Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.89 KB, 16 trang )

CHƯƠNG VII
HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
Lênin cho rằng: “Nếu cần định nghĩa chủ nghĩa đế quốc cho thật hết sức vắn tắt thì phải nói
rằng chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản”.1
1.Những nguyên nhân chuyển biến của CNTBTDCT thành CNTBDDQ
Theo Lênin, “...Mác, người đã chứng minh - thông qua sự phân tích chủ nghĩa tư bản về mặt
lý luận và lịch sử - rằng tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi
phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền...còn việc tập trung sản xuất đẻ ra các tổ
chức độc quyền thì nói chung lại là một quy luật phổ biến và cơ bản trong giai đoạn phát triển hiện
nay của chủ nghĩa tư bản”.2
Như vậy nguồn gốc sâu xa dẫn đến độc quyền của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời các tổ chức
độc quyền là tự do cạnh tranh làm cho tập trung sản xuất nhanh chóng. Sự tập trung đó xuất phát
trực tiếp từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.
Một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới (luyện kim, cơ khí, vận tải lớn...) ngay từ
đầu đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới, đó là
những xí nghiệp quy mô lớn. Sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản xuất nhỏ và đã phát triển rất
mạnh. Để đáp ứng đòi hỏi đó, nếu chỉ trông chờ vào tích tụ tư bản trong từng doanh nghiệp thì rất
lâu, chậm chạp. Bởi vậy, tập trung tư bản và sản xuất tăng lên.
Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng sản suất giá trị thặng dư tương đối. Việc
nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sự
phát triển sản xuất lớn, tăng tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản. Tất cả dẫn đến hình thành những
doanh nghiệp có quy mô lớn,cực lớn được gọi là tập trung tư bản.
Thực tiễn vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất
hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất
lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H 2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới
ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay... phát triển những phương tiện vận tải
mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ


thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn;
mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển
sản xuất lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học - kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của
chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy ... ngày càng mạnh mẽ, làm biến
đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Thứ hai, Cạnh tranh tự do tác động mạnh đến tập trung sản xuất. Một mặt, nó buộc các nhà
tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ, tăng quy mô sản xuất để giành lợi nhuận tối
đa. Mặt khác, cạnh tranh tự do khốc liệt dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém,
hoặc bị các đối thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh
tranh. Tình hình đó làm cho số lượng doanh nghiệp độc lập thì giảm đi, nhưng quy mô doanh
nghiệp cá biệt lại tăng lên. Vì vậy xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một
ngành hay trong một số ngành công nghiệp.
Thứ ba, Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trong toàn bộ thế giới tư bản (năm 1873).
Trong các cuộc khủng hoảng này, cuộc khủng hoảng sau trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng
trước. Từ đó dẫn đến nhiều xí nghiệp nhỏ, và vừa bị phá sản, một số sống sót phải đổi mới kỹ thuật
để thoát khỏi khủng hoảng, do đó càng thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
1 Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.27, tr.489.
2 Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.27, tr.402

1


Khi quan sát vận động thực tiễn của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vào thời kỳ này người ta
nhận thấy, cứ ba đến năm năm lại diễn ra một cuộc khủng hoảng, như các cuộc khủng hoảng năm
1900 - 1903; 1905 - 1907; 1911 - 1913, v.v đến đại khủng hoảng năm 1929 - 1933.
Thứ tư, Hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng trở thành đòn bẩy thúc đẩy tập trung
sản xuất, nhất là hình thành các công ty cổ phần tạo tiền đề ra đời các tổ chức độc quyền.
Thứ năm, Những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh lại tiếp tục cạnh tranh với
nhau ngày càng khốc liệt, bằng cả vũ khí kinh tế và bạo lực cho đến khi quy mô và sức mạnh của

