Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh doanh sau cổ phần hóa của công ty cổ phần XNK và dịch vụ tổng hợp nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.24 KB, 111 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI ( 1986) đã và đang diễn ra tốt đẹp. Trong công cuộc đổi
mới này, phát triển một nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo là hết sức cần thiết. Thực tế cho thấy Sau hơn 20 năm
đổi mới đất nước nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng kể,
tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn giữ ở mức ổn định, đời sống của người dân
ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, nền kinh tế
nước ta vẫn còn những vấn đề nổi cộm cần được giải quyết ngay, trong đó có
sự hoạt động kém hiểu quả của các Doanh nghiệp nhà nước ( DNNN).
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và nhà nước đã có
những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà
nước như : Cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, sắp xếp lại các
doanh nghiệp nhà nước… Trong đó cổ phần hóa được coi là giải pháp hàng
đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hòa cho nhà nước và nhiều bộ phận xã
hội khác.
Trong xu thế hội nhập sâu rộng hiện nay, CPH được xem như là một
đòi hỏi khách quan trong công cuộc đổi mới. Cổ phần hoá sẽ đem lại những
lợi ích to lớn về mặt kinh tế - xã hội, bởi nó gắn liền trách nhiệm với lợi ích
của những chủ thể kinh tế, làm cho họ cần cù hơn, năng động, sáng tạo hơn,
có trách nhiệm hơn với công việc kinh doanh của mình, từ đó hiệu quả kinh tế
- xã hội được nâng cao rõ rệt.
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã được đề cập đến
lần đầu tiên trong nghị quyết hội nghị lần thứ II – Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa VII ( tháng 11/1991). Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
được tiến hành thí điểm từ tháng 6 năm 1992. Tiến trình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất

1




lượng kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định về việc chuyển doanh nghiệp
Nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính
sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ
phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình cổ phần hoá đi
nhanh hơn. Tính đến năm 2009, cả nước đã cổ phần hoá gần 4.000 doanh
nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt
động trên 3 lĩnh vực chính thương mại, công nghiệp và xây dựng (Việt
Hoàng, 2009). Nhìn chung, các doanh nghiệp sau CPH đều hoạt động có hiệu
quả hơn, có trên 90% số doanh nghiệp làm ăn có lãi. Cụ thể, kết quả thống kê
tại 850 doanh nghiệp cổ phần sau 1 năm thực hiện CPH cho thấy, vốn điều lệ
bình quân tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân
tăng 24,9%, thu nhập của người lao động bình quân tăng 12,9%. Tuy nhiên
bên cạnh đó còn có một số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, vốn
không được bảo toàn, kết quả và hiệu quả kinh doanh giảm sút, vai trò của
người lao động chưa được quan tâm đúng mức.
Công ty cổ phần XNK và dịch vụ tổng hợp Nghệ An tiền thân là công
ty Xuất nhập khẩu Việt An - thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước, được
thành lập vào ngày 11/11/1992. Thực hiện Quyết định số 2917/QĐ UBNDĐMDN ngày 14/8/2006 của UBND Tỉnh Nghệ An, Công ty đã thực hiện
xong việc chuyển đổi hình thức Sở hữu Nhà nước chuyển từ DNNN sang
công ty cổ phần và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/12/2006. Ngành
nghề kinh doanh chính đó là XNK nông sản, kinh doanh khách sạn, nhà hàng,
cho thuê kho bãi, kinh doanh xe máy, điện tử, điện lạnh…
Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh của công ty sau CPH, tìm
ra những nguyên nhân đạt được kết quả và hiệu quả đó, đồng thời đưa ra một
số giải pháp chủ yếu giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng
hoàn thiện và phát triển hơn, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Đánh giá
hiệu quả kinh doanh sau cổ phần hóa của Công Ty Cổ Phần XNK và
Dịch vụ Tổng Hợp Nghệ An” làm khoá luận tốt nghiệp.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2


1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần XNK và
dịch vụ tổng hợp Nghệ An. Từ đó, tìm ra những giải pháp phù hợp góp phần
nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những
năm tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
• Tổng hợp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về CPH DNNN nói chung và
đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
• Đánh giá, so sánh kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần
XNK và dịch vụ tổng hợp Nghệ An trước và sau khi thực hiện CPH
• Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
công ty cổ phần XNK và dịch vụ tổng hợp Nghệ An trước và sau khi CPH.
• Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh
doanh của công ty trong những năm tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi lớn: Hoạt động kinh doanh của công ty như thế nào sau CPH ?
Cụ thể:
• Trước khi CPH hoạt động kinh doanh của công ty diễn ra như thế nào?
• Sau khi CPH hoạt động kinh doanh của công ty có gì thay đổi?
• Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty trước
và sau CPH?
• Giải pháp nào đưa ra để công ty có thể áp dụng nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả kinh doanh trong thời gian tới?
1.4 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động kinh doanh của công ty Cổ Phần XNK và Dịch Vụ Tổng
Hợp Nghệ An.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu

3


1.4.2.1 Phạm vi nội dung
Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty trước và sau khi CPH, phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh để từ đó đưa
ra những giải pháp thích hợp giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty ngày
càng hoàn thiện và phát triển hơn.
1.4.2.2 Phạm vi về không gian
Đề tài tập trung nghiên cứu tại công ty cổ phần XNK và dịch vụ tổng
hợp Nghệ An.
1.4.2.3 Phạm vi về thời gian
Đề tài tập trung nghiên cứu từ tháng 01/2010 đến tháng 5/2010
Số liệu dùng để nghiên cứu lấy trong 2 giai đoạn là trước CPH từ năm
2004 – 2006 và giai đoạn sau CPH từ năm 2007 – 2009.

PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

4


2.1 Cơ sở lý luận về CPH doanh nghiệp và đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp
2.1.1 Cơ sở lý luận chung về CPH
2.1.1.1 Một số quan niệm về CPH
CPH là một hình thức chuyển đổi doanh nghiệp từ doanh nghiệp có

một hoặc số ít chủ sở hữu sang các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu dưới
hình thức các CTCP. Thực chất của quá trình này nhằm chuyển đổi hình thức
sở hữu trong các doanh nghiệp cũ sang hình thức sở hữu hỗn hợp giữa các cổ
đông là tư nhân với nhau trên cơ sở chia nhỏ tài sản của công ty thành những
phần bằng nhau, bán lại cho các cổ đông dưới hình thức cổ phiếu. Thông qua
đó thiết lập hình thức tổ chức quản lý sản xuất theo mô hình CTCP, hoạt động
với tư cách một pháp nhân độc lập. Như vậy CPH có thể thực hiện cho bất cứ
loại hình doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp tư nhân, DNNN và các loại
hình doanh nghiệp khác. Mặc dù trong thực tiễn CPH diễn ra cả đối với doanh
nghiệp tư nhân, song do số lượng các doanh nghiệp tư nhân CPH là không
đáng kể, cho nên khi nhắc đến CPH người ta thường hiểu là CPH DNNN.
Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc
Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản của mình cho các cá nhân
hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ,
công nhân của chính doanh nghiệp Nhà nước thông qua đấu thầu công khai,
hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành lên các công ty TNHH
hay công ty cổ phần
Như vậy cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu
– chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước
thành CTCP với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù
hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện
đại.

5


Từ các quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể
đưa ra khái niệm CPH DNNN là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là
Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp
đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp

Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật
Doanh nghiệp.
Có thể thấy, so với các nước đã và đang tiến hành cổ phần hoá trên thế
giới, thì ở nước ta, chủ trương CPH DNNN lại xuất phát từ đường lối kinh tế
và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay: chúng ta đang bố trí lại
cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích nội dung và
phương thức CPH DNNN. Vì vậy về thực chất CPH ở nước ta là nhằm sắp
xếp lại DNNN cho hợp lý và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà
nước thành sở hữu của các cổ đông trong công những phương tiện quan trọng
để thực hiện mục đích trên.
2.1.1.2 Công ty cổ phần và một số khái niệm
CTCP là doanh nghiệp mà trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau được gọi là cổ phần, chủ sở hữu các cổ phần gọi là cổ đông
(luật doanh nghiệp, 2005).
 Cổ đông: có thể là các tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông không hạn
chế. Luật của một số nước quy định số cổ đông từ một trở lên. Luật doanh
nghiệp của Việt Nam công bố ngày 26/06/1999 quy định số cổ đông tối
thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về nợ, và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi vốn góp vào doanh nghiệp; cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác.

6


 Đại hội cổ đông: Theo điều 96, luật doanh nghiệp 2005 Đại hội cổ
đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao
nhất của CTCP.

 Đại hội cổ đông thành lập: Là phiên họp đầu tiên do các sáng lập
viên triệu tập, để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo luận và thông
qua các điều lệ của CTCP.
 Đại hội cổ đông thường kỳ: Được triệu tập vào cuối năm tài
chính hàng năm và được tiến hành khi có số cổ đông tham dự đại
diện cho 2/3 số vốn điều lệ của công ty.
 Đại hội cổ đông bất thường: Trong trường hợp khẩn cấp có nguy
cơ đe doạ đến sự hoạt động bình thường của CTCP thì Đại hội cổ
đông có thể triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng quản trị hoặc theo
yêu cầu của trưởng ban kiểm soát.
 Hội đồng quản trị: Theo điều 108, luật doanh nghiệp 2005 Hội đồng
quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm
quyền của Đại hội cổ đông.
 Ban kiểm soát: Là tổ chức của công ty có trách nhiệm thay cổ đông
kiểm soát các hoạt động của công ty, chủ yếu là vấn đề tài chính.
CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định
của pháp luật về chứng khoán. CTCP được pháp luật thừa nhận có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Cổ phần có các loại khác nhau là cổ phần phổ thông; cổ phần ưu đãi
biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và một số loại ưu
đãi khác ( Luật doanh nghiệp, 2005).
Cổ phiếu là loại chứng chỉ do công ty phát hành hoặc bút toán ghi sổ
xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có
thể ghi tên hoặc không ghi tên.

