Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Hồ sơ thực hành thi cấp chứng chỉ luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.61 KB, 15 trang )

LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
ĐOÀN LUẬT SƯ TỈNH QUẢNG NINH

HỒ SƠ KIỂM TRA THỰC HÀNH
TÊN VỤ VIỆC: ÔNG HOÀNG VĂN HỒNG
CÔNG NHÂN LÁI XE CÔNG TY CỔ PHẦN THAN HÀ TU
BỊ KHỞI TỐ ĐIỀU TRA VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN.

Tên người tập sự:
Phạm Xuân Long
Tên Luật sư hướng dẫn:
Luật sư Vũ Quang Ninh
Tổ chức hành nghề luật sư: Công ty Luật Vũ Anh.

Kỳ kiểm tra thứ 1 năm 2015
1


MỤC LỤC
Số thứ
tự

Nội dung

Trang

LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN I

TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN
Yêu cầu của khách hàng và căn cứ tiếp nhận vụ việc


Tóm tắt nội dung vụ việc
Phạm vi công việc được phân công

PHẦN II

PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC
Căn cứ pháp luật để giải quyết vụ việc
Bản chất và Quan hệ pháp lý phải giải quyết
Quan điểm bào chữa

PHẦN
III

KẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ VIỆC

PHẦN
IV

BÀI HỌC KINH NGHIỆM
KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

PHẦN V

DANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM

2


LỜI NÓI ĐẦU
Kính thưa:


- Hội đồng Kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư;
- Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh.

Tôi là Phạm Xuân Long, là người tập sự hành nghề luật sư tại Công ty
Luật Vũ Anh, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh. Trong thời gian tập sự, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn quý báu của Luật sư Vũ Quang Ninh – Giám đốc Công
ty Luật Vũ Anh trong việc áp dụng các kỹ năng hành nghề luật sư, như: được
tiếp cận nghiên cứu hồ sơ; được tham gia thảo luật đóng góp ý kiến xây dựng
quan điểm giải quyết các vụ việc, vụ án và giúp việc cho luật sư tại phiên xét xử
hoặc tại các cơ quan tiến hành tố tụng.
Đến nay hết thời gian tập sự, thực hiện trách nhiệm báo cáo kết quả tập
sự, tôi xin kính trình tới Hội đồng kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư hồ sơ
kiểm tra thực hành của tôi.
Nội dung hồ sơ kiểm tra được tôi xây dựng trên cở sở một vụ ánh hình sự
mà Luật sư Vũ Quang Ninh được khách hàng mời bào chữa cho người thân. Hồ
sơ kiểm tra có tên gọi “Ông Hoàng Văn Hồng – công nhân lái xe Công ty Cổ
phần than Hà Tu bị khởi tố điều tra về tội tham ô tài sản”.
Đến nay, vụ án đã kết thúc đem lại sự hài lòng cho khách hàng cùng gia
đình. Bản thân tôi trong quá trình tham gia giúp việc cho luật sư Vũ Quang Ninh
đã đúc rút được nhiều kiến thức, kinh nghiệm cho quá trình hành nghề luật sư
sau này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban chủ Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh đã tạo điều
kiện cho tôi tham dự đợt kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư lần này. Cảm ơn
Luật sư Vũ Quang Ninh đã hướng dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian tập sự
và góp ý kiến cho tôi hoạt thiện hồ sơ kiểm tra này.
Trân trọng cảm ơn.
Quảng Ninh, ngày 21/05/2015
Người tập sự hành nghề luật sư


Phạm Xuân Long

3


PHẦN I. TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN
1.1 Yêu cầu của khách hàng và căn cứ tiếp nhận vụ việc
Ngày 09/04/2013, ông Hoàng Văn Hồng có giấy mời luật sư Vũ Quang
Ninh tham gia vụ án để bào chữa cho ông về cáo buộc hành vi tham ô tài sản
theo cáo buộc của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Giấy mời có xác
nhận của Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 15/04/2013, Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh cấp
giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sư Vũ Quang Ninh.
1.2 Tóm tắt nội dung vụ việc
Vào hồi, 19 giờ 10 phút ngày 05/09/2013, Cơ quan An ninh Điều tra Công
an tỉnh Quảng Ninh bắt quả tang 02 công nhân trực ca là Nguyễn Hải Ninh và
Trần Minh Ngọc đang bơm dầu Gadoan của Công ty cổ phần than Hà Tu xuống
phía khu vực nhà dân.
Ngày 13/09/2012, Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh ra
Quyết định khởi tố vụ án hình sự “tham ô tài sản” xảy ra tại kho 15 – Xí nghiệp
Vật tư Vận tải Hòn Gai – Công ty Vật tư vận tải và xếp dỡ Vinacomin.
Trong thời gian điều tra, ngày 03/01/2013 Cơ quan An ninh Điều tra Công
an tỉnh Quảng Ninh ra quyết định số 03 khởi tố bị can đối với ông Hoàng Văn
Hồng là lái xe Công ty cổ phần than Hà Tu – Vinacomin vì đã có hành vi lấy
trộm dầu của Công ty cổ phần than Hà Tu và lệnh số 03 về việc bắt bị can ông
Hoàng Văn Hồng để tạm giam.
Đúng 16 giờ 05 phút ngày 03/01/2013, ông Hoàng Văn Hồng nhận quyết
định phê chuẩn việc khởi tố, tạm giam của Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh và
phải chấp hành lệnh tạm giam.
Sau quá trình điều tra, Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh

ra kết luận, xác định nội dung vụ án như sau:
Khoảng đầu tháng 7/2012, Đỗ Văn Quyết và Vũ Văn Luôn đặt vấn đề với
Bùi thanh Tân và Bùi Đức Tâm (nhân viên cấp phát dầu kho 15, Công ty Vật tư
vận tải và xếp dỡ Vinacomin) về việc: nếu lái xe Công ty than Hà Tu cắt bớt dầu
để lại kho, thì tiếp nhận và bơm ra ngoài cho nhóm Quyết bán ra ngoài. Tân và
Tâm sẽ được hưởng lợi 2.000 đồng/lít dầu.
Sau đó, Quyết và Luôn thuê kho nhà Vũ Bá Quý để chuyển dầu từ kho 15
xuống đóng vào thùng phi và giao Quý trở đến điểm tập kết. Quý được hưởng
1.000đ/lít. Hai đối tượng Quyết và Luôn gặp Yên Quang Thành bàn bạc việc
tiêu thụ dầu đầu tư tiền.
Ngày 17/07/2012, Luôn, Quyết cùng Bùi Văn Hoàn, Nguyễn Thành Luân
đào đất chôn ống từ nhà Quý lên kho dầu 15. Cuối tháng 7/2012, công tác chuẩn
bị cho việc lấy trộm dầu được hoàn thành. Từ ngày 01/08/2012 nhóm Quyết
thực hiện việc thu mua dầu của lái xe công ty than Hà Tu tại kho dầu 15, Công
4


ty Vật tư vận tải và xếp dỡ Vinacomin, rồi chuyển dầu từ kho dầu xuống để tuồn
đi bán.
Số tiền bán dầu Quyết trực tiếp quản lý và thanh toán cho người tham gia,
gồm: lái xe 6.000/lít, nhân viên kho dầu 2.000 đồng/lít, Quý 1.000/lít. Quyết và
luôn hưởng 1000/lít. Ngoài ra Luôn và Quyết còn được hưởng thêm
2.800đồng/lít vào những ca không có Nguyễn Xuân Thanh và Trần Văn Sơn.
Quyết trả cho Bùi Văn Hoàn, Bùi Duy Hưng 10.000.000 đồng/tháng, Nguyễn
Thị Phương 200.000 đồng/ngày còn lại chuyển cho Thành theo từng đợt.
Đối với 78 lái xe phân xưởng xe 1 – Công ty Cổ phần than Hà Tu, qua đối
chiếu list cổng thông tin tự động hóa cấp phát nhiên liệu và sổ cấp dầu Gadoan
của phân xưởng xe 1 xác định: từ ngày 01/08/2012 đến ngày 05/09/2012 đã có
dầu bớt ra để bán ra ngoài, với tổng số lượng là 53.600 lít.
Sau quá trình điều tra đã 73 lái xe thừa nhận hành vi lấy trộm dầu và tự

nguyện nộp tiền bồi thường cho Công ty than Hà Tu. Còn lại 03 lái xe không
thừa nhận việc lấy trộm dầu của Công ty than Hà Tu.
Qua đối chiếu list cổng thông tin tự động hóa cấp phát nhiên liệu và sổ cấp
dầu và các tài liệu khác thu thập như: lời khai của các nhân viên kho dầu, Cơ
quan An ninh Điều tra xác định bị can Hoàng Văn Hồng đã bớt 700 lít để bán ra
ngoài hưởng lợi bất chính.
Về nguồn gốc dầu lái xe chuyển bán ra ngoài là do điều kiện vận chuyển
đường xe chạy và thời tiết tốt, kỹ năng điều khiển của lái xe thì tiết kiệm được
dầu dôi dư so với định mức khoán của Công ty than Hà Tu.
Ngày 30/05/2013, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh ra Cáo trạng số
93 truy tố ông Hoàng Văn Hồng về hành vi tham ô tài sản nhiều lần theo điểm c
khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự.
Ngày 08/07/2013, Tòa án nhân tỉnh Quảng Ninh ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử. Ngày 06/08/2013, Tòa án nhân tỉnh Quảng Ninh ra quyết định trả lại hồ
sơ vụ án. Và ngày 16/06/2014 Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng
Ninh ra Quyết định số 03 đình chỉ điều tra bị can và trả tự do cho ông Hoàng
Văn Hồng.
1.3 Phạm vi công việc được phân công
Sau khi nhận lời mời của ông Hoàng Văn Hồng, Luật sư Vũ Quang Ninh
đã thụ lý vụ lý và giao tôi làm Trợ lý giúp việc cho Luật sư trong vụ án. Theo
đó, tôi được phân công nhiệm vụ thực hiện các công việc sau:
1/ Tiến hành thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sư Vũ
Quang Ninh trong 03 giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.
2/ Chuẩn bị nội dung và hẹn lịch làm việc cho Luật sư Vũ Quang Ninh gặp
mặt, trao đổi ban đầu với gia đình ông Hoàng Văn Hồng.