doanh nghiệp lớn đến mức không thể thôn tính được nhau nữa, thì xuất hiện khuynh hướng liên kết
với nhau, bắt tay nhau để cùng khống chế việc sản xuất và lưu thông hàng hóa của một hoặc vài
ngành trong nền kinh tế. Từ đó đã ra đời các tổ chức độc quyền.
2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền, độc quyền là đặc
trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
- Khái niệm: Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào
trong tay phần lớn (hoặc toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh
hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó nhằm thu lợi nhuận độc quyền.
- Hình thức tổ chức:
Lúc đầu khi mới chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền thì hình thức kinh tế thống trị là
công ty cổ phần. Những liên minh độc quyền thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang (tức là liên
kết các doanh nghiệp trong cùng ngành) dưới hình thức các ten, tờ rớt…
Các ten: là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị ký thoả thuận với
nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán…các nhà tư bản tham gia
các ten vẫn độc lập về sản xuất và tiêu thụ.
Các ten là một liên minh độc quyền không vững chắc (các ten phát triển nhất ở Đức)
Xanh đi ca: là tổ chức độc quyền về lưu thông; mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung
của Xanh đi ca đảm nhiệm. Các xí nghiệp tham gia vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về
lưu thông. Mục đích của xanh đi ca là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ
và bán hàng hóa với giá đắt thu lợi nhuận độc quyền cao. (Xanh đi ca phát triển nhất ở Pháp)
Tơ rớt: Là tổ chức độc quyền cao hơn các ten và Xanh đica nhằm thống nhất toàn bộ sản xuất
và lưu thông vào tay một ban quản trị, các thành viên trở thành những cổ đông của Tơ rớt thu lợi nhuận cổ
phần. Tờ rớt được phát triển nhất ở Mỹ.
+ Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, hình thành các công xoxiom. Công xoc xiom là hình thức
tổ chức độc quyền mà quy mô của nó lớn hơn các hình thức nói trên. Đó là là sự liên kết không chỉ
những doanh nghiệp lớn mà cả những Xanhđica, tờ rớt...thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên
quan với nhau về kinh tế kỹ thuật, liên kết các ngành mà sản phẩm của ngành này là nguyên liệu
của ngành kia.

- Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới, liên kết đa ngành, hình thành những
côngglômêrat hay consơn khổng lồ.
* Vai trò của các tổ chức độc quyền đối với hoạt động của nền kinh tế tư bản.
- Các tổ chức độc quyền nói trên ít nhiều đều phản ánh một sự phát triển nào đó của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa; từ chỗ là sở hữu của tư bản tư nhân thuần túy chuyển thành sở hữu tư
bản tập thể với mức độ khác nhau của những tập đoàn tư bản độc quyền. Tuy có nhiều hình thức
khác nhau nhưng các tổ chức độc quyền đều nhằm mục đích khống chế việc sản xuất và tiêu thụ
một loại, hoặc một số loại sản phẩm nào đó để thu được lợi nhuận độc quyền.
- Khi các tổ chức độc quyền trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong
nền kinh tế, bằng năng lực chi phối, khống chế và thâu tóm các điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa của phần lớn các ngành sản xuất trong nền kinh tế, chúng có thể kiểm kê gần đúng các nguồn
tài nguyên và nguyên liệu của một quốc gia. Hơn nữa, khi mở rộng địa bàn hoạt động trên phạm vi
quốc tế, bằng sức mạnh tổng hợp của mình, chúng có thể chiếm lĩnh và khai thác các thị trường
thuộc địa đưa nền kinh tế của các quốc gia này vào quỹ đạo của chúng, nhờ đó chúng có thể nắm
được nguồn tài nguyên của các nước, dự đoán được khả năng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa không
chỉ trong nền kinh tế quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế.
2


- Khi các tổ chức độc quyền thống trị nền kinh tế, tất yếu sẽ thống trị hệ thống chính trị, xã
hội, quân sự và ngoại giao, tạo ra thời đại độc quyền mà Lênin gọi là chủ nghĩa đế quốc.
b. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
- Cùng với tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp kéo theo tích tụ và tập trung trong
lĩnh vực ngân hàng, (do cạnh tranh một số ngân hàng nhỏ bị phá sản… hoặc bị các ngân hàng lớn
hơn thôn tính, biến thành các chi nhánh của nó, một số khác tìm cách liên kết với nhau). Quá trình
cạnh tranh dẫn đến sự thỏa hiệp giữa chúng với nhau và hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.
- Khi tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và
tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ làm trung gian
thanh toán và tín dụng… nay do nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội và trở thành một tổ
chức có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