7


Cổ phiếu là phương tiện để CTCP thu hút thêm vốn thực hiện các dự án

đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh. Cổ phiếu có mệnh giá là
mức giá ghi trên cổ phiếu và thị giá là giá chuyển nhượng cổ phiếu trên thị
trường. Thị giá tùy thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại và tương
lai của doanh nghiệp.
2.1.1.2 Bản chất của CPH
Theo Hồ ngọc Cần( 2003) về thực chất CPH chính là phương thức thực
hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà
nước trong doanh nghiệp thành CTCP với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô
hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu
cầu của kinh doanh hiện đại.
2.1.1.3 Sự cần thiết CPH
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn
tại đan xen lẫn nhau, tạo thành cấu trúc nhiều tầng. Vì thế CPH DNNN là cần
thiết. CPH DNNN là làm rõ quyền sở hữu, khơi thông nguồn vốn đầu tư, tạo
cơ chế phân bổ rủi ro, và giúp cho doanh nghiệp phát triến bền vững. ( Hồ
ngọc cẩn, 2003).
• CPH làm rõ mối quan hệ giữa chính quyền với doanh nghiệp, làm rõ
quyền sở hữu tài sản và quyền quản lý doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
• CPH tạo điều kiện ổn định thúc đẩy đơn vị phát triển lâu dài, giúp cho
cán bộ công nhân viên gắn bó với đơn vị, phát huy được khả năng đóng
góp xây dựng đất nước. Đồng thời nó cũng tạo điều kiện bồi dưỡng và
đào tạo đội ngũ cán bộ.
• CPH tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng
khoán. Nó giải quyết được vấn đề khan hiếm, ứ đọng vốn và sử dụng
vốn có hiệu quả.

8



• CPH cho phép giải quyết mối quan hệ lợi ích kinh tế, thực hiện theo
đúng nguyên tắc đó là các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp
luật.
2.1.1.4 Đặc điểm CPH và công ty cổ phần
• Đặc điểm CPH
Chúng ta đều biết rằng cái cốt lõi của quá trình CPH là vấn đề sở hữu
và quyền sở hữu. Còn CPH DNNN là chuyển đổi sở hữu trong DNNN. Sở
hữu theo quan niệm của chủ nghĩa Mác là quan hệ giữa lao động với những
điều kiện khách quan của lao động, đây là một phạm trù cơ bản bao trùm của
quan hệ sản xuất, nó phản ánh lao động tổng thể của con người và những mối
quan hệ của họ trong việc chiếm hữu những điều kiện khách quan phục vụ
cho lợi ích của con người và sự phát triển xã hội.
Thông qua việc phân tích mối quan hệ bản chất của sở hữu ta thấy hiện
rõ hai nội dung cơ bản của sở hữu là : Sở hữu xã hội và chiếm hữu tư nhân.
Trong đó sở hữu xã hội dùng để chỉ quan hệ lao động trừu tượng với toàn bộ
các điều kiện khách quan trực tiếp của lao động. Giữa sở hữu xã hội và chiếm
hữu tư nhân có mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất vừa tách biệt. Sở hữu
xã hội có hình thái vận động là giá trị mà sự biểu hiện của nó chủ yếu dưới
hình thức tiền tệ, còn chiếm hữu tư nhân luôn được thực hiện dưới dạng hoạt
động cụ thể, có ích trong hệ thống phân công lao động xã hội mà sản phẩm
của nó thể hiện dưới dạng một hàng hoá hay một loại dịch vụ nhất định. Hệ
quả của sự thống nhất và tách rời giữa sở hữu xã hội và chiếm hữu tư nhân
dẫn đến sự phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản xã hội.
Người có quyền sở hữu sẽ nắm quyền chi phối giá trị, nhằm mục đích tìm
kiếm một giá trị cao hơn còn người có quyền sử dụng là người trực tiếp thực
hiện một hoạt động kinh tế cụ thể nào đó để tạo ra giá trị, đó là phương tiện
để tăng giá trị. Mối quan hệ của chúng có thể hiểu là mối quan hệ giữa mục
đích và phương tiện. Chính sự tách biệt của sở hữu xã hội và chiếm hữu xã

