Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phong trao cong nhan 1919 1925

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.32 KB, 17 trang )

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN TỪ 1919-1925
I. Nguyên nhân diễn ra các cuộc đấu tranh của công nhân
trong giai đoạn 1919-1925.
Sau khi cướp nước ta, thực dân Pháp tăng cường đàn áp, bóc
lột. Chính sách tăng cường đầu tư, đẩy mạnh khai thác thuộc địa
của bọn thực dân đã đưa lại một hệ quả ngoài ý muốn chủ quan
của chúng. Đó là sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và
chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân lao động bị bần
cùng hóa, phần còn lại từ những người thợ thủ công, tiểu thương,
tiểu chủ…bị phá sản.
Dưới chế độ thực dân phong kiến, người công nhân Việt
Nam vừa là nô lệ làm thuê, vừa là nô lệ mất nước.
Là kẻ nô lệ làm thuê, người công nhân bị lừa đảo ăn chặn,
cướp công, hành hạ suốt đời từ khi kí vào “bản giao kèo”, bán sức
lao động cho đến khi hoàn toàn kiệt sức và bị nghiền nát trong
những guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thuộc địa.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, bọn tư bản thực dân đã phải
thay lối bắt phu cưỡng bức trước kia bằng lối mộ phu theo “giao
kèo”. Chúng cho cai thầu đi mộ phu ở khắp thành thị và nông thôn.
Khi dã điểm chỉ vào giao kèo, thực chất là “điểm chỉ vào giấy bán
đứt tính mạng và tự do của mình cho chủ tư bản”.
Người đi mộ phu bị nhốt vào trại tập trung có lính gác rồi bị
áp tải tới các đồn điền, hầm mỏ. Trước cảnh tượng đó, ngay tên đại
địa chủ Pháp Đơ-Mông-pơ-da cũng đã phải thốt lên “đó là sự tái
diễn cảnh chợ bán nô lệ ở giữa thế kỉ XX này”.
Khi đã bước chân vào làm trong các đồn điền, hầm mỏ xí
nghiệp, người công nhân bị bọn chủ tư bản tìm mọi cách bóc lột
sức lao động cho đến mức tối đa.



Chủ tư bản tùy ý định số giờ lao động trong các doanh
nghiệp của chúng. Thực tế công nhân phải làm việc 12-14 giờ, có
khi tới 15-16 giờ một ngày.
Làm việc đến mức không còn thì giờ để kịp ăn uống và kịp
cả thở nữa. Người công nhân lại chỉ nhận được một thứ tiền lương
chết đói. Bọn chủ tùy ý quyết định tiền lương của công nhân:
Lương ngày, lương tháng, lương khoán… hình thức nào chủ tư bản
thấy có lợi cho chúng thì chúng áp dụng. Chúng thuê khá nhiều
nhân công đàn bà và trẻ em để chỉ phải trả cho họ bằng 1/2 hoặc
1/3 tiền công của thợ đàn ông.
Thực tế là ở các mỏ than, thợ đàn ông chỉ được trả 0,3-0,32
đồng một ngày công, thợ đàn bà: 0,2-0,25 đồng, thợ trẻ em: 0,090,15 đồng. Ở các đồn điền cao su, tiền công thợ chỉ được 0,12-0,25
đồng. Ở các nhà máy dệt,thợ đàn ông được trả 0,17-0,2 đồng, thợ
đàn bà: 0,12-0,15 đồng, còn trẻ em từ 8-10 tuổi thì được trả 0,07
đồng.
Kéo dài đến mức tối đa thời gian lao động, đồng thời giảm
đến mức tối thiểu tiền lương của người công nhân, bọn tư bản thực
dân Pháp đã bòn rút được những khoản siêu lợi nhuận thuộc địa
béo bở hơn nhiều so với lợi nhuận thu được ở chính quốc.
Một phần số lãi thu được bọn tư bản Pháp mang về nước để
ăn chơi phè phỡn, phần còn lại dùng vào việc tái đầu tư. Thế là vốn
đẻ ra lãi, lãi mẹ đẻ lãi con, cứ như thế chúng làm giàu nhanh chóng
bằng cách vắt kiệt máu và mồ hôi của công nhân Việt Nam.
Đã khổ vì chế độ bóc lột giá trị thặng dư tư bản công nghiệp,
người công nhân lại càng khổ hơn nữa vì chế độ bóc lột ấy thường
được kết hợp chặt chẽ với những hình thức bóc lột có tính chất
phong kiến, siêu kinh tế.
Bọn tư bản thực dân đã sử dụng cả một hệ thống nhà thầu
cai, ký, xếp nhiều tầng, nhiều loại để theo dõi, kiểm soát, áp chế
hành hạ người công nhân trong sản xuất và đời sống. Anh em công

nhân đã căm phẫn mô tả lại tình cảnh ấy như sau:
“ Đi trở ra gặp cai thầu khoán
Chạy trở vào gặp Xuba giăng