- Nhờ việc cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay những số tiền lớn, và nhờ tập trung
trong tay các tài khoản của tư bản công nghiệp nên ngân hàng biết được mọi hoạt động của tư bản
công nghiệp, từ đó nó sử dụng tín dụng chi phối hoạt động của tư bản công nghiệp
Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của mình vào các cơ
quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay. Mặt khác, các tổ chức
độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Cùng một lúc với quá trình tư bản ngân
hàng xâm nhập vào tư bản công nghiệp thì cũng có quá trình ngược lại: các tổ chức độc quyền công
nghiệp tham gia vào các tổ chức độc quyền ngân hàng bằng cách mua cổ phần của các ngân hàng
lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng làm cho lợi ích của ngân hàng và công nghiệp xoắn xuýt
vào nhau. Từ đó, hình thành ra một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
“Sự tập trung sản xuất, các tổ chức độc quyền sinh ra từ sự tập trung đó; sự hợp nhất hay sự
hòa quyện vào nhau giữa ngân hàng và công nghiệp - đó là lịch sử phát sinh của tư bản tài chính
và là nội dung của khái niệm tư bản tài chính”3
Như vậy, tư bản tài chính là sự xâm nhập và dung hợp giữa tư bản độc quyền ngân hàng với
tư bản độc quyền công nghiệp.
- Sự phát triển của tư bản tài chính đưa đến sự hình thành một nhóm nhỏ những nhà tư bản
độc quyền. Những nhà tư bản đó được gọi là bọn đầu sỏ tài chính (còn gọi là tài phiệt).
Về kinh tế, Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng “chế độ tham dự” tức là
chế độ nắm trên 50% cổ phiếu khống chế, để hình thành tập đoàn tư bản tài chính và chi phối các tư
bản chức năng.
Về chính trị, Do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ và tư bản sản xuất của xã hội, bọn đầu sỏ
tài chính chi phối, khống chế được hoạt động của nền kinh tế một quốc gia, từ khống chế kinh tế
chúng khống chế hệ thống chính trị và biến Nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ cho lợi ích của
tư bản tài chính.
c. Xuất khẩu tư bản
- Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ) ra nước
ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập
khẩu tư bản.
- Nguyên nhân của xuất khẩu tư bản
+ Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho tích lũy tư bản với quy mô ngày càng lớn dẫn

đến cấu tạo hữu cơ (C/V) ngày càng tăng, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận (P’) giảm, tình trạng tư bản
thừa xuất hiện rất nhiều trong các nước tư bản phát triển.
+ Trong khi đó, nền kinh tế thế giới lại bị chi phối bởi quy luật phát triển không đều, các nước
tiên tiến thì thừa tư bản, ngược lại các nước lạc hậu lại thiếu tư bản, kỹ thuật, thừa lao động, giá đất
đai, nguyên liệu lại rẻ, lại bị cuốn hút vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Do đó theo quy luật, tư bản
từ nơi thừa sẽ tìm đường chảy sang nơi thiếu thành dòng xuất khẩu tư bản.
- Bản chất của xuất khẩu tư bản.
+ Lênin vạch ra rằng đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh là xuất
khẩu hàng hóa, đó là xuất khẩu giá trị (c + v + m) ra nước ngoài (đưa hàng hóa ra bán ở nước ngoài)
với mục đích thực hiện giá trị thặng dư đã được sản xuất ra ở nước xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu
hàng hóa là thủ đoạn của tư bản bóc lột các nước kém phát triển bằng trao đổi không ngang giá.
3 . Sđd, t.27, tr.437.