5



3/ Chuẩn bị thủ tục, nội dung trao đổi cho Luật sư thăm gặp bị can, bị cáo
ông Hoàng Văn Hồng khi đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh
Quảng Ninh.
4/ Lập thủ tục và giúp luật sư sao chụp hồ sơ vụ án.
5/ Lập hồ sơ, đọc bóc nội dung, tập hợp cơ sở pháp lý liên quan và ra quan
điểm về nội dung vụ án.
6/ Xây dựng nội dung công văn, ý kiến trao đổi với cơ quan tố tụng về nội
dung vụ án và quan điểm buộc tội của Viện Kiểm sát.
7/ Xây dựng nội dung bản bào chữa, phương án hỏi và xác định nội dung
tranh luật tại tòa cho Luật sư.
8/ Thực hiện thủ tục thanh lý hợp đồng dịch pháp lý giữa Luật sư và khách
hàng sau khi kết thúc vụ án.
PHẦN II. PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC
2.1 Căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án
- Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009;
- Bộ luật tố tụng hình sự 2003;
- Luật phòng, chống tham nhũng 2005;
- Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009;
- Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC hướng dẫn
thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao
ban hành;
-Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
hướng dẫn áp dụng chương XIV "Các tội phạm xâm phạm sở hữu" của Bộ luật
Hình sự năm 1999 do Bộ Công An; Bộ Tư pháp; Toà án nhân dân tối cao; Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
2.2 Bản chất và quan hệ pháp lý phải giải quyết
Địa vị pháp lý và quan hệ pháp luật giữa ông Hồng với cơ quan tiến hành
tố tụng: Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, Viện Kiểm sát tỉnh
Quảng Ninh, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

Mối quan hệ giữa ông Hoàng Văn Hồng với chủ sở hữu dầu gadoan là
Công ty TNHH 1TV Vật tư, vận tải và xếp dỡ - Vinacomin.
Địa vị pháp lý của ông Hoàng Văn Hồng tại Công ty than Hà Tu và trong
ca sản xuất của ông Hồng.
2.3 Quan điểm bào chữa
a. Ông Hoàng Văn Hồng không phải là chủ thể của tội tham ô tài sản

6


Theo quy định của Điều 278, BLHS thì chủ thể phạm tội tham ô phải là
người có trách nhiệm quản lý đối với tài sản bị tham ô. Như vậy, trong vụ án
này, chỉ khi ông Hoàng Văn Hồng là người có trách nhiệm quản lý dầu Gadoan
thì mới có đủ khả năng thực hiện hành tham ô dầu Gadoan.
Trong vụ án, dầu Gadoan ban đầu là tài sản thuộc quyền sở hữu của Xí
nghiệp vật tư Hòn Gai, Công ty TNHH 1TV Vật tư, vận tải và xếp dỡ Vinacomin, được bán sang cho công ty than Hà Tu qua giao dịch bằng tem
phiếu. Ông Hồng là công nhân lái xe của Công ty than Hà Tu nên không thể
được giao nhiệm vụ quản lý dầu từ Công ty Vật tư, vận tải và xếp dỡ Vinacomin.
Với địa vị là người công nhân, lao động đơn thuần, trong công ty Hà Tu
ông Hồng là người hành nghề lái xe, có nghĩa vụ vận hành thiết bị xe tải theo
đúng lệnh điều hành sản xuất của người quản lý lao động trực tiếp trong mỗi ca
sản xuất, tức không có tính công vụ theo quy định của Điều 3 Luật bồi thường
trách nhiệm Nhà nước, không là đối tượng được quy định tại Điều 277, BLHS
và Điều 1 Luật phòng chống tham nhũng 2005.
Đối với dầu Gadoan khi được bơm vào phương tiện của ông Hồng đều có
kẹp chì, niêm phong miệng xả của bình dầu, ông Hồng có muốn cũng không thể
tác động đến số dầu Gadoan đã cấp để chạy xe.
Tại Công ty than Hà Tu, thì theo mục 4.2, Điều 4, Chương II, Quy chế
khoán, quản trị nguồn chi phí sản xuất, thì người chịu trách nhiệm quản lý tài
sản của Công ty phân giao là Quản đốc của Phân xưởng, không phải là người lái

xe. Như vậy, trong trong phân xưởng xe 1, ông Hoàng Văn Hồng không phải là
người được phân giao trách nhiệm quản lý dầu Gadoan để có thể thực hiện được
hành vi tham ô.
b. Chứng cứ buộc tội trong vụ án phản ánh sự việc vô lý, không khách quan
nên không có giá trị buộc tội.
List quản lý dầu cấp phát là sản phẩm thử nghiệm, phản ánh sự việc vô lý
(lưu lượng bơm 400lít, 700 lít trong khoảng thời gian ngắn), không khách quan,
không thể dùng làm căn cứ buộc tội.
Sổ cấp phát đầu là sản phẩm ghi chép đơn phương của Phó quản đốc trực
ca có nội dung bị dập xóa, sửa chữa và ông Hồng không được biết, ký xác nhận
các thông tin được ghi chép trong sổ.
Lời khai của nhân viên kho dầu, trực ca là chủ quan không có căn cứ,
không có giá trị làm chứng cứ để buộc tội.
PHẦN III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ VIỆC
3.1 Xây dựng Bản bào chữa cho Luật sư Vũ Quang Ninh
Kính thưa HĐXX!