Chúng như đàn sói nhe răng
Mắt như cú vọ cướp phăng cơm mình”
Được bọn chủ tư bản dung túng, tầng lớp trung gian này giở
đủ mọi thủ đoạn, mánh khóe để bóp họng người công nhân làm
thuê.
Chúng tha hồ ăn của đút, cúp phạt, cho vay nặng lãi, mua rẻ
tiền công non, mở đại lý bán hàng cho chủ hoặc nắm độc quyền
bán những mặt hàng thiết yếu cho công nhân với giá cắt cổ. Chúng
còn bắt công nhân phải quà cáp, phục dịch chủ tư bản Pháp và bản
thân chúng những trong những ngày lễ, ngày tết. Đó chưa kể tệ
đánh đập, chửi mắng, hãm hiếp, thậm chí giết người một cách vô
tội vạ mà bọn cai ác ôn thường gây ra đối với công nhân làm thuê.
Giờ làm quá dài, đồng lương chết đói, điều kiện ăn ở tồi tệ,
lại thêm roi vọt, đấm đá, chửi mắng liên miên đã khiến cho người
công nhân làm thuê trong các đồn điền, hầm mỏ, xí nghiệp của bọn
tư bản Pháp chẳng bao lâu mà ngã gục dưới sức nặng của chế độ
lao động khổ sai.
Tại những đồn điền ở Nam Kì và Cam-phu-chia, người ta
thấy: “Những người nông dân bất hạnh Bắc Kì chất phác và dũng
cảm đến đó làm việc…với hi vọng kiếm được miếng ăn và rồi
mang được vài xu về làng. Nhưng sau 3 hay 4 năm, họ chỉ còn là
những kẻ thân tàn ma dại đến sốt rét, phù thũng…Phần lớn những
những người ấy sẽ không bao giờ được trông thấy gia đình nữa.
Thản hoặc có một số người lê được về tới làng quê thì đấy chỉ còn
là những cái xác thật sự, không tiền và kiệt sức. Họ trở về để chết.

Nhưng trước khi đó, họ gieo rắc ra xung quanh những mầm mống
của bệnh tật, của sự nổi loạn và hận thù”.
Theo báo L’Humanite: Năm 1922, ở công ty cao su Cây nhiệt
đới có 474 người chết trong số 1000 công nhân. Tính chung, tỷ lệ
tử vong trong các hầm mỏ, xí nghiệp số phận của người công nhân
làm thuê cũng bi thảm không kém. Chính anh, chị em công nhân
đã phải thốt lên:
“ Ngày ngày nghe tiếng còi tầm,
Như nghe tiếng vọng từ âm phủ về”


Là kẻ nô lệ làm thuê, người công nhân bị bóc lột đến tận
xương tủy, là người nô lệ mất nước, họ hoàn toàn không có chút
quyền tự do, dân chủ nào.
Thực dân Pháp cấm ngặt công nhân họp hành, lập hội và bãi
công. Công nhân tham gia bãi công và tổ chức bãi công đều bị
chúng ghép vào “tội hình”, “tội phá rối trị an”. Các nghị định của
chính quyền thực dân ngày 11-11-1918 còn quy định rằng công
nhân làm hư hỏng công cụ, làm hỏng cây cối hay mùa màng, tự
gây cho mình thương tích, thậm chí làm ồn hoặc nêu yêu sách
không có căn cứ…đều có thể bị phạt tiền, sa thải, phạt giam, phạt
tù. Như vậy, vô luận việc gì xảy ra không có lới cho chủ tư bản thì
chúng đều có thể dựa vào luật pháp để đàn áp công nhân.
Tiếp theo nghị định 26-08-1899 là nghị định ngày 08-031924 bắt buộc người thợ từ 18 tuổi trở lên đều phải lập một “sổ
công nhân”.
Đây là một thứ căn cước có tính chất cảnh sát để bọn chủ tư
bản có thể theo dõi lai lịch, hành vi, thái độ của từng công nhân khi
họ thuyên chuyển nơi làm việc.
Bên cạnh tòa án, luật pháp, cảnh sát nhà tù của chính quyền
thực dân, nơi có nhiều bọn tư bản Pháp còn ngang nhiên lập cả một