3


+ Còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị, (đầu tư tư bản ra nước ngoài) với mục đích chiếm
đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản là
một trong những công cụ quan trọng để bọn tư bản tài chính thống trị và bóc lột các dân tộc trên thế
giới, với tỷ suất lợi nhuận cao, khối lượng lợi nhuận lớn. Mặt khác xuất khẩu tư bản nói lên sự mở
rộng quyền thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền ra các nước. Vì vậy xuất khẩu tư bản là một
trong những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Theo Lênin, thì xuất khẩu tư bản là hình tức bóc lột nhiều tầng của chủ nghĩa tư bản, bởi lẽ
các yếu tố đầu vào của sản xuất mà các nhà tư bản xuất khẩu ra nước ngoài vốn là một bộ phận giá
trị thặng dư, lao động quá khứ của người công nhân chính quốc bị nhà tư bản tước đoạt, được biến
thành phương tiện để tiếp tục bóc lột giai cấp công nhân ở các nước nhập khẩu. Hơn nữa khi tiếp
nhận dòng xuất khẩu tư bản dưới hình thức đầu tư, các nước nhập khẩu bao giờ cũng phải tạo môi
trường đầu tư thuận lợi, với sự ưu đãi về thuế sử dụng đất, mua công nghệ....
Như vậy xuất khẩu tư bản là một trong những công cụ quan trong để tư bản tài chính thống trị
và bóc lột các dân tộc trên thế giới. “Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ

nghĩa tư bản và thúc đẩy hết sức nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được đầu tư...làm
cho chủ nghĩa tư bản phát triển rộng và sâu thêm trên toàn thế giới mà thôi” 4
- Các hình thức xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, theo các cách tiếp cận khác nhau, song có thể
quy thành hai hình thức chủ yếu là: xuất khẩu tư bản hoạt động(đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư
bản cho vay (đầu tư gián tiếp).
+ Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh
doanh, xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận
đầu tư biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp có thể tồn tại dưới
dạng hỗn hợp, hoặc 100% vốn của nước ngoài để thu lợi nhuận cao.
+ Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiế) là cho vay để thu lợi tức. Là hình thức xuất khẩu
tư bản được thực hiện dưới hình thức cho chính phủ, thành phố hay một ngân hàng ở nước ngoài
vay tư bản tiền tệ có thu lãi.
- Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân thành XK tư bản nhà nước và XK tư bản tư nhân.
+ Xuất khẩu tư bản Nhà nước là Nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của
mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào các nước nhập khẩu tư bản hoặc viện trợ không
hoặc có hoàn lại nhằm mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế: Xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để
tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại để ký
được các hiệp định thương mại có lợi và đầu tư có lợi...
Về chính trị: viện trợ thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị “thân cận” đã bị lung lay
ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, tạo
điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.
Về quân sự, viện trợ của các nước tư bản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự
hoặc buộc các nước này cho lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ nước mình.
+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân đảm nhiệm. Hình thức
này có đặc điểm là thường đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được
lợi nhuận độc quyền cao dưới các hình thức hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.
Kết luận: Xuất khẩu tư bản luôn có hai mặt
Một mặt:

+ Làm cho QHSXTBCN phát triển và mở rộng ra trên phạm vi toàn thế giới.
+ Thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế của nhiều
nước.
+ làm cho quá trình CNH, HĐH ở các nước nhập khẩu phát triển n hanh chóng
(Là công cụ giúp các nhà đầu tư nước ngoài tận dụng được lợi thế so sánh của nước đầu tư
để tăng cường mở rộng sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận tối đa, là công cụ giúp các nhà tư bản
quốc tế xâm nhập sâu vào nền kinh tế của các nước nhận đầu tư tạo nên nhân tố bên trong để chi
4 . Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.27, tr.459.