7


Tôi là LS Vũ Quang Ninh, Công ty Luật Vũ Anh, Đoàn luật sư tỉnh
Quảng Ninh, xin trình bày bản luận cứ, luận chứng bào chữa cho ông Hoàng
Văn Hồng, nội dung cụ thể như sau:
Cáo trạng của VKS khẳng định: qua đối chiếu list cổng thông tin tự động
hoá cấp phát nhiên liệu của kho dầu 15 – XN VT Hòn Gai và sổ cấp dầu ga
doan của PX xe 1 CT CP Hà Tu và các tài liệu khác đã thu thập như các lời
khai của các nhân viên kho dầu đủ cơ sở xác định ông Hoàng Văn Hồng đã bớt
700 lít dầu trong 07 ngày để lại kho để bán ra ngoài (trang 8), tương đương với
số tiền 15.354.500 đồng (trang 13), phạm vào tội “tham ô tài sản” quy định tại
điểm c, khoản 2, Điều 278, Bộ luật HS.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả thẩm vấn công khai tại
Toà, tôi xin khẳng định nội dung buộc tội trong cáo trạng đối với ông Hồng là
không chính xác, không đảm bảo tính khách quan, không đủ chứng cứ theo quy
định của pháp luật.
Trước hết là về số lượng 700 lít dầu tương đương với số tiền
15.354.500 đồng
Tại bút lục 1096, ĐTV Hoàng Quốc Thái hỏi ông Hồng: “Qua đối chiếu
sổ dầu ga doan tháng 8/2012 của PX xe 1 CT CP than HT với list cổng thông
tin tự động hoá cấp phát nhiên liệu XN VT HG thấy: ngày 1/8/2012, K2, tên LX
Hồng; dầu tồn cuối là 430; số dầu được lĩnh: 250; cây dầu lĩnh: 5; thời gian
lĩnh 16h50p; list thể hiện: ngày 1/8; thời gian bơm 16h50p; ca 2; vòi 5; bơm 50
lít; còn 200 lít đi đâu?” do không giải thích được sự chênh lệch đó nên ông
Hồng bị quy kết bớt lại 200 lít dầu ca 2 ngày 1/8/2012.
Kiểm tra lại list cấp phát nhiên liệu ca 2 ngày 1/8/2012 của XN VT HG,
không thấy vòi bơm số 5 cấp cho bất kỳ mã dầu nào 50 lít; Kiểm tra thời điểm
16 giờ 50 phút trên list dầu, chỉ có vòi số 6 bơm 50 lít; Như vậy, ĐTV đã đối
chiếu sai số vòi giữa sổ cấp dầu và list cấp phát nhiên liêu (BL1875).
Ca 2, ngày 2/8/2012, cũng bằng cách đối chiếu sổ cấp dầu của PX xe 1 và
list dầu của XN VT HG cơ quan tố tụng cho rằng ông Hồng bớt lại kho dầu 100
lít. Kiểm tra lại sổ dầu ca 2, ngày 2/8/2012 của PX xe 1, thì thấy số vòi bơm dầu
cho xe ông Hồng đã bị sửa số 3 thành số 2.
Kiểm tra list dầu ca 2 ngày 2/8/2012 của XN VT HG thấy vòi số 3 lúc 17
giờ 36 phút cấp ra một lượng dầu là 400 lít; còn vòi số 2 lúc 17 giờ 33 phút bơm
ra lượng dầu 300 lít (BL 1879);
Với số liệu bị sửa chữa như vậy, lấy cơ sở nào để khẳng định ông Hồng
lĩnh dầu từ vòi bơm số 2, bớt lại 100 lít cho kho dầu 15. Vì sao không áp dụng
nguyên tắc suy đoán vô tội cho bị cáo để xác định ông Hồng lấy dầu ở vòi 3?.

8



Với 02 dẫn chứng nêu trên cho thấy việc điều tra, truy tố ông Hoàng Văn
Hồng về số lượng dầu 700 lít là không đúng, dựa trên suy đoán chủ quan, gây
bất lợi cho ông Hồng.
Kính thưa HĐXX!
Theo cáo trạng, căn cứ để truy tố ông Hoàng Văn Hồng là list cấp phát
dầu của Công ty TNHH 1TV Vật tư, vận tải và xếp dỡ - Vinacomin và sổ cấp
dầu của Phân xưởng xe 1 CT CP Hà Tu và một số lời khai của nhân viên kho
dầu 15. Vậy, list cấp phát dầu của XN VT HG, sổ cấp dầu PX xe 1, lời khai của
nhân viên kho dầu có được đánh giá theo đúng quy định tại Điều 66 BLTTHS
không?
Về list cấp phát dầu tại kho 15
Đây là sản phẩm phần mềm do Công ty Vật tư Hòn Gai mua của Công ty
tin học Nhật Quang để thống kê tự động kết quả cấp phát nhiên liệu ở các cột
bơm tại kho dầu 15 (BL432).
Sau khi lắp đặt và chạy thử (26/4/2012); ngày 2/5/2012, Công ty Nhật
Quang bàn giao thiết bị cho Công ty Vật tư Hòn Gai; sau 5 tháng 2 ngày, (tức
11/10/2012), Công ty Vật tư Hòn Gai mới có Quyết định ban hành quy định
quản lý, sử dụng khai thác số liệu từ phần mềm trong Công ty (BL432). Vì vậy,
list thống kê số liệu cấp phát nhiên liệu tại kho dầu 15 của XN VT Hòn Gai
trong thời gian từ 1/8/2012 đến 5/9/2012 chưa có Quyết định chính thức của
Công ty đưa vào sử dụng nên không đảm bảo giá trị pháp lý.
Mặt khác, kiểm tra xem xét ở nhiều bút lục thấy các list cấp phát nhiên
liệu tại kho 15 trong thời gian từ 1/8 đến 5/9/2012 phát hiện nhiều sai số. Do đó
tài liệu này không đảm bảo sự chính xác, không đáp ứng được thuộc tính của
chứng cứ theo quy định của BLTTHS.
Xin nêu các dẫn chứng:
Tại bút lục 1871, ở mã số 2, list cấp phát nhiên liệu ca 3, ngày 1/8/2012,
vòi bơm số 6, bơm 196,69 lít dầu trong thời gian 31 giây (từ 1:39:44 đến
1:40:15). Tính ra công suất bơm bình quân của vòi số 6 là 380,7 lít/ phút (nghĩa