bộ máy bạo lực để đàn áp công nhân.
Ở khu vực Hồng Gai, đằng sau đội tuần cảnh vũ trang công
khai, bọn chủ tư bản đã tổ chức ra mạng lưới mật thám, chỉ điểm bí
mật để dò xết công nhân các tầng, các lò, các lán. Chúng còn lập
nhà tù riêng, bắt bớ, đánh đập, tra tấn, giam cầm những người mà
chúng cho là có ý chống đối.
Ngoài những nỗi thống khổ mà riêng họ phải gánh chịu, giai
cấp công nhân còn phải chịu chung nỗi khổ của cả dân tộc: Sưu
cao, thuế nặng và bị giam hãm trong vòng dốt nát. Như vậy nỗi
khổ của kẻ nô lệ làm thuê lại càng tăng gấp bội bởi nỗi nhục nhã
của kẻ nô lệ mất nước và ngược lại. Do đó đối với giai cấp công
nhân, kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc là một. Trong tim họ, mối
thù giai cấp và mối thù dân tộc hòa quyện vào nhau.


Nhưng giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp khổ đau, nó
còn là giai cấp có tiềm năng cách mạng to lớn. Bởi lẽ, như Mác
phân tích: “mâu thuẫn giữa bản tính con người của giai cấp vô sản
với hoàn cảnh sống của nó-hoàn cảnh này là sự phủ định cái bản
tính kia một cách công nhiên, quyết liệt và toàn diện, mâu thuẫn đó
tất yếu gây ra sự căm phẫn của nó đối với hoàn cảnh ấy” và “trực
tiếp buộc nó phải căm phẫn chống lại hoàn cảnh phi nhân tính ấy”.
Ngoài bản chất chung của giai cấp vô sản, tiềm năng cách mạng
của giai cấp công nhân Việt Nam còn được tăng thêm bởi đặc điểm
quá trình hình thành và phát triển chính nó.
Trước hết, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời trước giai
cấp tư sản dân tộc, nó là sản phẩm trực tiếp của công cuộc khai
thác thuộc địa của tư bản thực dân Pháp. Nó bị lôi ra khỏi phương
thức sản xuất cổ truyền và được đưa vào một phương thức sản xuất
mới có trình độ phát triển cao hơn.

Do đó đế quốc Pháp kìm hãm sự phát triển nền công nghiệp
thuộc đia.
Giai cấp công nhân Việt Nam lúc này chỉ chiếm 1.3% dân
số, song nó sống “rất tập trung và mỗi ngày lại thêm đông” cùng
với quá trình tích tụ tư bản và tâp trung của tư bản tại những trung
tâm công nghiệp và tại các đô thị lớn. Điều đó khiến cho sự đối lập
giữa giai cấp vô sản và tư sản ngày càng trở nên sâu sắc, đồng thời
làm dễ dàng cho việc tập hợp giác ngộ và tổ chức công nhân.
Giữa những năm 20: Có 16.500 công nhân ở mỏ Hồng Gai,
2500 công nhân ở mỏ Bắc Cạn, một trong những đồn điền cao su
lớn ở Nam Kì sử dụng 3600 công nhân, nhà máy dệt Nam Định có
2000 công nhân….Còn những nhà máy xí nghiệp sử dụng 400
công nhân thì có rất nhiều.
Sống và lao động tập trung, gắn liền với sự phân công,
chuyên môn hóa trong dây chuyền sản xuất công nghiệp đã rèn
luyện cho người công nhân tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức và kỉ
luật. Ngoài quá trình xã hội hóa lao động, những đặc điểm chung
về đời sống kinh tế, về địa vị chính trị cũng như về tiếng nói, về
văn hóa, về tâm lý…Đã hình thành trong lịch sử dân tộc, còn giúp