9



hội đã tạo ra các tầng lớp người trong xã hội. Việc vạch ra tính chất của sở
hữu là một việc vô cùng quan trọng để hiểu được sự vận động của nó trong
nền kinh tế thị trường. Sự tách biệt giữa hai mặt của sở hữu là một quá trình
lịch sử góp phần cho sự ra đời, sự phát triển của thị trường chứng khoán và
của công ty cổ phần .
• Đặc điểm của công ty cổ phần
- Xét về mặt pháp lý : CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp
nhân độc lập, được hưởng quy chế pháp lý của Nhà nước, có tư cách bên
nguyên để kiện các pháp nhân khác đồng thời cũng có thể bị các pháp nhân
khác kiện. CTCP có vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức
cổ phần. Các cổ đông trong công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty trong phạm vị vốn góp của mình cho công ty chứ không chịu
trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hay hình thức kinh
doanh chung vốn. Nhờ đó mà khả năng thu hút vốn đầu tư và khả năng mạo
hiểm cao hơn. CTCP là một hình thái pháp lý gần như hoàn hảo trong việc
huy động những lượng vốn lớn trong xã hội. Mệnh giá của cổ phiếu trong
CTCP thưòng được định giá thấp để có thể huy động, khai thác ngay cả số
tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng.
- Xét về mặt huy động vốn : Thì CTCP giải quyết hết sức thành công vì nó
tạo điều kiện cho những cá nhân với số tiền nhỏ cũng có cơ hội đầu tư có lợi
và an toàn, bởi vì: Việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi
tức cổ phần, mà còn hứa hẹn mang đến cho họ một khoản thu nhập “ngầm”
nhờ sự tăng giá trị của cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Mặt khác các
cổ đông có quyền tham gia quản lý công ty theo điều lệ của CTCP và được
pháp luật bảo đảm. Điều lợi nữa là các cổ đông được hưởng ưu đãi trong việc
mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi công ty đem bán
rộng rãi cho công chúng. Một đặc điểm về vốn của CTCP nữa là sự linh hoạt
trong việc chuyển nhượng, mua bán những cổ phiếu tự do. Như vậy sẽ chẳng


10


khó khăn gì cho những người muốn rút vốn kinh doanh hay muốn tham gia
kinh doanh thêm trong CTCP. Nghĩa là việc chuyển từ sở hữu này sang sở
hữu khác diễn ra rất mau lẹ mà guồng máy của công ty vẫn có thể hoạt động
bình thường. Cổ tức của CTCP không những là mối quan tâm của các cổ đông
trong CTCP, mà còn có tác động rất lớn đến giá trị giao dịch cổ phiếu của Thị
trường chứng khoán bởi tâm lý những người góp vốn cổ phần thường muốn
thu được lợi tức cổ phần cao hơn lãi suất trên thị trường vốn.
- Xét về mặt sở hữu: CTCP có nhiều chủ sở hữu, chủ sở hữu của CTCP là
các cổ đông, song phần lớn các cổ đông của CTCP không tham gia vào quản
lý công ty mà giao quyền điều hành và quản lý công ty cho một bộ phận nhỏ
đó là Hội đồng quản trị. Các chủ sở hữu khác chỉ thực hiện quyền sở hữu của
mình trên phương diện thu lợi tức cổ phần thông qua hoạt động kinh doanh
của công ty; tham gia Đại hội đồng cổ đông, quyết định những vấn đề có tính
chiến lược của công ty như thông qua điều lệ, phương án xây dựng công ty
2.1.2 Những vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
2.1.2.1 Một số khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao
nhất với chi phí ít nhất. Đây không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý
kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề kinh doanh, hiện nay
đang tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm thứ nhất: Nhiều nhà quản trị học quan niệm hiệu quả kinh
doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để
đạt được kết quả đó. Manfred Kuhn cho rằng: ”Tính hiệu quả được xác định
bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”.

Quan điểm nay cho thấy hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực ( nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác

11


định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối
quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác
định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh
doanh bằng công thức chung nhất như sau:
H=

K
C

Trong đó:
H - hiệu quả kinh doanh
K - kết quả đạt được
C - chi phí bỏ ra
Quan điểm thứ hai: Nhà kinh tế học người Anh Adamsmith cho rằng
“Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ
hàng hoá”. Ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả sản
xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí mở rộng sử dụng các nguồn lực
sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan
điểm này chúng ta có cùng hiệu quả.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ
giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm
này đã thể hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi
phí đã tiêu hao. Nhưng xét trên quan điểm triết học Mác – Lênin thì sự vật và

hiện tượng đều có quan hệ ràng buộc hữu cơ, chúng tác động qua lại lẫn nhau
chứ không tồn tại một cách riêng rẽ. Hơn nữa sản xuất kinh doanh là một quá
trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn
có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh
thay đổi. Theo quan điểm nay tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét đến phần
kết quả tăng thêm và chi phí tăng thêm. Công thức được thể hiện như sau:

12


H=

∆Q
∆C

Trong đó:
H: Hiệu quả kinh doanh
∆Q: phần tăng thêm của kết quả thu được
∆C: phần tăng thêm của chi phí bỏ ra
Quan niệm thứ tư: Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết
quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của quan niệm nay là
phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được kết
quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử
dụng các chi phí. Tuy nhiên, quan niệm này chưa biểu hiện được tương quan
giữa lượng và chất của kết quả, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối
liên hệ này. Quan niệm này được thể hiện qua công thức như sau:
H = GO – TC
Trong đó:
H - Hiệu quả kinh doanh
GO - Tổng giá trị sản lượng

TC - Tổng chi phí bỏ ra
Quan niệm thứ năm cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả
mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội (CNXH), cho
rằng quỹ tiêu dùng với tính chất là chi tiêu đại diện cho mức sống của mọi
người trong các doanh nghịêp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan
điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất CNXH là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn ở
đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân
dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng phong phú, muôn hình muôn
vẻ phản ánh trong các chỉ tiêu mức độ thoã mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao
đời sống.

