Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận chứng khoán những nguồn lợi tiềm năng khi nắm giữ chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.86 KB, 18 trang )

Đề bài
Câu 1: Các loại chứng khoán và cơ sở ra đời của chúng.
Câu 2: Những nguồn lợi tiềm năng khi nắm giữ chứng khoán (cổ phiếu, trái
phiếu).
Câu 3: Tại sao trong thực tế chứng khoán chưa phải là sự lựa chọn hàng đầu của
công chúng có tiền và của các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Giải pháp
thực tế để giải quyết vấn đề.

Bài làm
Câu 1: Các loại chứng khoán và cơ sở ra đời của chúng.
Các loại chứng khoán:
Chứng khoán là các giấy tờ có giá (giấy tờ có giá là những giấy tờ liên quan đến
quyền sở hữu, mà nếu không co giấy tờ đó thì quyền sở hữu không được thực
hiện). Ngày nay, quyền sở hữu được xác nhận bằng ghi sổ, bằng dữ liệu điện tử.
Ở Việt Nam: Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán
được thể hiện chứng chỉ, bút toán ghi sổ, hoặc dữ liệu điện tử.
Lúc đầu chứng khoán chỉ là các văn tự nợ (trái khoán): Trái phiếu chính phủ, Tín
phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ tiền vay có thể chuyển đổi, trái phiếu công
ty. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần dẫn đến sự ra đời của các loại chứng
khoán cơ bản. Mua bán chứng khoán dẫn đến sự xuất hiện của các chứng khoán
phái sinh.
Các loại chứng khoán cơ bản: trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán phái sinh, chứng
chỉ quỹ.
1.

Trái phiếu
Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ do chủ thể đi vay phát hành (văn tự nợ đảm bảo
chủ thể phát hành hoàn trả lượng vốn đã vay & Z sau một thời hạn)





Một số đặc điểm của trái phiếu
o 2 chủ thể phát hành chính:
 Chính phủ (TW, ĐP)
 Công ty (VN gần như không có)
o Thời gian đáo hạn
 Ngắn hạn (1 ÷ 5 năm)
 Trung hạn (5 ÷ 10 năm)
 Dài hạn (>12 năm)
Thời gian đáo hạn của trái phiếu quan trọng vì 3 lý do:
- Nó cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu có thể mong đợi
nhận được các khoản thanh toán lãi định kỳ, và cho biết số năm trước khi
khoản vay gốc được hoàn trả toàn bộ.
- Lợi tức của một trái phiếu tùy thuộc vào thời hạn cua nó.
- Giá của trái phiếu sẽ biến đổi qua quãng đời của nó khi lãi suất trên thị
trường thay đổi - tính biến động của giá trái phiếu phụ thuộc vào thời gian
đáo hạn của nó. Nếu các yếu tố khác không đổi, thời gian đáo hạn càng dài,
tính biến động giá của trái phiếu càng lớn trước một sự thay đổi của lãi suất



thị trường.
o Mệnh giá, lãi suất cuống phiếu
 Mệnh giá trái phiếu là lượng tiền ghi trên mặt trái phiếu
(số tiền người phát hành sẽ trả lại thời điểm đáo hạn)
 Z’ cuống phiếu (Z’ danh nghĩa) là Z’ mà người phát hành đồng
ý trả hàng năm cho người nắm giữ trái phiếu
Z cuống phiếu = Z’ cuống phiếu x mệnh giá
Chú ý: Thực tế có trường hợp Z cuống phiếu được trả ngay

bằng cách bánh TP với giá thấp hơn mệnh giá
Z cuống phiếu = Mệnh giá - Giá mua trái phiếu
Các loại trái phiếu
o Trái phiếu vô danh
 Trái phiếu không ghi danh & không lưu danh trái chủ
 Đến kỳ nhận Z, mang TP đến ngân hàng nhận Z
 Khi đáo hạn người nắm giữ TP đến NH lấy tiền gốc.
o Trái phiếu ghi danh