là gần 400 lít/ phút)?!.
Tại bút lục 1877, ở mã số 22, list cấp phát nhiên liệu ca 3, ngày 2/8/2012,
vòi bơm số 2, bơm 349,79 lít dầu trong thời gian 30 giây (từ 1:29:13 đến
1:29:43). Tính ra công suất bơm bình quân của vòi số 2 là 699,58 lít/ phút (gần
700 lít/ phút)?!.
Liệu trên thực tế tại kho dầu 15, có vòi bơm dầu nào bơm được 400 hoặc
700 lít/ phút không? Đã xe nào được nhận dầu với công suất bơm này chưa? Sai
số như vậy là do nguyên nhân nào? Do lỗi phần mềm hay lỗi thiết bị phần cứng
hay do mới đưa vào sử dụng nên vận hành chưa thành thạo?.

9


Trong list số liệu cấp phát ngày 1/8/2012 có 02 trang, thể hiện tại 02 bút
lục 1871 và 1872, kết quả 8 mã bơm từ số 2 đến số 10 bị lặp lại nguyên si ở phía
cuối bản list từ mã 42 đến 50?!. Như vậy, list cấp phát ngày 1/8/2012 có 50 mã
bơm nhưng thực tế chỉ có 42 mã, sai lệch đến 8 mã bơm một cách khó hiểu.
Kết quả thực nghiệm của CQANĐT trên vòi bơm chỉ đạt công suất là 20
lít/ phút (BL402) đã chứng minh số liệu về thời gian, về khối lượng dầu trên list
của XN VT HG là không đảm bảo chính xác. Vì vậy, không thể dùng một tài
liệu không chính xác để làm căn cứ kết tội lái xe Hoàng Văn Hồng.
Áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý là việc làm tích cực, nhưng kết
quả thống kê tự động còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, cần phải được
kiểm chứng trên thực tế và kiểm định theo trình tự các mức: kiểm tra mức đơn
vị; kiểm tra tích hợp; kiểm tra mức hệ thống; kiểm tra chấp nhận sản phẩm và
kiểm tra hồi quy. Nhưng hiện nay, hồ sơ vụ án không có tài liệu nào chứng minh
phần mềm này đã được kiểm định.
Theo Điều 66, Bộ luật TTHS, chứng cứ phải đảm bảo 3 thuộc tính quan
trọng, trong đó có thuộc tính hợp pháp và xác thực. Tài liệu list cấp phát xăng
dầu từ 1/8 đến 5/9/2012 không hợp pháp, không chính xác, chứa nhiều lỗi về số

liệu, không đáp ứng được thuộc tính xác thực, nên không thể dùng làm căn cứ
buộc tội bị cáo Hoàng Văn Hồng.
Về sổ cấp dầu của PX 1 tháng 8/2012
Sổ cấp dầu là tài liệu giao cho Phó Quản Đốc trực ca ghi chép số liệu cấp
phát dầu dựa trên các phiếu bán dầu cho các lái xe trong ca sản xuất. Việc ghi
chép số liệu chính xác hay không phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của cán bộ
trực ca. Hiện nay, những người này đang bị truy tố về tội “thiếu trách nhiệm”.
Vậy, sử dụng tài liệu của họ để làm căn cứ buộc tội các lái xe, trong đó có thân
chủ tôi là ông Hoàng Văn Hồng liệu có đảm bảo khách quan không?.
Căn cứ vào lời khai của ông Hồng, Phiếu bán dầu là chứng từ duy nhất lái
xe được xác nhận số lượng dầu được lĩnh, nhưng trong hồ sơ vụ án không có tài
liệu quan trọng này. Vậy lấy cơ sở nào để đánh giá tính chính xác những thông
tin, số liệu trong sổ cấp dầu, hay chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào sự ghi chép của
cán bộ trực ca?
Kiểm tra Sổ cấp dầu PX ô tô 1 không có chữ ký của lái xe Hoàng Văn
Hồng nên không thể dùng những số liệu đơn phương, một phía của PQĐ trực ca
để kết tội ông Hoàng Văn Hồng.
Việc ghi chép Sổ cấp dầu còn chưa cẩn thận, số liệu bị dập xoá, sửa chữa,
không đảm bảo sự tin cậy. Chẳng hạn như ca 2 ngày 2/8/2012, cột bơm dầu cho
ông Hồng bị sửa chữa số 3 thành số 2. Vậy ông Hồng nhận dầu ở vòi nào? Lấy
bao nhiêu dầu, cơ sở nào để xác định ông Hồng lấy vòi 2 là 300 lít, bán trộm
100 lít?