13


Tuy hiệu quả kinh doanh được xem xét và đánh giá từ nhiều góc độ
khác nhau nhưng chúng đều chứa đựng một nét chung là chi phí tối thiểu các
nguồn lực sản xuất để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm tối đa mà vẫn
đảm bảo chất lượng, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường và xã hội.
Thông qua đó doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa. Đó là sự mong muốn và
mục đích lâu dài của mọi tổ chức kinh tế.
2.1.2.2 Mục đích và bản chất của hiệu quả kinh doanh
• Mục đích hiệu quả kinh doanh: Mục đích của việc đánh giá hiệụ quả
kinh doanh không chỉ dừng lại ở chỗ tính toán các chỉ tiêu hiệu quả và so sánh
chúng với tiêu chuẩn để đưa ra kết luận cuối cùng là công việc kinh doanh đó
có hiệu quả hay không hoặc hiệu quả ở mức độ nào. Quan trọng hơn cả là
việc tính toán, so sánh các số liệu để thấy được những đúng đắn cũng như
những sai lầm mắc phải trong quá trình quản trị doanh nghiệp. Có như vậy
mới có hướng tháo gỡ những điểm yếu, phát huy thế mạnh trong công tác
quản trị. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

• Bản chất của hiệu quả kinh doanh: Để hiểu rõ bản chất của phạm
trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả
và kết quả:
Kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình
kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc
đơn vị giá trị. Kết quả cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh
doanh hoàn toàn định tính như: uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất
lượng sản phẩm…cần chú ý rằng không phải chỉ có kết quả định tính mà cả
kết quả định lượng. Đôi khi cũng rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả
không chỉ là những sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là những sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm… Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất lại tách rời quá trình
tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào dó cũng chưa

14


thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao giờ thì
tiêu thụ được.
Hiệu quả là phạm trù phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh
doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất ( lao động, máy
móc, thiết bị, nguyên vật liệu, tiền vốn…) trong quá trình tiến hành các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không
thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối. Cần
chú ý rằng trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được phản ánh bằng số
tương đối: tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Nếu kết quả là mục tiêu
của quá trình sản xuất kinh doanh thì hiệu quả là phương tiện để có thể đạt
được mục tiêu đó.
Cũng cần chú ý rằng hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng
các nguồn lực sản xuất trong một thời kỳ kinh doanh nào đó hoàn toàn khác

với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các
yếu tố đầu vào.
Vậy hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng
các nguồn lực, phản ánh mặt bằng chất lượng của quá trình kinh doanh, phức
tạp và khó tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một
thời kỳ cụ thể nào đó đều khó xác định một cách chính xác.
2.1.2.3 Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với
thị trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp
trong sự cạnh tranh gay gắt. Do đó để tồn tại được trong cơ chế thị trường
cạnh tranh hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động một cách có
hiệu quả hơn. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm thì
nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng. Điều này phản ánh qui luật
khan hiếm. Qui luật khan hiếm bắt buộc mọi doanh nghiệp phải trả lời chính

15


xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Vì thị
trường chỉ chấp nhận cách nào sản xuất đúng loại sản phẩm với số lượng và
chất lượng phù hợp. Để thấy được sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường trước hết
chúng ta phải nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường. Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hoá.
Nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào một ý kiến chủ quan
nào. Bởi vì thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Ngoài ra thị trường còn có một vai trò quan trọng
trong việc điều tiết và lưu thông hàng hoá. Thông qua đó các doanh nghiệp có
thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên

thị trường. Trên thị trường luôn tồn tại các qui luật vận động của hàng hoá,
giá cả, tiền tệ... Như các qui luật giá trị, qui luật thặng dư, qui luật giá cả, qui
luật cạnh tranh... Các qui luật này tạo thành hệ thống thống nhất và hệ thống
này chính là cơ chế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường được hình thành bởi
sự tác động tổng hợp trong sản xuất và trong lưu thông hàng hoá trên thị
trường. Thông qua các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nó
tác động đến việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm thay đổi cơ
cấu sản phẩm, cơ cấu ngành. Nói cách khác cơ chế thị trường điều tiết quá
trình phân phối lại các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng
nhu cầu xã hội một cách tối ưu nhất. Tóm lại, với sự vận động đa dạng, phức
tạp của cơ chế thị trường dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để tạo ra được sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định cho mình một phương thức
hoạt động riêng, xây dựng các chiến lược, các phương án kinh doanh một
cách phù hợp và có hiệu quả.

