớ nghĩ buồn cho tớ,
Buồn cả cho đời vắng bạn chơi.
Nào những ai đâu bạn của đời ?
Sao mà bỏ vắng ít ra chơi ?
Chờ ai, chờ mãi, ai đâu tá ?
Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi ?
Nếu tớ như ai cũng ngán đời
Đời thêm vắng bạn, lấy ai chơi ?
Cuộc đời tớ nghĩ chưa nên ngán.
Nên ngán thời xưa tớ đã thôi.
Tớ nhớ năm xưa nửa ngán đời,
Nghĩ đi nghĩ lại, lại ra chơi.
Mê chơi cho tớ thành dan díu,
Đời dẫu cho thôi tớ chửa thôi.
Tớ muốn chơi cho thật sướng đời,
Đời chưa thật mãn, tớ chưa thôi.
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng ?
Dù chóng hay lâu, tớ hãy chơi.
Trăm năm: tớ độ thế mà thôi,
ức triệu ngàn năm chửa hết đời.
Chắc có một phen đời khóc tớ
Đời chưa khóc tớ, tớ còn chơi.
Trăm năm còn độ bảy mươi thôi,
Ngoài cuộc trăm năm tớ dặn đời:
ức triệu ngàn năm đời nhớ tớ,
Tớ thôi tớ cũng hãy còn chơi!
Bút đã thôi rồi lại chửa thôi,
Viết thêm câu nữa hỏi đời chơi:
"Lộng hoàn " này điệu từ đâu trước ?"
Hoạ được hay không, tớ đố đời!
TẢN ĐÀ - đặt vấn đề
Wednesday, 24. January 2007, 03:51:15
Văn học giao thời
Nghiên cứu trước tác của các tác giả văn học giao thời thấy nổi lên hai đặc điểm cơ bản sau:
-số lượng các tác phẩm không nhiều, không có những tác phẩm có giá trị kết tinh nghệ thuật ở trình độ cao.
-vì nhiều lý do khác nhau, không có nhiều những nhà văn mà quá trình sáng tác kéo dài trong suốt giai đoạn
văn học. Có lẽ đây là những đặc điểm tất yếu của một nền văn học chưa thực sự được chuyên nghiệp hóa như
ở giai đoạn sau này.
Đặt trong tương quan ấy mới thấy hết ý nghĩa văn học sử của hiện tượng Tản Đà. Cùng với Phan Bội Châu,
sáng tác của Tản Đà kéo dài trong hầu khắp giai đoạn giao thời. Cũng như Phan Bội Châu, sáng tác của Tản
Đà trải trên nhiều thể loại khác nhau. Cả hai, bằng những cách thức khác nhau, dường như là sự kiểm tra, tổng
duyệt lại năng lực biểu đạt nghệ thuật của toàn bộ hệ thống thể loại văn học truyền thống trước những đòi hỏi
mới mẻ nảy sinh từ thực tiễn đời sống văn học. Điều này lý giải vì sao trong tất cả các bộ văn học sử, cùng với
Phan Bội Châu, Tản Đà luôn được nhắc tới như một tác gia quan trọng của giai đoạn văn học giao thời. Mặt
khác, so với Phan Bội Châu, sáng tác của Tản Đà gắn chặt với môi trường đô thị - chịu những tác động của thị
hiếu độc giả trong một môi trường mà văn học đã trở thành hàng hóa, viết văn trở thành một nghề với những
trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ. Mọi miêu tả và phác thảo về lộ trình hiện đại hóa văn học đều không thể bỏ
qua sự hiện diện của Tản Đà với tư cách là điểm chuyển giao giữa truyền thống và hiện đại. Tất cả những lý
do trên khiến vị trí văn học sử của Tản Đà được quyết định không phải chỉ bởi ông là một cá tính và tài năng
nghệ thuật lớn mà còn bởi từ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tản Đà người nghiên cứu có thể tìm ra những
vấn đề chung mang tính quy luật cho toàn bộ giai đoạn văn học này.
TẢN ĐÀ - I. Tiểu sử và con người
Wednesday, 24. January 2007, 03:57:09
Văn học giao thời, Tản Đà
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25-5-1889 (20 tháng 4 năm Kỷ sửu, Thành Thái nguyên niên)
tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn tây nay là thôn Khê thượng, xã Sơn đà, huyện Ba vì - Hà tây.
Nguyên quán của Tản Đà ở làng Lủ (tức Kim Lũ) huyện Thanh trì - Hà Nội.
Dòng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông -Nguyễn Danh Kế đỗ cử nhân, làm quan
đến chức Án sát Ninh bình. Anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, làm tri
huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức Giáo thụ.
Mẹ Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc Nam định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ
Xuân Trường. Bà là người hát hay và có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trái út của cuộc lương duyên giữa tài
tử và giai nhân này.
Cuộc đời của Tản Đà trải nhiều khóc cười. Lên 3 tuổi, bố mất. Năm sau, vì bất hòa với gia đình chồng, bà Nhữ
Thị Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Mặc dù ngay từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn
tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ông không qua
được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ
trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ sang một ngả khác.
Năm 1915, Tản Đà có tác phẩm đăng trên Đông dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chóng có được
tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của một người
viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ông liên tiếp
cho xuất bản các tác phẩm: Khối tình con I(1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài
gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922),
Thề non nước (1922), Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của Đoàn Tự Thuật và
dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924).
Từ năm 1926 đến 1933 ngoài việc xuất bản một số tác phẩm: Giấc mộng con II, Giấc mộng lớn (1932) và in
lại thơ văn cũ Tản Đà bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương “có bóng
mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà Nho Tản Đà với môi trường đô thị bắt đầu bộc lộ rõ rệt. Tờ An
nam tạp chí, bất chấp những tâm huyết của ông chủ báo ngất ngưởng, liên tục bị đình bản vì lý do tài chính và
đến năm 1933 (sau 6 lần tái bản rồi đình bản) thì đình bản hẳn. Lần vấp ngã này khiến Tản Đà thực sự chán
nản và sự nghiệp của ông cũng đi vào giai đoạn thoái trào. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời Tản Đà làm
trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà
lạc...Cũng vì sinh kế mà Tản Đà phải trôi dạt nhiều nơi: vào Nam, ra Hà nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về
Hà Đông. Ông mất tại Ngã tư Sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con mà theo