10


Để kiểm chứng thêm tính chính xác của sổ cấp dầu, chúng tôi đã kiểm tra
ca 1 ngày 13/8/2012 (được xác định là không có hiện tượng bán dầu của các lái
xe) thì nhận thấy cũng có sự sai lệch thông tin cấp phát nhiên liệu cho ông
Hồng, cụ thể là:

o Sổ cấp dầu ghi vòi bơm số 6/ cấp 450 lít dầu/ vào 9 giờ 20 phút;
o Nhưng kiểm tra trên list cấp dầu, vòi bơm 6 không cấp mã nào 450 lít
dầu vào lúc 9 giờ 20 phút, chỉ bơm 500 lít vào 9h13p và 400 lít vào lúc 9h40p.
Vậy ông Hồng có lấy dầu ở vòi bơm số 6 không? Và lấy ở mã nào? Nếu lấy ở
mã 500 lít thì nhân viên kho dầu phát thừa cho ông Hồng 50 lít. Nếu lấy ở mã
400 lít thì chẳng lẽ ở ca 1 các lái xe cũng có hiện tượng bớt dầu. Nếu vậy thì kết
luận của CQANĐT còn đúng hay không?.
o Kiểm tra trên list đúng 9 giờ 20 phút như thông tin ghi trên sổ cấp dầu
thì thấy có 1 mã dầu bơm 450 lít trên vòi 5, đúng bằng số dầu ghi trong sổ cấp
dầu cho ông Hồng; Nếu đây là mã dầu cấp cho ông Hồng thì sổ cấp dầu đã ghi
sai vòi 5 thành vòi 6 (BL1907/1691).
Từ kết quả kiểm tra theo phương pháp xác suất cho thấy thông tin trong sổ
cấp dầu phụ thuộc vào ý thức chủ quan của PQĐ trực ca, không được các lái xe
xác nhận, không đảm bảo tính hợp pháp trong mua, bán, cấp phát nhiên liệu.
Không chỉ có sai sót về số cột dầu, thời gian trong sổ cấp dầu của PX xe 1
hầu hết sai lệch với thời gian ghi trong list cấp phát dầu. Nên toàn bộ việc đối
chiếu theo thời gian giữa sổ cấp dầu và list cấp dầu để xác định xe nào lĩnh dầu
đều là kết quả suy đoán chủ quan, thiếu căn cứ khoa học.
Về lời khai của nhân viên cấp phát dầu
Các tài liệu có trong HSVA cho thấy lời khai của các bị cáo là nhân viên
cấp phát dầu về hành vi lấy trộm 700 lít dầu của ông Hồng mang tính chung
chung, không có thời gian, thời điểm, số lượng dầu cụ thể nên không thể coi là
chứng cứ để cột tội ông Hồng:
o Bị can Trần Minh Ngọc khai: “Cũng có ca có lái xe không bán”; “Còn tổ
xe 233 có các lái xe: chú Nghĩa, chú Tuyển, chú Hồng và anh Hướng, ai cũng
bán dầu, cụ thể từng buổi nhận dầu cắt để lại bao nhiêu thì tôi không còn nhớ”
(BL1411).
o Bị can Bùi Thanh Tân khai: “Đối với xe 233 tôi cũng không nhớ tên có
những ai đi xe này” (BL1352).
o Bị can Lưu Thị Minh khai: “Các lái xe HD233 đều có bán dầu trong các

ca làm việc (ca 2 và ca 3). Song vì tôi mới làm ở kho dầu 15 được một tháng nên
tôi không thể nhớ tên, đặc điểm của từng lái xe một” (BL1376).
o Bị can Bùi Đức Tâm: “Tôi nhớ xe HD233 – PX xe 1 – Cty CP Than HT
gồm 4 lái xe: A Hướng, A Nghĩa, A Hồng và A Tuyển. Trong thời gian từ 1/8