16


Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô
cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua: Thứ nhất: nâng cao hiệu quả
kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh
nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm
bảo sự tồn tại này, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và
phát triển một cách vững chắc. Do đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là
một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động
trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của
mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không

ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng
như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất
định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách nhìn
khác là sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hoá, của
cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo ra
sự tích luỹ cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều
phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản
xuất trong nền kinh tế. Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc
đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh
yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh
doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị
trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng
gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là cạnh tranh về
mặt hàng mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong
khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đề ra là phát triển thì cạnh tranh là

17


yếu tố làm các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể là các
doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn
tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh
trên thị trường. Do đó doanh nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt,
giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá
thành tăng khối lượng hàng hoá bán, chất lượng không ngừng được cải thiện
nâng cao... Thứ ba, mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hoá
lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt

động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm cung cấp cho thị trường. Muốn
vậy, doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhất định.
Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có
cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm
trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực xã hội
nên là đIều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh càng cao càng phản ánh doanh nghiệp đã sử dụng tiết
kiệm các nguồn lực sản xuất.Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi
khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá
lợi nhuận. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức
cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.
2.1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
* Các yếu tố thuộc môi trường bên trong
+ Lực lượng lao động: Người ta thường nhắc đi nhắc lại luận điểm:
Khoa học công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Áp
dụng kĩ thuật tiến bộ mới là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất.
Nếu chỉ trang bị máy móc, thiết bị kĩ thuật tiên tiến thôi chưa đủ, một vấn đề
không kém phần quan trọng là vai trò của người lao động. Chúng ta đều biết,
máy móc dù tối tân đến đâu cũng đều do con người tạo ra. Nếu không có lao
động sáng tạo của con người sẽ không có những máy móc, thiết bị đó. Ngoài

18


ra, máy móc thiết bị dù hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ
chức, trình độ kĩ thuật, trình độ sử dụng của người công nhân thì mới phát
huy được tác dụng, tránh lãng phí thậm chí hỏng hóc.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, lực lượng
lao động của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh ở các mặt sau: Thứ nhất, bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công

nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới,...có hiệu quả hơn trước
hoặc cải tiến kĩ thuật nâng cao năng suất, hiệu suất so với trước; Thứ hai,
người lao động trực tiếp điều khiển máy móc thiết bị tạo ra kết quả của doanh
nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng công suất của
máy móc thiết bị, tận dụng nguyên vật liệu trực tiếp làm tăng năng suất, tăng
hiệu quả từng nơi làm việc; Thứ ba, lao động có kỷ luật, chấp hành đúng mọi
quy định về thời gian, về quy trình kỹ thuật sản xuất sản phẩm, quy trình bảo
dưỡng máy móc thiết bị dẫn đến kết quả không chỉ tăng năng suất, chất
lượng, hiệu quả còn tăng độ bền, giảm chi phí sửa chữa thiết bị máy móc
....Ngoài ra, chất lượng sản xuất còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm,
tinh thần hợp tác phối hợp, khả năng thích ứng với những thay đổi, nắm bắt
thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp.
+ Sự phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng kỹ thuật tiến bộ
vào sản xuất: Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của
tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động gắn bó chặt chẽ với quá
trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành sản phẩm. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là một nhân tố hết sức quan
trọng trong việc tăng chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh. Mức độ
chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bị tác động mạnh mẽ bởi trình độ
hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình duy trì bảo dưỡng, duy trì khả năng
làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ, đặc biệt là những
doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt.

19


Hiện nay, dưới góc độ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang
phát triển như vũ bão, có vai trò ngày càng lớn mang tính chất quyết định đối
với việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế ở nước ta. Phù hợp với xu thế chung đó, hầu hết các doanh

nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ngày càng
cải tiến và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải thiện và nâng cao
trình độ trang bị kỹ thuật cho mình.
+ Hệ thống trao đổi xử lý thông tin: Sự bùng nổ của cách mạng khoa
học công nghệ đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó tin học và
điện tử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông tin được coi là đối tượng lao
động của các nhà kinh doanh và nền kinh tế thị trường hiện nay là nền kinh tế
thông tin hoá. Để kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh trong
nước và quốc tế phát triển, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác
về thị trường, thông tin về công nghệ, thông tin về tình hình cung cầu, hàng
hoá, dịch vụ, thông tin về giá cả, thông tin về tỷ giá... Không những thế các
doanh nghiệp còn rất cần biết về kinh nghiệm thành công, thất bại của các
doanh nghiệp trong nước và quốc tế, biết được thông tin về các thay đổi trong
các chính sách kinh tế của nhà nước và các chính sách liên quan đến thị
trường của doanh nghiệp
Những thông tin kịp thời chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh
nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh
ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không quan tâm đến thông tin một cách thường
xuyên, liên tục, không nắm bắt được thông tin một cách kịp thời, chính xác dễ
bị thất bại.
+ Hoạt động quản trị doanh nghiệp: Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thì yếu tố quản trị ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quản trị doanh nghiệp hiện đại luôn chú trọng đến việc xác định cho doanh