Ghi tên, địa chỉ trái chủ, vốn gốc hoặc cả vốn gốc & Z trên
chứng chỉ & số của người phát hành.
 Hình thức ghi số là phổ biến nhất.
 Ngày nay TP “ghi số” được lưu giữ bằng máy tính.
Trái phiếu chính phủ (TW,ĐP) phát hành để:
 Bù đắp thâm hụt ngân sách
 Tài trợ các công trình KT-XH
 Điều tiết tiền tệ!
 Ít rủi ro, thanh khoản cao, Z trái phiếu chính phủ là Z cơ sở


o

Trái phiếu công ty là những trái phiếu do các công ty phát hành để vay
vốn dài hạn. Đặc điểm chung của trái phiếu công ty là:
- Người nắm giữ trái phiếu được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song
không được tham dự vào các quyết định của công ty. (Cũng có những trái phiếu
không trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được
nhận lại mệnh giá).
- Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước

các cổ phiếu.
- Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho
khoản vay.
- Có nhiều loại:





2.

Cổ phiếu

TP có bảo đảm (công ty vay có thế chấp)
TP không có bảo đảm (TP tín chấp)
(Khi công ty phá sản, Z trả sau Z TP có bảo đảm)
TP có thể chuyển đổi thành cổ phiếu…
TP có thể mua lại, bán lại…
TP có Z’ thả nổi (thường ở điều kiện kinh tế biến động…)


Cổ phiếu là một loại CK, phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi số,
xác nhận quyền sở hữu & lợi ích hợp pháp của người nắm giữ CP đối với vốn &
tài sản của một công ty cổ phần.
VN: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành”.
Khi mua cổ phiếu, những người đầu tư (các cổ đông) sẽ trở thành những
người chủ sở hữu đối với công ty. Mức độ sở hữu đó tuỳ thuộc vào tỷ lệ cổ phần
mà cổ dông nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ mọi thành quả
cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty. Trong trường hợp xấu

nhất là công ty phải thanh lý hay phá sản, cổ đông chỉ nhận dược những gì còn lại
sau khi công ty đã trang trải xong các khoản nghĩa vụ khác (như thuế, nợ ngân
hàng hay trái phiếu...). Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn.


Các loại cổ phiếu:
Xét theo quyền lợi mà CP mang lại cho cổ đông thì có hai loại:
o

o

CP phổ thông (CP thường) là loại CP phổ biến và điển hình nhất.
Người sở hữu được hưởng:
 Cổ tức (Z cổ phần):
• % & hình thức (HĐQT quyết định).
• Є vào kinh doanh & chính sách công ty.
• Trả bằng tiền, hay bằng cổ phiếu mới.
 Quyền mua CP mới:
• Mua trước theo % CP cũ.
• Mua với giá < thị giá.
• Bán quyền mua hưởng lợi
 Quyền bỏ phiếu:
• Bầu các chức vụ của công ty
• Biểu quyết vấn đề quan trọng
• Có thể ủy nhiệm quyền bầu
• Có thể dồn phiếu hoặc không.
 Quyền kiểm tra sổ sách công ty nếu có chứng cứ.
 Quyền yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông bất thường nếu…
CP phiếu ưu đãi:










Ưu đãi so với CP thường.
Hưởng % cổ tức cao, cố định.
Nhận cổ tức trước CP thường.
Được chia tài sản trước (C/ty phá sản).
Không có P, không có cổ tức!
Không được tham gia bỏ phiếu.

Để tăng thêm tính hấp dẫn, CP ưu đãi có thể gắn thêm các điều khoản
như:
CP ưu đãi cộng dồn (cộng dồn cổ tức, nếu chưa có P)
CP ưu đãi tham dự (khi công ty có P cao, chia thêm P)
CP ưu đãi chuyển đổi được (thành CP thường)…
CP ưu đãi quyền bỏ phiếu (có nhiều phiếu bầu hơn)
3. Chứng chỉ quỹ đầu tư (CCI)
• Về thực chất quỹ đầu tư là hình thức ủy thác đầu tư
o Do:
 Vốn ít, nhưng muốn phân tán rủi ro!
 Muốn hạn chế phí giao dịch
 Hạn chế về kiến thức đầu tư.
 Muốn vốn được đầu tư một cách chuyên nghiệp
o Đặc điểm:
 Người đầu tư không trực tiếp mua CK