cho giai cấp công nhân Việt Nam vượt qua những trở ngại do
chính sách “Chia để trị” của thực dân Pháp gây ra và kết thành một
khối thống nhất trong toàn quốc. Trong nội bộ công nhân không có
tầng lớp công nhân quý tộc, không có mâu thuẫn về tiếng nói, về
tôn giáo dân tộc.
Thực dân Pháp chủ tâm chia rẽ công nhân Bắc, Trung, Nam.
Chúng đặt ra những thể lệ riêng cho lao động từng xứ ( Bắc Kì có
14 bản, Trung Kì: 8 bản, Nam Kì: 14 bản) chúng gọi việc đưa mộ
phu ở Bắc Kì và Trung Kì vào Nam Kì là “xuất cảng” công nhân.

Song mọi thủ đoạn chúng đưa ra đều không đem lại kết quả mong
muốn.
Vì phần lớn công nhân mới đều xuất thân từ nông dân bị bần
cùng hóa và còn nhiều mối quan hệ với nông thôn, nên giai cấp
công nhân Việt Nam ở thời kì này có nhược điểm là số công nhân
lâu đời ít, trình độ văn hóa, trình độ kĩ thuật thấp, nhiều người chưa
thoát khỏi những tư tưởng hẹp hòi, tập quán sản xuất nhỏ lạc
hậu…Tuy nhiên, cũng chính do vừa mới từ nông dân phá sản mà
ra giai cấp công nhân rất cảm thông với số phận bi thảm và nguyện
vọng thiết tha của quần chúng nông dân. Đây là mặt cơ bản và là
điều kiện để giai cấp công nhân thiết lập khối liên minh công-nông
vững chắc trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Sau chiến tranh, thong qua hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và nhiều người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách
mạng đã bắt đầu được truyền bá vào trong nước. Các tờ báo Người
cùng khổ, Việt Nam hồn.


Báo Người cùng khổ
.Cũng như các tác phẩm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã lọt qua
lưới sắt của thực dân Pháp đến với giai cấp công nhân và nhân dân
Việt Nam. Cũng vào thời kì sau chiến tranh nhiều thuỷ thủ, lính
thợ Việt Nam được hồi hương, mang theo các hiểu biết mới, tư
tưởng mới và cả các kinh nghiệm đấu tranh của những người anh
em đồng chí ở Châu Âu về nước. Nhờ vậy, giai cấp công nhân Việt
Nam mới bắt đầu biết tới Cách mạng tháng Mười, biết đến Lêninlãnh tụ của cách mạng thế giới, trên cơ sở đó dần dần tiếp thu ánh
sáng của chủ nghĩa cộng sản. Ánh sang cách mạng ấy đã thôi thúc,
lôi cuốn công nhân Việt Nam vùng dậy đấu tranh, trước hết là chĩa
mũi nhọn vào bọn tư bản thực dân Pháp. Thể hiện ý thức giai cấp
và lập trường chính trị của giai cấp công nhân .



Với những phẩm chất trên, giai cấp công nhân Việt Nam có
một sức mạnh lớn hơn rất nhiều so với tỉ lệ của nó trong tổng số
dân cư. Sức mạnh đó sẽ còn được phát huy và nhân lên gấp bội
một khi giai cấp công nhân Việt Nam trưởng thành nhờ ánh sáng
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm của cách mạng
Tháng Mười Nga, của phong trào công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới, mà giác ngộ được xứ mạng lịch sử của
mình. Đi đầu trong cuộc đấu tranh đánh đổ đế quốc và phong kiến
giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày, tiến lên xây
dựng một nước Việt Nam mới không có áp bức, người bóc lột
người.

II. Hình thức đấu tranh của công nhân từ năm
1919-1925.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, giống như nhiều nước
khác tại Việt Nam “cuộc phản công của bọn chủ liên tiếp diễn ra ở
khắp nơi, và khắp nơi giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về
lực lượng và giá trị của mình”. Sự giác ngộ đó được thể hiện ra
bằng nhiều hình thức đấu tranh của công nhân cho các quyền lợi
của giai cấp mình.
Hình thức đấu tranh thấp và ngày càng tăng lên là từng nhóm
hoặc từng công nhân lẻ tẻ bỏ việc, phá giao kèo.
Từ 1919-1922 có 2.219 vụ công nhân bỏ việc, phá giao kèo.
Trung bình mỗi năm có 555 vụ.
+ năm 1923 tăng lên 730 vụ,
+ năm 1924 tăng lên 847 vụ,
+ năm 1925 tăng lên 1.081 vụ.
Tính chung, trong vòng 7 năn (1919-1925), số công nhân bỏ

việc, phá giao kèo nhiều gấp 2 lần so với số công nhân hết hạn trở
về làng.