4


phối sự phát triển về chính trị - xã hội theo mô hình của các nước xuất khẩu tư bản - đây là bản
chất nội tại do chính các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản quy định).
Mặt khác: Để lại trong các nước nhập khẩu tư bản những hậu quả nặng nền như:
+ Nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc
+ Nợ nần chồng chất do bị bóc lột nặng nề
d. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
- Sự phát triển của xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân
chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư
tư bản, phân chia thị trường thế giới.
Khi phân tích về bản chất của sự phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền Lênin cho
rằng: “Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập
trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời” 5 . Nghĩa là, do tập trung sản
xuất quá lớn đến mức cần phải thâu tóm và khống chế các nguồn nguyên liệu chủ yếu ổn định và
chiếm lĩnh được các thị trường tiêu thụ hàng hóa công nghiệp ngày càng lớn do sức sản xuất của đại
công nghiệp tạo ra, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch.
- Cuộc đấu tranh giành thị thường và nơi đầu tư có lợi diễn ra giữa các tổ chức tư bản độc
quyền ngày càng khốc liệt, lại được sự ủng hộ của Nhà nước làm xuất hiện xu thế thoả hiệp, hình
thành nên các liên minh độc quyền quốc tế dưới các hình thức: các ten, xanh đi ca, tơ rớt quốc tế.

Tổ chức độc quyền quốc tế là sự liên minh giữa các tổ chức độc quyền lớn nhất của các nước
để phân chia thị trường và nguồn nguyên liệu, quy định quy mô sản xuất cho mỗi tổ chức độc quyền
và định giá cả độc quyền nhằm bảo đảm tỷ suất lợi nhuận độc quyền cao nhất.
Cho đến năm 1934 đã có 350 cácten quốc tế lớn, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế,
chính trị của toàn thế gới.
e. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Sự phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc xuất phát từ các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất; trong thời kỳ đầu, khi chưa đủ sức mạnh kinh tế để có thể khống chế nền kinh tế
của các quốc gia khác trong quỹ đạo sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của mình, các tập đoàn tư bản tài
chính đã liên minh với Nhà nước tư sản, biến Nhà nước thành công cụ thực hiện chiến tranh xâm
chiếm lãnh thổ của các quốc gia khác nhằm chủ động thâu tóm đất đai, nguồn cung cấp nguyên liệu
và lao động, chiếm đoạt thị trường để độc quyền mua nguyên liệu, tiêu thụ hàng hóa.
- Thứ hai, khi chủ nghĩa tư bản phát triển, mâu thuẫn đối kháng trong nước tăng, tư bản độc
quyền đã đầu tư vào thuộc địa, đưa vốn và lao động sang làm việc, hình thành ở đây tầng lớp công
chức và các nhà tư bản, công nhân chính quốc có nhiều đặc quyền, lợi ích gắn bó với tư bản độc
quyền nhờ đó mâu thuẫn trong nước dịu bớt đi.
- Thứ ba, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lãnh thổ thế giới đã chia xong, nhưng rất không
đều, các đế quốc già như Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha chiếm phần lớn lãnh thổ thế giới làm thuộc
địa, còn các đế quốc trẻ như Đức, Áo, Italia, Nhật bản sức sản xuất trong nước tăng nhanh trong khi
nhu cầu bão hòa, xuất khẩu ra nước ngoài vấp phải hàng rào hành chính và thuế quan của các đế
quốc già. Do đó tư bản tài chính đã liên kết các nhà nước tư sản thực hiện hai cuộc chiến tranh thế
giới nhằm phân chia lại lãnh thổ thế giới.
Tính đến 1914, chỉ riêng sáu nước đế quốc lớn: Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật đã chiếm 65
triệu km2 thuộc địa với số dân 523,4 triệu người. Đế quốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất;
sau đó là đế quốc Nga và Pháp. Tuy nhiên sự phân chia đó không đều nhau. Số dân thuộc địa của
Anh nhiều gấp mười hai lần số dân thuộc địa của Nga và bằng bảy lần số dân của Pháp. Số dân
thuộc địa của Pháp lại nhiều hơn số dân thuộc địa của ba nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại. Trong khi
đó các đế quốc ra đời muộn hơn (đế quốc trẻ) không chịu yên với trật tự đã có mà quyết đấu tranh
đòi chia lại thế giới.
Thực tế lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm thuộc

địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc
quyền nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy Lênin gọi chủ nghĩa tư bản độc quyền
quốc tế là chủ nghĩa đế quốc.
5 . Sđd, t.27, tr.472.