 Người đầu tư mua chứng chỉ quỹ đầu tư.
 Mua CK do tổ chức được ủy thác, được thuê mua.
• Tổ chức phát hành CCI (có hai dạng)
o Công ty quỹ:
 Quỹ đầu tư dạng công ty.
 Huy động quỹ = phát hành CP quỹ.
 HĐQT thuê người quản lý quỹ & mua CK.
o Công ty quản lý quỹ:
 Quỹ đầu tư dạng hợp đồng ủy thác.
 Phát hành CCI theo vốn dự kiến.
 Công ty trực tiếp mua CK…
• Quỹ đóng & quỹ mở
o Quỹ đóng (VN):
 CCI hay CP quỹ chỉ phát hành 1 lần.
 Công ty quỹ không mua lại CCI hay CP quỹ.
 CCI hay CP quỹ được M-B ở thị trường.
o Quỹ mở:










CCI hay CP quỹ phát hành nhiều lần.
Công ty hay quỹ sẵn sàng mua lại CCI hay CP quỹ.
CCI hay CP quỹ không M-B ở thị trường.


4.

Chứng khoán chuyển đổi: Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng
khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện
nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
• Thông thường chứng khoán chuyển đổi gồm 2 loại:
o Trái phiếu đổi thành cổ phiếu:
 Công ty chuyển nợ thành vốn…
 Trái chủ thành cổ đông…
 Lợi tức thành cổ tức…
o Cổ phiếu ưu đãi -> Cổ phiếu thường:
 Công ty giảm khoản thanh toán cố định.
 Cổ đông ưu đãi -> cổ đông thường.
 Cổ tức cố định -> cổ tức biến đổi…
 Chứng khoán chuyển đổi là cách để cải thiện tình hình tài chính
công ty.

5.

Các chứng khoán phát sinh
• Quyền mua cổ phần (là lợi ích & kỳ vọng của cổ đông)
o Quyền mua trước CP với giá thấp của cổ đông hiện hữu trong đợt
phát hành mới của công ty.
o 1 CP đang lưu hành ≡ 1 quyền.
o Lượng quyền cần có để được mua 1 CP mới =
Quyền mua CP cũng được mua bán và trở thành CK (CK phát sinh).
Hợp đồng kỳ hạn
o Là một thỏa thuận M-B CK với số lượng, thời điểm xác định trong
tương lai với mức giá ổn định hôm nay (hình thức M-B khống)…

o Sự thỏa thuận (hợp đồng) đó cũng được đem M-B (CK phát sinh)
Quyền lựa chọn
o Là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua hoặc được
bán với số lượng CK nhất định, với mức giá & một thời hạn xác định
(≠ các thức phát hành & thời hạn chứng quyền dài hơn)
o Giá bán hợp đồng đó gọi là giá quyền hay phí quyền.
o Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư mua hoặc bán ở mức giá tốt nhất
để nâng cao P’, hạn chế rủi ro.
o








Chứng quyền (do công ty phát hành CK cơ sở phát hành)
o Chứng quyền là loại giấy tờ trao cho người nắm giữ nó quyền mua
một số lượng CK với mức giá và thời hạn xác định (5 năm đến 15
năm)
 Trao cho người nắm TP ưu đãi, CP ưu đãi.
 Mục đích khuyến khích nhà I tiềm năng mua TP ưu đãi, CP ưu
đãi.
o Chứng quyền:
 Giá CP ghi trong chứng quyền > thị giá lúc phát hành chứng
quyền.
 Tạo dòng tiền vào công ty…
 Nắm chứng quyền chưa là cổ đông…
o Chứng quyền cũng được đem M-B và trở thành CK (CK phát sinh)

 Giá chứng quyền phụ thuộc:
• Giá & số lượng CK được mua…
• Thị giá hiện tại của CK.
• Thời hạn của chứng quyền.

Cơ sở ra đời của các loại chứng khoán
- Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách rất tự phát và sơ
khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV ở tại
những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập
tại các quán cà phê để trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hoá... lúc đầu chỉ một
nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để
thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc thống nhất
các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy
tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”. Các chợ và
hội chợ là nơi có vị trí thuận lợi, có địa điểm, thời gian họp cố định, là nơi gặp gỡ
trao đổi thông tin giữa các thương nhân, là nơi giao dịch, mua bán, ký kết các hợp
đồng mua bán hàng hóa không mang ra chợ vẫn xác định được lượng, chất của
hàng hóa, là nơi ký kết hợp đồng giữa người môi giới, các hãng thương mại thâu
tóm được cung cầu. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ


điếm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với
một từ tiếng Pháp là "Bourse" tức là "Mậu dịch thị trường" hay còn gọi là "Sở giao
dịch". Và Bourse thành tên chung chỉ mọi noei gặp gỡ của các thương gia để trao
đổi thông tin, giao dịch kí kết các hợp đồng mua bán, chính là sở giao dịch chứng
khoán. Lúc đầu chỉ là các hợp đồng mua bán hàng hóa, sau chuyển sang hợp đồng
mua bán các giấy tờ có giá gọi là sở giao dịch chứng khoán tài sản. Sở giao dịch
chứng khoán đầu tiên ở Anh vào giữa TK XVI; Đức, Mỹ vào cuối TK XVIII; Thụy
Sĩ vào giữa TK XIX; Nhật vào cuối TK XIX. Thời kỳ hưng thịnh của Sở giao dịch
chứng khoán là 1875 – 1913. Sở giao dích chứng khoán chỉ trở thành thị trường

thật sự khi xuất hiện các trái phiếu và cổ phiếu của các công ty.
- Cổ phiếu ra đời gắn liền với công ty cổ phần. Công ty cổ phần là công ty đối
vốn (khi thành lập gọi là gọi vốn). Vốn của công ty được chia thành nhiều phần
bằng nhau, mỗi phần vốn bằng nhau được gọi là cổ phần.Giấy chứng nhận tham
gia cổ phần gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu là bằng chứng và là chứng chỉ xác nhận
quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông
trong công ty cổ phần tương ứng với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Công
ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn (East India
Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày 31/10/1860 bởi một
nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15 năm ở
vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả
các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ
địa điểm nào như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển
Magellan. Ngày 01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng không
được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo: “Người đầu tư góp
vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền
lãi”. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình thức tương
tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan
Mạch, Đức… Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển ở
nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành chế tạo cơ
khí, ngân hàng, bảo hiểm… Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực


hiện nhanh chóng vấn đề tập trung vốn. Công ty cổ phần tập trung vốn là do phát
hành cổ phiếu.
+ Đối với Công ty phát hành để có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở
rộng kinh doanh thì cần thiết phải phát hành cổ phiếu. Nguồn vốn huy động này
không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như
áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử
dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức

tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có
những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy
từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của
công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp.
+ Đối với nhà đầu tư cổ phiếu, các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ
phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành
dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán
chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo
vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà
quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt
động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và
đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc
thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia
tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông
thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao
dịch cổ phiếu trên thị trường.
Vì vậy, cơ sở ra đời của cổ phiếu gắn liền với sự hình thành của công ty cổ phần.
- Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ do chủ thể đi vay phát hành (văn tự nợ đảm bảo
chủ thể phát hành hoàn trả lượng vốn đã vay & Z sau một thời hạn). Trái phiếu ra
đời là do nhu cầu về vốn của chính phủ và công ty. Chính phủ và công ty có nhu
cầu về vốn muốn vay vốn thì cần phải phát hành trái phiếu. Phát hành trái phiếu là
đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là
chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có
quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song
không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. Lãi suất của các
trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:


+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt

ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau,
nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
- Cơ sở ra đời của chứng chỉ quỹ đầu tư là do nhu cầu của các nhà đầu tư.
Thực chất quỹ đầu tư là hình thức ủy thác đầu tư. Các nhà đầu tư cá nhân, nhất là
những người có ít vốn, khi tiến hành đầu tư vào các chứng khoán riêng lẻ thường
hay gặp phải những bất lợi sau:
+ Do hạn chế về vốn, họ khó có thể thực hiện đa dạng hoá đầu tư để giảm
thiểu được tổng rủi ro của đầu tư.
+ Với những giao dịch có khối lương nhỏ, phí giao dịch sẽ chiếm tỷ trọng
lớn trong giá trị giao dịch.
+ Đầu tư có hiệu quả đòi hỏi phải có kiến thức về đầu tư, phải có thời gian
dành cho việc phân tích thị trường và phân tích sản phẩm. Đại đa số các nhà đầu tư
cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu đó.
Những bất lợi trên hoàn toàn có thể giải quyết được bằng cách sử dụng quỹ
đầu tư. Vì vậy dẫn đến sự ra đời của chứng chỉ quỹ đầu tư. Người đầu tư sẽ không
trực tiếp đầu tư vào chứng khoán mà chỉ đầu tư vào quỹ bằng cách mua cổ phần
hay chửng chỉ. Việc đầu tư vào chứng khoán do một tổ chức khác được thuê hay
được uỷ thác tiến hành, vì thế, tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư cao hơn
nhiều so với việc một cá nhân trung bình tự ra quyết định đầu tư. Người đầu tư sẽ
được hưởng lợi từ kết quả đầu tư của quỹ, theo số lượng cổ phần hay chứng chỉ mà
mình nắm giữ.