Tiến lên một bước, công nhân hùa nhau đánh lại bọn cai, ký,
đốc công gian ác, hoặc biểu tình tập thể và đưa yêu sách chung lên
cho chủ…
Hình thức đấu tranh ngày càng phổ biến là bãi công-một hình
thức đấu tranh điển hình của công nhân quốc tế, một vũ khí lợi hại
của lao động chống lại tư bản. Từ năm 1919-1925 diễn ra 25 cuộc
bãi công của công nhân.
Các cuộc đấu tranh của công nhân trong giai đoạn 1919-1925
diễn ra khắp cả nước. Từ Bắc đến Nam, tất cả các nhà máy lớn nhỏ
đều diễn ra các cuộc bãi công với mức độ khác nhau.
III. những cộc đấu tranh của công nhân từ 1919-1925.
Tháng 8 năm 1919 nổ ra cuộc bãi công của công nhân thủy
thủ tàu Sácnơ (Sharmhort) đậu ở cảng Hải Phòng đòi tăng lương
và chống việc thực dân Pháp đưa binh lính Việt Nam sang đàn áp

Công nhân thuỷ thủ tàu Sacnơ bãi công


cách mạng Xiri. Năm 1920, trên 200 thủy thủ tàu của 5 chiếc tàu
Pháp ở cảng Sài Gòn đã bãi công đòi đắt đỏ. Sự thắng lợi của các
cuộc bãi công của công nhân, thủy thủ tàu Sác-nơ tại cảng Hải
Phòng(8-1919) và của trên 200 thủy thủ Pháp tại cảng Sài Gòn (31920) đã có ảnh hưởng tích cực của phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân Việt Nam.
Mùa hè năm 1922, công nhân viên chức ở các sở công
nghiệp, thương nghiệp và đồn điền tư nhân ở Bắc Kì bãi công đòi
nghỉ ngày chủ nhật như công nhân viên chức ở Nam Kì đã được

hưởng từ năm 1907. Cuộc đấu tranh đã buộc viên thống xứ Bắc KÌ
trong thông tư gửi các phòng thương mại Hà Nội và Hải Phòng
phải thừa nhận “Vấn đề nghỉ ngày chủ nhật là yêu cầu chính đáng
của người làm công mà ta phải chịu nhận thôi”.
Tháng 11-1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ lớn, vì bị bớt lương đã
quyết định bãi công.
Ở Chợ Lớn hồi đó không có lò nhuộm nào có tới hàng trăm
công nhân. Vì thế, đây là cuộc đấu tranh có phối hợp của công
nhân ở hàng chục lò nhuộm khác nhau.


Nhận xét về cuộc bãi công này, trong Bản án chế độ thực dân
Pháp Bác Hồ đã viết: “Nếu những công nhân bản xứ kia, thường là
rất ngoan ngoãn, dễ bảo, không được giáo dục và tổ chức đã đi đến
chỗ tập hợp nhau lại… và đấu tranh chống những đòi hỏi tàn bạo
của chủ, thì đó là vì tình cảnh của họ quá ư khốn khổ, khốn khổ
đến mức mà ở Châu Âu người ta không tưởng tượng được. Đây là
lần đầu tiên một phong trào như thế nhóm lên ở thuộc địa. Chúng
ta hãy ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại…”
Năm 1923, bãi công nổ ra ở nhà máy xi măng Hải Phòng


Nhà máy xi măng Hải Phòng ngày Xưa

Năm 1924, hàng loạt cuộc bãi công nổ ra ở nhiều trung tâm
công nghiệp và đô thị lớn.
Tháng 7 năm 1924 công nhân mỏ Cẩm Phả bãi công đòi tăng
lương. Bọn chủ lo sợ phải xin nhà cầm quyền điều thêm lính để
canh gác.
Từ mùa hè đến mùa thu 1924, công nhân 3 nhà máy rượu ở

Hải Dương, Hà Nội, Nam Định thuộc hãng Phông –Ten lần lượt
bảo nhau bãi công đòi đuổi 1 tên đốc công Pháp gian ác, tên này
được chủ tư bản chuyển hết từ nơi này đến nơi khác.