11


đến 5/9/2012 thì cả 4 anh trên đều bán dầu tại kho dầu 15 ở những ngày tôi làm
việc (ca 2, 3)” (BL1394).
o Một số lời khai của nhân viên kho dầu còn dựa trên thông tin do được
tiết lộ, ví dụ như: “Qua được đối chiếu giữa bảng chấm công tháng 8/2012 của
kho dầu 15 của tôi với sổ cấp dầu ga doan tháng 8/2012 PX xe 1 thì tôi thấy xe
HD233 gồm có anh Hướng, anh Hồng, anh Nghĩa và anh Tuyển có những ngày
làm việc đi cùng ca với tôi.”
o Trong suốt quá trình bị khởi tố, bắt tạm giam, ông Hoàng Văn Hồng
luôn khẳng định không bán dầu, đã lĩnh đủ số lượng được cấp. Lời khai đó mâu
thuẫn, trái ngược với lời khai của các nhân viên kho dầu, nhưng không được đối
chất theo quy định của BLTTHS. CQ công tố tin vào lời khai một phía, coi đó là
chứng cứ để kết tội ông Hồng là chưa đảm bảo sự khách quan trong hoạt động tố
tụng.
Về năng lực chủ thể ông Hoàng Văn Hồng đối với tội tham ô tài sản
theo điểm c, khoản 2, Điều 278
Ông Hồng không được bổ nhiệm, bầu cử, đại diện phần vốn của nhà
nước, không phải là người được giao thực hiện công vụ và có quyền hạn trong
khi thực hiện công vụ.
Chỉ là người lao động, được phân công vận hành phương tiện vận tải;
hưởng lương theo bậc thợ; không có phụ cấp chức vụ; đi làm theo ca, nhận lệnh
SX, nhận bàn giao phương tiện và lĩnh nhiên liệu… như hàng ngàn công nhân
vận hành máy khoan, máy xúc, máng cào, băng tải, tàu điện, nhà sàng, trạm

điện, trạm bơm, máy phát và không ai trong số họ được coi là người có chức vụ,
quyền hạn, là người quản lý trong ngành than. Điều này đã được lãnh đạo 3
ngành CA, TA, VKS QN thống nhất khẳng định: “Số lái xe vi phạm đều là
người lao động” (BL439).
Nhiên liệu, phương tiện vận tải giao cho ông Hồng sử dụng thuộc quyền
quản lý của Cty than HT mà người đại diện theo pháp luật là CT HĐQT, Giám
đốc Công ty. Chính vì thế, CT Than HT đã ban hành nhiều biện pháp để quản lý
nhiên liệu như: quy chế, nội quy, quy định, định mức tiêu hao nhiên liệu; chỉ đạo
làm thước đo dầu, lưới cổ thùng dầu, kẹp chì, niêm phong v.v..
Quy chế về quản lý khoán phí ban hành kèm theo QĐ số 708/QĐ-HĐQT,
ngày 4/4/2012 của CT CP HT ghi rõ: “Quản đốc là người chịu trách nhiệm tổ
chức, quản lý sử dụng hợp lý tài sản, lao động được công ty giao, đảm bảo hiệu
quả theo quy định phân cấp của công ty và pháp luật Nhà nước” (BL1848).
Giúp việc cho QĐ trong công tác quản lý nhiên liệu, phương tiện vận tải là các
PQĐ, trách nhiệm này đã được Giám đốc CT CP HT giao tại Chỉ thị 1757, ngày
27/06/2012: “Phó quản đốc trực ca là người phải trực tiếp theo dõi việc cấp
phát nhiêu liệu cho từng thiết bị” (BL1856);

12


Công việc ông Hồng đang làm là vận hành thiết bị vận tải, không có phụ
cấp công vụ, không phải là hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực
hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích
của nhân dân và xã hội. Nhiệm vụ của ông Hồng không gắn với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội,
đồng thời thực hiện chức năng tổ chức phục vụ các nhu cầu chung của xã hội
không vì mục đích lợi nhuận.
Theo Nghị định 68/2000 của Chính phủ, ngay cả những lái xe, thợ điện,
bảo vệ, làm vệ sinh trong cơ quan HCSN cũng được cho phép làm việc theo chế

độ hợp đồng hoặc hợp đồng dịch vụ và không được coi là những người có chức
vụ, quyền hạn, hoặc là người thi hành công vụ.
Do không phải là người có chức vụ, quyền hạn, không quản lý nhiên liệu,
không phải là người thi hành công vụ nên ông Hồng không thể lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để “tham ô tài sản” không thuộc quyền quản lý của mình. Vì vậy,
việc truy tố ông Hồng tham ô tài sản là không đúng chủ thể Điều 278 BLHS,
không đúng nội dung của Điều 277 BLHS: “Người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương
hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.
Giả sử có bằng chứng xác đáng chứng minh ông Hồng có hành vi bớt dầu
để bán ra ngoài thì phạm một tội danh khác, chứ không phạm tội về chức vụ như
Điều 277 BLHS quy định: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm
phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện
trong khi thực hiện công vụ”.
Cơ quan điều tra bắt giam ông Hồng hơn 7 tháng chỉ vì không nhận tội,
không thừa nhận hành vi mà CQANĐT quy buộc, trong khi ông Hồng là đảng
viên, có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn là quá
khắc nghiệt so với các trường hợp khác trong cùng vụ án, không đảm bảo sự
công bằng trong điều tra, truy tố theo quy định của BLTTHS.
Kiến nghị
Từ những nội dung trình bày ở phần trên cho thấy số lượng dầu không
chính xác, list dầu, sổ dầu không đảm bảo tính hợp pháp, tính xác thực; lời khai
nhân viên kho dầu chung chung; hồ sơ vụ án không đầy đủ; truy tố không đúng
chủ thể Điều 278 BLHS. Vì vậy, đề nghị HĐXX tuyên lái xe Hoàng Văn Hồng
không phạm tội “tham ô tài sản” và trả tự do cho ông Hồng tại phiên toà này.
Xin trân trọng cảm ơn!
3.2 Kết quả giải quyết vụ việc
Ngày 16/06/2014, Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh ra
Quyết định đình chỉ điều tra bị can và trả tự do cho ông Hoàng Văn Hồng.