Khi mua chứng chỉ quỹ đầu tư, các nhà đầu tư dù chỉ với một lượng vốn đầu
tư khiêm tốn, đương nhiên sở hữu một phần trong một danh mục đầu tư da dạng
hoá. Hiệu quả đầu tư được nâng lên do nhiều yếu tố: rủi ro giảm, chi phí giảm, kỹ
năng đầu tư chuyên nghiệp. Ngoài ra, việc lựa chọn một quỹ theo loại chứng khoán

mà nó đầu tư vào còn giúp cho mỗi nhà đầu tư có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó
như tránh thuế, bảo toàn vốn, tăng trưởng vốn hay thu nhập thường xuyên. Hơn
nữa, các quỹ đầu tư có thể giúp cung cấp nhiều loại dịch vụ khác cho người thụ
hưởng. Vì vậy sự ra đời của chứng chỉ quỹ đầu tư là tất yếu.
- Chứng khoán chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ
theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng
khoán khác. Chứng khoán chuyển đổi thường có 2 loại: trái phiếu đổi thành cổ
phiếu và cổ phiếu ưu đãi đổi thành cổ phiếu thường. Cơ sở ra đời của chứng khoán
chuyển đổi là để cải thiện tình hình tài chính của công ty. Phát hành chứng khoán
có thể chuyển đổi là nhằm huy động thêm vốn vào những thời điểm chưa thích hợp
cho việc phát hành cổ phiếu thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển
đổi cũng có thể nhằm mục đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là
khi thị trường trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đang xuống giá.
+ Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền chuyển đổi
trái phiếu này ra cổ phiếu thường khi đến hạn, nên:
Nếu là trái phiếu: bên phát hành sẽ bán trái phiếu ra với lãi suất thấp.
Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được
các khoản cố định phải trả, đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty, một
chỉ báo có lợi cho danh tiếng của công ty.
+ Đối với bên nắm giữ chứng khoán chuyển đổi:


Các nhà đầu tư sẽ né tránh được rủi ro trước dao động giá của thị trường.
Nếu cổ tức nhận được từ cổ phiếu thường > cổ tức nhận được từ cổ phiếu ưu đãi,
người nắm giữ chứng khoán chuyển đổi có thể chuyển đổi từ cổ phiếu ưu đãi thành
cổ phiếu thường.
Đạt lãi vốn thông qua giá chuyển đổi: Khi cổ phiếu phổ thông tăng giá, sẽ đem lai
1 khoản lãi vốn khi chuyển đổi từ cổ phiếu ưu đãi sang cổ phiếu thường và khi giá
thị trường của cổ phiếu phổ thông rơi xuống dưới giá trị chuyển đổi, sẽ được bảo

vệ vì công cụ chuyển đổi sẽ được đánh giá không thấp hơn một trái phiếu thông
thường (hay cổ phiếu ưu đãi).
Từ những cơ sở đó dẫn đến sự ra đời của chứng khoán chuyển đổi.
- Cơ sở ra đời của các chứng khoán phái sinh là do mua bán chứng khoán. Mua bán
chứng khoán là mua bán quyền sở hữu vốn vì quyền sở hữu vốn mang lại thu
nhập.Do nhu cầu mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ
phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn... nên dẫn đến sự ra đời của chứng
khoán phái sinh.
Câu 2: Những nguồn lợi tiềm năng khi nắm giữ chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu)
Những nguồn lợi tiềm năng khi nắm giữ cổ phiếu:
- Cổ tức là một phần trong lợi nhuận của doanh nghiệp dành chia cho cổ đông,
được gọi là,thu nhập của cổ đông.
o Cổ tức (lãi cổ phần)
- Lãi vốn là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua cổ phiếu.
Lãi vốn = Giá bán – giá mua (Nếu < 0 là lỗ vốn)