5


Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã
làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực
dân đã bị thủ tiêu, trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân kiểu
mới mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kỹ thuật kinh tế quân sự để duy trì sự lệ thuộc.
Từ năm đặc điểm trên đây có thể rút ra kết luận: Chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự
thống trị của các tổ chức độc quyền; về mặt chính trị là xâm lược nước ngoài, là hệ thống thuộc địa
nảy sinh từ yêu cầu kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Nếu định nghĩa vắn tắt thì chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.
Tóm lại, Sự ra đời chủ nghĩa đế quốc đã thúc đẩy lực lượng sản xuất, kinh tế thế giới phát
triển. Chủ nghĩa đế quốc, đó là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên đó cũng là một giai đoạn mà các mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển và trở nên hết sức gay gắt.
II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong nền kinh tế các nước đế quốc xuất hiện nhiều hiện
tượng kinh tế - xã hội mới, nổi bật là sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ kinh tế đối nội và
đối ngoại. Hiện tượng kinh tế - xã hội này đã có mầm mống từ thời kỳ đầu tổng khủng hoảng của
chủ nghĩa tư bản và được Lênin gọi là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đến nay
CNTBĐQNN đã phát triển đầy đủ, trở thành phổ biến và ổn định ở các nước tư bản phát triển.
1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a. Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Về lịch sử, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước sinh ra trong chiến tranh thế giới thứ nhất,
đầu tiên ở Đức sau đó phát triển ở Anh, Hoa kỳ và Pháp trở thành hình thức phổ biến ở hầu hết các

nước tư bản từ sau chiến tranh thế gới thứ hai đến nay.
Nếu “...tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung này khi phát triển tới mức độ
nhất định, lại dẫn tới độc quyền”, các tổ chức độc quyền dựa trên sở hữu tập thể tư bản tư nhân tư
bản chủ nghĩa, thì tập trung sản xuất cao hơn nữa làm cho tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất
phát triển, trình độ quốc tế hóa của sản xuất cao hơn làm cho sở hữu tập thể của tư bản tư nhân trở
nên không còn phù hợp, tất yếu ra đời chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc
quyền, nguyên nhân là do:
Một là: Tích tụ và và tập trung tư bản ngày càng lớn thì tích tụ và tập trung SX càng cao, do
đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế quy mô to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân
phối, một hình thức kế hoạch hóa tập trung từ một trung tâm mang tính quyền lực nhà nước tư sản.
Hình thức mới đó chính là CNTBĐQNN
Hai là: Sự phát triển của LLSX, mà trước hết là của phân công lao động xã hội làm xuất hiện
một số ngành mới mới mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh
doanh vì đầu tư lớn, rủi ro cao, thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp nhưng lại rất cần cho nền kinh tế
phát triển cân đối đó là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng.
Ba là: Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai
cấp vô sản và nhân dân lao động, do đó nhà nước tư sản phải có những chính sách tạm thời làm dịu
bớt những mâu thuẫn đó bằng trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã
hội...làm cho nền sản xuất tiếp tục phát triển trong điều kiện vẫn còn tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Bốn là: Sự mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại và tăng cường hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia vấp phải các rào cản quốc gia, dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị
trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi nhà nước tư sản đứng ra bảo hộ nhằm tạo môi trường quốc tế
cứng và mềm để hỗ trợ tư bản chiếm lĩnh và khai thác thị trường thế giới, nhằm mở rộng quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã hội hiện thực
và tác động của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà
nước tư sản vào đời sống kinh tế.
b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
- Xét về bản chất: Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ

chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống
6


nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá
trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc
quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: Tăng sức
mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế (mở rộng vai trò
kinh tế của nhà nước tư sản), kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính
trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy chính trị của nhà nước phụ thuộc vào các tổ
chức độc quyền, nhằm duy trì và thúc đẩy chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển.
Ở đây, nhà nước tư sản thể hiện như một nhà tư bản xã hội, (tư bản tập thể khổng lồ). Nó cũng
là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư
bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà tư bản thông thường,
nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù...
Nhà nước trở thành công cụ trước hết vì lợi ích của tổ chức độc quyền, nhà nước tư sản trong tay
các tổ chức, tập đoàn độc quyền, chứ không phải ngược lại.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ
không chỉ là chính sách tồn tại trong giai đoạn độc quyền thống trị “...Chủ nghĩa tư bản nhà nước
không phải là vấn đề tiền, mà là vấn đề quan hệ xã hội” 6
2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Sự vận động của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được biểu hiện dưới những hình thức
chủ yếu dới đây:
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
- Về chính trị chúng thường xuất hiện dưới hình thức các đảng phái chính trị như: “Đảng dân
chủ”, “Đảng cộng hòa”, “Công đảng”, “Đảng dân chủ thiên chúa giáo”,v.v..đây là cơ sở chính trị, xã
hội cho sự hình thành nhân sự của bộ máy nhà nước. (sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua
các đảng phái tư sản)
- Về tổ chức kinh tế chúng thường xuất hiện dưới hình thức “Liên minh giới chủ” với những

tên gọi khác nhau. Ở Mỹ có “Hội công ghiệp toàn quốc Mỹ”, Nhật Bản có “Liên đoàn các tổ chức
kinh tế và tập đoàn nghiệp chủ Nhật Bản” - Keidanren,v.v..
- Hai hình thức tổ chức này của các nhà tư bản nhìn bề ngoài có khác nhau, nhưng thực chất
chỉ là một. Nhiệm vụ của chúng là liên kết lại thành một cơ chế thống nhất qua nhà nước để chi
phối đường lối và điều khiển các chính sách kinh tế, chính trị của quốc gia.
b. Sự hình thành và phát triển sở hữu tư bản độc quyền nhà nước
- Trong các hình thức sở hữu tư nhân thì hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là hình
thức tư hữu thuần túy nhất. Nó dựa trên nguyên tắc “chế độ tư hữu là tài sản thiêng liêng nhất và bất
khả xâm phạm”, nhà nước không có quyền can thiệp vào tài sản và kinh doanh riêng của các nhà tư
bản, cũng không nắm quyền sở hữu những xí nghiệp và doanh nghiệp. Nhưng cùng với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, chế độ sở hữu nhà nước cũng dần dần phát triển.
Đó là sở hữu độc quyền nhà nước hay tư bản của nhà nước độc quyền; trong đó sở hữu nhà nước và
sở hữu độc quyền tư nhân xâm nhập vào nhau, tạo thành hạt nhân, gắn bó với nhau ngay trong quá
trình tuần hoàn của tổng tư bản. Sở hữu này phục vụ cho lợi ích tập thể của các nhà tư bản, trước
hết là lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Tuy nhiên mục đích tối cao của nó là duy trì sự tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Ngoài sở hữu các doanh nghiệp của mình trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, dịch
vụ, giao thông vận tải, y tế, giáo dục...nhà nước tư sản còn sở hữu toàn bộ tài nguyên: đất đại, rừng,
biển...các động sản và bất động sản cần thiết cho hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Sở hữu nhà nước tư sản được hình thành dưới những hình thức sau: a) Xây dựng doanh
nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách (trong đó có cả doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà
nước và doanh nghiệp liên kết với tư bản tư nhân trong và ngoài nước, kể cả liên kết với nhà nước
khác; b) Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại khi cần thiết; c) Nhà nước mua cổ
phiếu của các doanh nghiệp tư nhân; d) Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng thu hút vốn tích lũy
của các doanh nghiệp tư nhân.
6

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mát xcơ va, 1977, t.36, tr.335.