20


nghiệp một hướng đi đúng trong môi trường hoạt động kinh doanh ngày càng
biến động. Chất lượng của chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp

là cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại,
hiệu quả kinh doanh cao hay thấp của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Định hướng đúng và luôn định hướng đúng là cơ sở để đảm bảo hiệu
quả lâu dài của doanh nghiệp.
Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh
tranh. Các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm, giá cả và tốc
độ cung ứng đảm bảo cho doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh phụ
thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản trị của các nhà quản trị. Bởi
vậy nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm
chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết
định đối với việc thành đạt của một doanh nghiệp. Trong các nhiệm vụ phải
hoàn thành, người cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp phải chú ý đến hai nhiệm vụ
chủ yếu là: Thứ nhất, xây dựng tập thể thành một hệ thống đoàn kết, năng
động với chất lượng cao. Thứ hai, dìu dắt tập thể dưới quyền, hoàn thành mục
đích và mục tiêu một cách vững chắc và ổn định. Ở bất kì một doanh nghiệp
nào, hiệu quả kinh doanh đều phụ thuộc rất lớn vào tổ chức cơ câu bộ máy
quản trị, khả năng xác định chính xác mục tiêu, phương hưóng kinh doanh có
lợi nhất cho doanh nghiệp.
* Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
+ Môi trường pháp lý: Pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật,
quy trình, quy phạm kỹ thuật sản xuất...Tất cả các quy định pháp luật về sản
xuất kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các
doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với
nhau nên việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là rất quan trọng. Một môi
trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành

21



thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vừa điều chỉnh các hoạt
động kinh tế vi mô theo hướng không phải chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả
của riêng mình mà còn phải chú ý bảo đảm lợi ích kinh tế của mọi thành viên
trong xã hội. Với tư cách một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành mọi quy định của luật pháp, với các hoạt
động liên quan đến thị trường ngoài nước, doanh nghiệp không thể không
nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các hoạt động trên cơ sở tôn
trọng pháp luật của nước đó.
+ Môi trường văn hoá xã hội: Trình độ việc làm, điều kiện xã hội, trình
độ giáo dục, phong cách lối sống, những đặc điểm truyền thống, tầm lý xã
hội...Mọi yếu tố văn hoá xã hội đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp theo cả hai hướng tích cực hoặc không tích
cực. Trình độ văn hoá cao sẽ thuận lợi lớn cho doanh nghiệp đào tạo đội ngũ
lao động có chuyên môn cao và có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức cần
thiết nó có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp và ngược lại. Phong cách sống công nghiệp tạo thuận lợi cho
việc thực hiện kỷ luật lao động, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh
và ngược lại.
+ Môi trường chính trị: Ổn định thế chế chính trị, xu hướng chính trị,
tương quan giữa các cấp và tầng lớp xã hội.... cũng có tác động rất lớn đến
hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Môi trường chính trị ổn định
luôn luôn là điều kiện tiền đề cho việc phát triển các hoạt động đầu tư, các
hoạt động kinh tế. Vấn đề đầu tư lại tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
+ Môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng: Tình trạng ô nhiễm môi
trường, xử lý phế thải, các ràng buộc xã hội về môi trường... đều tác động
trong một chừng mực nhất định đến hiệu quả kinh doanh. Một môi trường
trong sạch, thoáng mát sẽ trực tiếp làm giảm chi phí kinh doanh để cải thiện

22



môi trường bên trong doanh nghiệp và tạo điều kiện nâng cao năng suất lao
động, dẫn tới làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại.
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ
thống thông tin liên lạc, điện, nước,.... đều là những nhân tố tác động mạnh
mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh ở
khu vực có cơ sở hạ tầng đầy đủ, dân cư đông đúc và có trình độ dân trí cao
sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm,
tăng doanh thu, giảm chi phí kinh doanh,... và do đó nâng cao hiệu quả kinh
doanh của mình. ngược lại, trong nhiều trường hợp khi điều kiện cơ sở hạ
tầng thấp kém đã ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu tư hoặc gây cản trở đối
với hoạt động cung ứng vật tư, kỹ thuật, mua bán, trao đổi hàng hoá của
doanh nghiệp và do đó có tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Môi trường quốc tế: Các xu hướng chính trị trên thế giới, các chính
sách bảo hộ và mở cửa trên thế giới, hay chiến tranh trên thế giới,... đều có
ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động mở rộng thị trường mua bán của doanh
nghiệp và vì thế tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Môi trường công nghệ: Tình hình nghiên cứu, triển khai áp dụng
khoa học công nghệ - kỹ thuật mới, đầu tư máy móc thiết bị hiện đại,... đều có
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Những doanh
nghiệp có công nghệ tốt, hiện đại thì sẽ hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại.
+ Môi trường kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng thu nhập
quốc dân, biến động của tiền tệ, các chính sách kinh tế nhà nước, các hoạt
động của các đối thủ cạnh tranh,...luôn là các nhân tố tác động trực tiếp đến
các quyết định cung cầu của từng doanh nghiệp và từ đó tác động mạnh mẽ,
trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp.