13


PHẦN IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
4.1 Bài học kinh nghiệm
Tham gia một vụ ánh hình sự với số lượng bị can, bị cáo lớn, tính chất
phức tạp, số lượng hồ sơ lớn, nên bản thân tôi đã thu gặt được những bài học
quý báu trong việc lập hồ sơ vụ án, đọc bóc, phân loại hồ sơ theo từng nội dung,
quan hệ pháp luật cần xử lý.
Mặt khác, nhận được sự tin tưởng của Luật sư hướng dẫn tôi đã được trực
tiếp giúp việc cho luật sư trong việc thực hiện các thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận người bào chữa, đề nghị sao chụp hồ sơ và thăm gặp bị can, bị cáo trong
trại tạm giam của cơ quan công an.
Về chuyên môn, tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm trong việc đánh lời
khai, đánh giá các chứng cứ có trong một vụ án. Từ đó, tôi cũng được hướng
dẫn để giúp việc cho luật sư có những ý kiến kiến nghị, trao đổi với các cơ quan
tiến hành tố tụng về nội dung vụ án và quan điểm buộc tội của Viện Kiểm Sát.
Bản thân tôi cũng được tham gia tác nghiệp tại phiên tòa, theo dõi diễn biến và
đóng góp ý kiến cho Luật sư về những sự kiện, diễn biến tại tòa.
4.2 Kiến nghị đề xuất
Mặc dù được Luật sư Vũ Quang Ninh tin tưởng giao nhiều nhiệm vụ trong
quá trình giải quyết vụ án, do địa vị là người tập sự nên trong nhiều hoạt động
tôi vẫn gặp nhiều khó khăn như:
- Việc được tham gia cùng luật sư trong việc gặp mặt và trao đối với bị can
bị cáo đang bị tạm giam trong trại tạm giam.
- Việc liên hệ và thực hiện việc sao chụp hồ sơ một mình theo văn bản đề
nghị của Luật sư hướng dẫn.
- Việc liên hệ và thực hiện nhiệm vụ thu thập hồ sơ tài liệu chứng cứ cho
Luật sư tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức doanh nghiệp có liên quan đến nội

dung vụ án.
Những khó khăn nêu trên đều xuất phát một phần từ việc quy định của
pháp luật còn hạn chế trong việc trao quyền và khả năng thực hiện các quyền
của người tập sự luật sư.
Vì vậy, qua bản báo cáo này tôi kính đề nghị việc trao quyền và tạo cơ chế
cụ thể cho người tập sự luật sư thực hiện các quyền tố tụng của luật sư khi được
Luật sư hướng dẫn và khách hàng chấp thuận bằng văn bản.
NGƯỜI BÁO CÁO

PHẠM XUÂN LONG

14


PHẦN V. DANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM
5.1 Quyết định khởi tố số 09 vụ án hình sự “tham ô tài sản” xảy ra tại kho 15 –
Xí nghiệp Vật tư Vận tải Hòn Gai – Công ty Vật tư vận tải và xếp dỡ Vinacomin
ngày 13/09/2012.
5.2 Quyết định số 03 khởi tố bị can đối với ông Hoàng Văn Hồng là lái xe
Công ty cổ phần than Hà Tu – Vinacomin.
5.3 Quyết định phê chuẩn việc khởi tố, tạm giam của Viện kiểm sát tỉnh Quảng
Ninh.
5.4 Biên bản về việc bắt người ngày 03/01/2013.
5.5 Lệnh bắt bị can để tạm giam số 03/ANĐT ngày 03/01/2013 của Cơ quan
An ninh Điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
5.6 Lệnh phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam số 04/KSĐT-HS ngày
03/01/2013 của Việt kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
5.7 Kết luận điều tra số 04/KLĐT ngày 22/04/2013 của Cơ quan An ninh Điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh.
5.8 Cáo trạng số 93 ngày 30/05/2013 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng

Ninh.
5.9 Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 11/2013/HSST-QĐ ngày
06/08/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
5.10 Quyết định tách vụ án hình sự số 02 ngày 22/04/2013 của Cơ quan An ninh
tỉnh Quảng Ninh.
5.11 Quyết định số 03 ngày 16/06/2014 đình chỉ điều tra đối với bị can Hoàng
Văn Hồng.
5.12 Giấy mời luật sư của bị can Hoàng Văn Hồng ngày 09/04/2013.
5.13 Giấy chứng nhận người bào chữa ngày 17/06/2013 của Luật sư Vũ Quang
Ninh.
5.14 Văn bản kiến nghị nội dung Cáo trạng ngày 25/06/2013 của Luật sư Vũ
Quang Ninh.
5.15 Biên bản lấy lời khai của ông Hoàng Văn Hồng.
5.16 Bảng thông tin tự động hóa cấp phát nhiên liệu của công ty than Hà Tu.
5.17 Sổ cấp phát dầu Gadoan của Công ty than Hà Tu trong tháng 8 và tháng 9
năm 2012.
5.18 Phiếu bán dầu của cho ông Hoàng Văn Hồng.
5.19 Biên bản lấy lời khai của cán bộ trực ca và nhân viên phát dầu.

15



×