Cuối năm bãi công lại nổ ra ở hãng cưa Biên Hòa.
Riêng ở Nam Định, một trung tâm kỹ nghệ quan trọng lúc đó
đã liên tiếp nổ ra 4 cuộc bãi công trong năm 1924.
Tháng 2: gần 100 công nhân nhà máy tơ bãi công phản đối
chủ bắt họ phải chụp ảnh làm hồ sơ.
Tháng 7, công nhân nhà máy xay và nhà máy rượu bãi công
phản đối chủ bắt làm thêm giờ.
Đầu tháng 9, công nhân hai nhà máy này lại bãi công chống
chế độ kiểm soát vô liêm sỉ.
Giữa tháng 9, ngay sau khi cuộc bãi công ở nhà máy xay và
nhà máy rượu kết thúc thắng lợi, cuộc bãi công của 250 công nhân
nhà máy dệt lại nổ ra.
Theo một báo cáo của nhà cầm quyền thực dân: “ Những yêu
sách của công nhân nhà máy dệt lại càng rõ và càng chính đáng
hơn là yêu sách của công nhân nhà máy rượu. Họ phản đối sự giảm
tiền công và đòi phải trả số tiền phụ cấp mà chủ hứa trả cho họ từ
hồi tháng 8 mà tới nay chưa trả”.
Đặc biệt qua cuộc bãi công này, chính quyền thực dân đã tỏ
ra rất lo sợ khi phát hiện thấy công nhân các nhà máy dệt Nam
Định đã có liên hệ, trao đổi, thư từ, sách báo với công nhân ở các
đô thị khác và cả với công nhân Pháp và công nhân Trung Quốc.
Bằng cách đó, “ Họ biết rằng bãi công là một vũ khí lợi hại
trong tay những người làm công. Họ đọc tin tức và họ bàn tán với
nhau về các cuộc bãi công ở Hồng Công, NHật Bản, ở các nước
phương Tây, và họ biết rằng phần nhiều các cuộc bãi công ấy đã

thắng lợi…”
Năm 1925, bãi công nổ ra tại nhà máy dệt Nam Định và ở mỏ
than Mạo Khê. Nhưng tiêu biểu hơn cả là cuôc bãi công của hơn
1000 công nhân công xưởng Ba Son tháng 8 năm 1925.
Lãnh đạo cuộc bãi công này là Tôn Đức Thắng, người lính
thợ đã từng tham gia cuộc phản chiến, kéo cờ đỏ trên một chiến
hạm Pháp ở biển Đen, mùa xuân 1919 dể tỏ tình đoàn kết với nước
Nga Xô Viết.


Cuộc bãi công nổ ra giữa lúc tình hình trong nước và thế giới
diễn ra nhiều sự kiện sôi động. Từ giữa năm 1925, phong trào yêu
nước và dân chủ của các tầng lớp nhân dân trong nước có xu
hướng ngày càng lan rộng.
Ở Sài Gòn, tổ chức công hội, do Tôn Đức Thắng sáng lập đã
có cơ sở ở nhiều xí nghiệp công nghiệp quan trọng.
Ở Trung Quốc, phong trào cách mạng dân tộc dân chủ đang
sôi sục ở nhiều nơi. Nhân dân các thành phố có tô giới của bọn đế
quốc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật như: Thượng Hải, Quảng Châu, Phúc
Châu, Thanh Đảo… rầm rộ đấu tranh , tảy chay bọn xâm lược.
Hoảng sợ bọn đế quốc vội vã gửi thêm chiến hạng và binh lính
đến các tô giới của chúng. Trên vùng Sài Gòn chiếc tàu chiến
Misơlê vừa từ Pháp qua phải đưa vào xưởng Ba Son sửa chữa gấp
để đi Trung Quốc.
Để thực hiện mục tiêu chính trị là giam chân chiếc tàu
Misole, tỏ tình đoàn kết với nhân dân cách mạng Trung Quốc, anh
em công nhân Ba Son đã để ra với chủ nhiều yêu sách kinh tế: đòi
tăng lương 20%, đòi thu nhận lại thợ bị sa thải, và giữ nguyên lệ
nghỉ trước nửa giờ trong những ngày lĩnh lương.
Trong khi chờ đợi chủ trả lời, ngày 4-8 toàn thể công nhân