Lãi vốn là khoản thu nhập mà người nắm giữ CP kỳ vọng nhất
khi mua, bán CK (rất quan tâm thị giá CP)
Giữa mức cổ tức được chi trả và khả năng tăng giá của cổ phiếu
không có mối liên hệ cố định. Có loại cổ phiếu có mức trả cổ
tức cao và ổn định, nhưng lại kém tiềm năng tăng giá. Trái lại
có loại cổ phiếu trả cổ tức thấp, thậm chí không trả cổ tức,
nhưng lại hứa hẹn tiềm năng tăng giá mạnh.
Trong xã hội thường tồn tại hai loại đầu tư (đầu tư thận trọng &
đầu tư táo bạo)



o

Để xác lập cơ cấu đầu tư thích hợp, CP được phân thành:
 CP thượng hạng là cổ phiếu do những công ty có thành tích lâu
dài và liên tục về lợi nhuận và chi trả cổ tức, phát hành. Đó là
cổ phiếu của những công ty lớn, có tên tuổi, ổn định và trưởng
thành, có tiềm lực tài chính to lớn. Loại cổ phiếu này ít khi bị
mất giá, nhưng không nhất thiết là giá sẽ tăng nhanh, đồng thời
cổ tức được chi trả ổn định và tăng đều đặn.
 CP tăng trưởng là cổ phiếu của những công ty dùng lợi nhuận
để tái đầu tư, cổ tức thấp nhưng triển vọng giá tăng cao.
 CP phòng vệ là cổ phiếu của những công ty trả cổ tức & giá ổn
định, là cổ phiếu của những công ty thuộc ngành thiết yếu.
 CP chu kỳ là cổ phiếu của những công ty cổ tức & giá phụ
thuộc chu kỳ kinh doanh: sắt, xi măng, ô tô …
 CP thời vụ là cổ phiếu của những công ty trả cổ tức, giá phụ
thuộc thời vụ, tiêu biểu là những công ty bán lẻ.

Những nguồn lợi tức tiềm năng của trái phiếu



Trái phiếu có thể đem lại ba khoản lợi tức tiềm năng:
Tiền lãi cố định theo định kỳ thường trả nửa năm một lần, được quy định
bởi lãi suất cuống phiếu. Khoản này được ấn định từ đầu và không thay đổi






cho đến khi trái phiếu đáo hạn.
Tiền chênh lệch giá:
 Giữa giá khi TP đáo hạn với giá mua…
 Giữa giá bán (khi chưa đáo hạn) với giá mua…
 Giữa giá bị mua (khi chưa đáo hạn) với giá mua
Tiền lãi của lãi, do tái đầu tư các khoản thanh toán lãi định kỳ. Bộ phận này
của tổng lợi tức phụ thuộc vào lãi suất tái đầu tư, tức là thay đổi theo lãi suất
thị trường.

Nguồn lợi thực tế từ TP còn phụ thuộc lãi suất thị trường trong thời gian nắm giữ
& tại lúc bán ra (Z’ thị trường < Z’ TP ÷ giá TP > mệnh giá).


Câu 3: Tại sao trong thực tế chứng khoán chưa phải là sự lựa chọn hàng đầu của
công chúng có tiền và của các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Giải pháp
thực tế để giải quyết vấn đề.
Trong thực tế chứng khoán chưa phải sự lựa chọn hàng đầu của công chúng có tiền
và của các doanh nghiệp trong việc huy động vốn vì với số đông công chúng khi
mua bán chứng khoán họ phải chịu % hoa hồng cao tức là phí giao dịch cao, chịu
rủi ro cao, ngoài ra còn do thông tin không cân xứng dẫn đến sự lựa chọn đối
nghịch và rủi ro phi đạo đức làm hạn chế sự lựa chọn mua bán chứng khoán. Vì
vậy nó làm cho việc mua bán chứng khoán rất khó khăn, không phải công ty nào
cũng có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán.
- Nguyên nhân phí giao dịch và giải pháp:
Với số đông công chúng, họ lựa chọn ngân hàng hơn là lựa chọn chứng khoán. Họ
gửi tiền tiết kiệm tức là cho ngân hàng vay, hàng thàng họ sẽ được hưởng lãi suất
nhất định và đây là một lựa chọn tương đối an toàn. Họ lựa chọn tài chính gián tiếp
hơn là tài chính trực tiếp. Với các nhà đầu tư cá nhân nếu họ lựa chọn chứng
khoán, họ sẽ phải chịu % hoa hồng cao, rủi ro cao khi đầu tư vào cùng “1 rổ”, họ