23


Nhìn chung, các nhân tố bên trong và bên ngoài đều tạo ra những cơ
hội và nguy cơ đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và nó
tạo nên mội trường kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh tồn
tại một cách khách quan, gây ra những khó khăn và cũng như các điều kiện
thuận lợi tác động đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thực tiễn CPH DNNN ở một số nước trên thế giới
* CPH DNNN ở Anh:
Nước Anh được coi là nước đi đầu trong việc tiến hành tư nhân hóa và
CPH. Khu vực kinh tế nhà nước ở Anh chiếm gần 20% giá trị tài sản quốc
dân. Phần lớn các DNNN ở Anh tồn tại dưới hình thức công ty cổ phần công
cộng hình thành theo điều khoản nhất định của quốc hội. Một số bộ phận khác
tồn tại dưới hình thức các công ty cổ phần, trong đó nhà nước nắm giữ một số
ít cổ phần khống chế trong công ty. Quá trình CPH các DNNN ở Anh chia
làm 3 giai đoạn
- Giai đoạn từ năm 1979 – 1984 : Giai đoạn này tập trung vào CPH các
xí nghiệp quốc doanh vừa và nhỏ trong các công ty quốc doanh lớn.
- Giai đoạn 1984 – 1987: Giai đoạn này tập trung vào CPH để thành lập
các cổ phần công cộng và đưa cổ phần ra công chúng.
- Giai đoạn 1987 đến nay: Giai đoạn này bán đấu giá rộng rãi các
ngành kinh tế cộng cộng.
CPH ở Anh được thực hiện thông qua hoạt động tổ chức bán đấu giá
các cổ phần của doanh nghiệp cho những ai muốn mua nó thông qua sở giao
dịch chứng khoán. Nhà nước có những ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên
tại DNNN được CPH, đối với những người mua nhỏ.
* CPH DNNN ở Trung quốc:
Trên thực tế, CPH ở Trung Quốc đã được thực hiện từ năm 1984 với sự

ra đời của công ty Cổ Phần Hữu Hạn Bách Hóa Thiên Kiều ( Bắc Kinh). Sau

24


đó trong Văn Kiện quan trọng được ban hành tháng 12/ 1986 Quốc Vụ viện
Trung Quốc đã cho phép “các địa phương có thể chọn ra một vài doanh
nghiệp lớn và vừa có điệu kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí
điểm CPH”.
Trung Quốc quan điểm CPH và công ty hóa là hai mặt quan trọng của
quá trình cải cách DNNN, CPH được coi là một phương pháp của công ty hóa
và công ty hóa là kết quả của CPH. Luật công ty của Trung Quốc ban hành
năm 1993 tạo điều kiện cho quá trình CPH đạt hiệu quả. Quá trình CPH xí
nghiệp nhà nước của Trung Quốc gắn liền với sự hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán.
CPH DNNN của Trung Quốc hình thành một cơ chế kích thích tương
đối hiệu quả, người lãnh đạo doanh nghiệp có thể do kích thích của động cơ
lợi nhuận mà đưa ra các quyết định kịp thời đối với biến động của tín hiệu thị
trường, tăng cường sức sống vốn có của doanh nghiệp.
Theo số liệu thống kê do ủy ban điều hành và giám sát tài sản nhà nước
công bố ngày 24/01/2007 thì chỉ riêng 159 doanh nghiệp nhà nước cấp trung
ương – những doanh nghiệp lớn nhất chịu sự quản lý trực tiếp của chính
quyền trung ương Trung Quốc, đã đạt 97 tỷ USD lợi nhuận trong năm 2006,
tăng 18% so với cùng kì năm 2005. Kết quả này đạt được phần lớn là nhờ
hoạt động sản xuất điện, than, dầu. Doanh số các sản phẩm sắt, thép, ô tô tăng
cộng với các mô hình sản xuất sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn cũng
đóng góp vào sự tăng trưởng này.
Tuy nhiên, CPH ở Trung Quốc còn có những vấn đề chưa thực sự phát
huy được đầy đủ như việc tách bạch giữa chính phủ và doanh nghiệp, mặc dù
tài sản nhà nước quản lý tuy đã chia cổ phần, nhưng trên thực tế chính phủ

vẫn là người nắm quyền khống chế, vì vậy doanh nghiệp còn khó khăn trong
tự chủ lấy tối đa hóa lợi nhuận làm mục tiêu tham gia cạnh tranh thị trường.
Mặt khác còn chưa hình thành một cơ chế ràng buộc và giám sát hữu hiệu,

25


×