nhất loạt nghỉ việc. Công họi Sài Gòn đã tổ chức quyên góp ủng hộ
những người bãi công.
Mọi thủ đoạn hăm dọa của thống đóc Nam Kì và tư lệnh Hải
quân Pháp đều không lay chuyển được anh em công nhân. Cuối
cùng chúng phải nhượng bộ: chịu tăng lương 10% cho công nhân
và phải trả lương cả những ngày công nhân nghỉ việc tham gia bãi
công.
Ngày 12-8, công nhân trở lại làm việc nhưng vẫn lãn công,
kéo dài thời gian sửa chữa tàu Mi-Sơ-lê tới ngày 23-11 mới xong.
Cuộc bãi công của công nhân Ba Son đánh dấu một bước
chuyển biến quan trọng của phong trào đấu tranh của công nhân
Việt Nam từ chỗ lẻ tẻ, tự phát, đến chỗ tiếp cận trình độ có tổ chức,
biết kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.


Cuộc bãi công công nhân Ba Son


Nhà máy Ba Son

Từ chỗ thể hiện tinh thần đoàn kết giai cấp giữa những người
công nhân trong cùng một xí nghiệp, một ngành nghề, một thành
phố, và nhiều thành phố trong nước, đến tinh thần đoàn kết quốc tế
vô sản.
Ngay báo chí của bọn thức dân cũng phải thừa nhận “cuộc
bãi công xảy ra trong lúc bạn đồng nghiệp ở Pháp, tờ Nhật báo đưa
tin rằng viên chủ tịch của Quốc tế cộng sản vừa mới tuyên bố:
“ngày nay Trung Quốc đang nổi dậy,ngày mai sẽ đến lượt Đông
Dương, Ấn Độ nổi dậy”.
Mấy năm sau tại Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng Sản đại

biểu Đông Dương đã nhiệt liệt biểu dương “công nhân Ba Son đã
bãi công không chịu sửa chiếc tàu Mi-sơ-lê mà đế quốc Pháp dùng
để đi tàn sát nhân dân Trung Quốc”.
Thật ra, lúc này trên phạm vi cả nước,giai cấp công nhân Việt
Nam chưa phải đã bước lên vũ đài đấu tranh chính trị như một lực


lượng độc lập, tự giác nhận thức được vai trò và sứ mạng lịch sử
của mình trước dân tộc và giai cấp.
Đúng như Mác đã chỉ rõ “ trong cuộc đấu tranh của mình
chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ có khi
nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một chính đảng
độc lập để đối lập với tất cả mọi chính đảng cũ do các giai cấp hữu
sản lập ra, thì mới có thể hành động với tư cách là giai cấp được”.
Nhưng trong lúc giai cấp công nhân đang tự phát trỗi dậy, thì chủ
nghĩa Mác-lê nin qua các hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã bắt đầu truyền bá vào Việt Nam. Đó là nhân tố tác động hết sức
quan trọng , thúc đẩy quá trình chuyển từ giai đoạn tự phát sang tự
giác của phong trào công nhân trong những năm sau.
IV. Kết luận
Từ năm 1919-1925 giai cấp công nhân đã chuyển hình thức
đấu tranh từ tự phát sang tự giác, bắt đầu giác ngộ ý thức giai cấp.
Do trong giai đoạn này giai cấp công nhân không chỉ trưởng thành
về số lượng và cả chất lượng được tiếp thu qua các sách báo viết
về chủ nghĩa Mác-Lênin và đặc biệt là ảnh hưởng phong trào công
nhân quốc tế, đã tác động to lớn đến phong trào đấu tranh chung
của công nhân. Các cuộc đấu tranh từ lẻ tẻ với hình thức bỏ việc
phá giao kèo đã dần chuyển sang hình thức đấu tranh cao hơn. Và
tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Bason, đã buộc thực dân
Pháp phải thực hịên một số yêu sách đối với công nhân như tăng

lương 10%, điều đáng chú ý là cuộc bãi công này không chỉ đấu
tranh quyền lơi kinh tế mà cao hơn là mục tiêu chính trị. Giai đoạn
này la bước chuẩn bị để giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính
trị. Nòng cốt của các cuộc đấu tranh.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×