không có đủ tiền để theo lô thầu,…
Vậy giải pháp để hạ chi phí giao dịch, giảm rủi ro để số đông công chúng có thể
mua chứng khoán là các trung gian tài chính như các tổ chức nhận tiền gửi, quỹ
đầu tư, quỹ tương trợ, công ty chứng khoán,…
Các tổ chức nhận tiền gửi: Đây là các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất
trên thị trường tài chính xét theo phạm vi hoạt động và khả năng về vốn. Các tổ
chức này huy động vốn bằng cách mở tài khoản séc và tài khoản tiết kiệm cho
khách hàng, đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay theo nhiều hình
thức khác nhau hoặc đầu tư vào chứng khoán. Thu nhập của các tổ chức này đến từ
hai nguồn: thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán; và thu nhập từ các
khoản phí.
Quỹ tương trợ: Đây là một loại hình trung gian tài chính, huy động vốn bằng
cách bán chứng chỉ quỹ cho các cá nhân và dùng vốn đó để đầu tư vào danh mục


cổ phiếu và trái phiếu đã được đa dạng hoá. Các quỹ tương hỗ thường được quản
lý bởi một công ty quản lý quỹ. Một công ty quản lý quỹ có thể quản lý nhiều quỹ
khác nhau để đa dạng hoá đầu tư do mỗi quỹ thường chỉ tập trung đầu tư vào một
số loại chứng khoán nhất định.
+ Trung gian tài chính hạ chi phí giao dịch bằng cách tiết kiệm do quy mô
và tiết kiệm do hiểu biết. Vì đầu tư với quy mô lớn, quản lý đầu tư chuyên nghiệp
nên chi phí hoạt động thấp do các danh mục đầu tư được quản lý chuyên nghiệp
cho nên chúng chỉ gánh một mức hoa hồng giao dịch thấp hơn so với các cá nhân,
dù các cá nhân này đã ký hợp đồng với các nhà môi giới chiết khấu thấp nhất.
+ Trung gian tài chính giảm rủi ro do: Quản lý đầu tư chuyên nghiệp và sự
đa dạng hóa các danh mục đầu tư. Các trung gian tài chính được quản lý bởi các
chuyên gia có kỹ năng và giàu kinh nghiệm vì họ là những người có chuyên môn
nên việc lựa chọn các danh mục đầu tư được nghiên cứu kĩ càng. Danh mục đầu tư
đa dạng giúp giảm thiểu rủi ro, tránh “bỏ trứng vào cùng một rổ”.
Vì vậy nên đối với số đông công chúng có tiền tuy nhiên vốn nhỏ nhưng muốn hạn

chế phí giao dịch, muốn phân tán rủi ro, muốn đầu tư nhưng hạn chế về kiến thức,
muốn vốn được đầu tư một cách chuyên nghiệp. Nên tham gia thị trường chứng
khoán bằng cách mua chứng chỉ quỹ CCI của công ty quỹ, công ty quản lý quỹ hay
công ty chứng khoán.
- Nguyên nhân thông tin không đối xứng và giải pháp
Khi có ý định mua chứng khoán của một công ty, số đông công chúng có tiền
không chắc về những thông tin đã có về công ty như các thông tin về mức sinh lời
của công ty, các thông tin về cách điều hành công ty… Sự không cân bằng về
thông tin mà mỗi bên có được trong quan hệ tài chính được gọi là thông tin không


đối xứng. Thông tin không đối xứng dẫn đến 2 hệ quả: sự lựa chọn đối nghịch và
rủi ro phi đạo đức làm hạn chế sự lựa chọn mua bán chứng khoán.
+ Thông tin không cân xứng dẫn đến lựa chọn đối nghịch làm hạn chế việc mua
bán chứng khoán.
* Giả sử bạn có thông tin về mức sinh lời năm 2009 của 2 công ty:
Mức sinh lời của công ty VC = 10% nhưng những nhà quản lý của công ty đó lại
biết rằng công ty của họ tốt hơn như thế nhiều.
Mức sinh lời của công ty SĐ = 15% nhưng những nhà quản lý công ty SĐ lại biết
rằng công ty của họ lại không tốt đến mức như thế.
* Sự không cân xứng về thông tin trên dẫn đến 2 hệ quả:
Bạn sẽ không mua được cổ phiếu hay trái phiếu của công ty VC theo mức sinh lời
10% vì các nhà quản lý công ty này cho rằng chứng khoán của họ bị đánh giá quá
thấp nên không bán. Đó là sự lựa chọn đối nghịch.
Ngược lại, những nhà quản lý công ty SĐ và các công ty tương tự SĐ lại sốt sắng
bán cổ phiếu, trái phiếu của họ ở thị trường, vì đó là những công ty tồi, mọi người
sẽ nhận ra và không mua. Đó là sự lựa chọn đối nghịch.
* Sự lựa chọn đối nghịch làm việc mua bán chứng khoán rất khó khăn, không phải
công ty nào cũng có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán. Một công ty chỉ
huy động được vốn từ thị trường chứng khoán khi ít băn khoăn về nó, tức là công

ty đó phải đủ lớn và vững chắc.
+ Thông tin không cân xứng dẫn đến rủi ro phi đạo đức, là một trở ngại cho việc
lựa chọn mua chứng khoán.
Giả sử bạn đã mua chứng khoán của công ty VC vì thông tin về công ty mà bạn có
là tốt. Nhưng người quản lý của công ty chỉ nắm 10% vốn, và lãi của công ty là
500 ngàn $ thì dẫn đến việc:
* Người quản lý chỉ được hưởng 50 ngàn $ với tiền lương, và cảm thấy không
xứng đáng với những nỗ lực của mình do đó sẽ: Không muốn cố gắng hơn nữa, đòi


hỏi công ty phải trang bị cho mình các thiết bị hiện đại, tiến tiến hơn, phương tiện
đi lại cho nhà quản lý phải xịn hơn, nỗ lực mua lại công ty khác để nâng cao quyền
lực,…
* Những việc làm trên là nằm ngoài mong muốn của nhà đầu tư và họ phải gánh
chịu một rủi ro lớn do họ khó có được những thông tin đó (rủi ro phi đạo đức),
trong khi các nhà quản lý công ty biết rất rõ. Tức rủi ro do thông tin không cân
xứng xảy ra sau giao dịch và ngoài ý muốn của người mua chứng khoán. Sự hiện
diện của rủi ro phi đạo đức khiến người có tiền rất băn khoăn khi lựa chọn mua
chứng khoán.
Giải pháp để giảm thiểu sự chọn lựa đối nghịch và rủi ro phi đạo đức do thông tin
không cân xứng:
- Điều hành của chính phủ để tăng thông tin ở TTCK: Sự hiện diện của lựa chọn
đối nghịch và rủi ro phi đạo đức làm cho TTCK trở thành bộ phận được điều hành
và giám sát nghiêm ngặt nhất trong nền kinh tế. Nhưng sự điều hành của chính phủ
chỉ làm giảm nhẹ chứ không loại bỏ được.
- Tự thu lượm thông tin
- Mua chứng khoán qua trung gian tài chính: tức là mua chứng khoán qua công ty
vốn, qua bảo lãnh phát hành, qua công ty chứng khoán. Đây là giải pháp quan
trọng nhất và chắc chắn nhất, và đã trở thành nguyên tắc trong mua bán chứng
khoán trong thực tế vì đó là sự mua bán được đảm bảo bằng nghề nghiệp và

thương hiệu, bằng tài sản và pháp lý, bằng cơ chế lợi ích và công nghệ, bằng sự
mất còn của thực thể tài chính. Không có sự mua bán nào lại có được những ràng
buộc chặt chẽ và đảm bảo chắc chắn như mua bán chứng khoán.
Vì vậy trung gian tài chính là giải pháp giảm chi phí giao dịch, hạn chế rủi ro, giảm
thiểu chọn lựa đối nghịch trong mua bán chứng khoán do thông tin không cân
xứng. Công chúng có tiền tham gia vào mua bán chứng khoán, từ đó các công ty sẽ
lựa chọn TTCK là sự lựa chọn hàng đầu để huy động vốn.




×