7



- Đặc trưng của sở hữu trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là tính chất đồng sở hữu
giữa nhà nước và độc quyền tư nhân.Ở đây mục đích sở hữu của nhà nước là tạo điều kiện để phát
triển kinh tế - xã hội và bảo tồn chủ nghĩa tư bản, còn mục đích sở hữu của độc quyền tư nhân là lợi
nhuận độc quyền cao. Mối quan hệ giữa nhà nước và tư bản độc quyền trong mối quan hệ sở hữu là
mối quan hệ biện chứng, vì không bảo tồn được quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhà tư bản sẽ
không còn lợi nhuận và không bảo đảm được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì cơ sở kinh tế của nhà
nước tư sản không còn nữa.
- Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:
Thứ nhất, Mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Đặc biệt là những ngành sản xuất truyền thống, nhờ sự hỗ trợ của kinh tế nhà
nước, đã đứng vững trong cạnh tranh và những ngành công nghệ mới nhất đòi hỏi vốn đầu tư lớn và
trình độ nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao mà độc quyền tư nhân đơn lẻ không tự
phát triển được.
Thứ hai, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những
ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
Thứ ba, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một số quá trình kinh tế
phục vụ lọi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.
- Như vậy sở hữu nhà nước tư sản xuyên tạc bản chất của chế độ sở hữu tư bản, vì nó biểu
hiện ra như có “tính xã hội”, song trong thực tế nó không vượt khỏi khuôn khổ của sở hữu tư bản
chủ nghĩa, vì trong các doanh nghiệp nhà nước công nhân vẫn bị bóc lột. Họ không phải là người chủ
thực sự đối với tư liệu sản xuất.
c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước không phụ thuộc vào mong muốn, ý chí của các nhà tư bản
và cả nhà nước tư sản, mà là do yêu cầu của các quá trình kinh tế diễn ra trong nền sản xuất tư bản:
+ Khi cơ chế thị trường kết hợp với độc quyền không điều tiết được nền kinh tế, trong đó tồn
tại các doanh nghiệp có quy mô lớn, tính xã hội hóa tư bản và sản xuất tăng cao, lại vận động trên
hai nguyên tắc trái ngược chiều nhau là tự do và độc quyền.
+ Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa liên tục lâm vào khủng hoảng chu kỳ, trong đó sự đổ vỡ kinh

tế lớn, thất nghiệp và lạm phát cao, làm chậm tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
+ Dưới sự thống trị của độc quyền, do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các doanh nghiệp
đã khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, tạo ra
chênh lệch giàu nghèo lớn và không công bằng trong xã hội.
Từ đó đòi hỏi nhà nước phải can thiệp vào sự vận động của nền kinh tế khắc phục các khuyết
tật và định hướng sự phát triển của nó vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản.
- Điều tiết kinh tế là việc nhà nước áp đặt những quy chế của mình nhằm hướng dẫn, hạn chế,
thay đổi hành vi kinh tế của các chủ thể sản xuất và kinh doanh cho phù hợp với những hoạt động
chung theo những mục tiêu mà nhà nước đã vạch ra.
Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm
soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả
ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng
thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội... và bằng cả các
giải pháp ngắn hạn.
Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh
tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hoá hay
chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý. Tùy thuộc vào điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể của từng nước, trong từng thời kỳ và sự vận dụng các học thuyết kinh tế, sự điều tiết
kinh tế của nhà nước tư sản có các mô hình thể chế kinh tế khác nhau như “mô hình trọng cầu”,
“mô hình trọng cung”, “mô hình trọng tiền”... Những học thuyết kinh tế quan trọng đã được vận
dụng vào sự điều tiết kinh tế của nhà nước. Đó là học thuyết Kênxơ (J. Keynes - 1854-1946) chiếm
vị trí thống trị từ những năm 40-70 của thế kỷ XX, sau đó là học thuyết kinh tế của P.A. Samuelson
đang là cơ sở lý luận cho sự điều tiết vĩ mô của nhà nước và quản lý vi mô của các doanh nghiệp.

8


III. NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền nằm

trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trong giai đoạn này lực lượng
sản xuất đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về tính chất và trình độ, đã làm cho quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa có sự biến đổi thích ứng. Từ đó làm nảy sinh những đặc điểm mới, đồng thời làm cho
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng thêm gay gắt, tạo tiền đề vật chất cho sự phủ định
nó.
1. Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a) Tập trung sản xuất và hình thức độc quyền mới: Sự xuất hiện các công ty độc quyền
xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra quá trình
hình thành những sự liên kết giữa các độc quyền theo cả hai chiều dọc và ngang ở trong và ngoài
nước. Từ đó, những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là các consơn (concern) và các
cônglômêrát (conglomerate).
Consơn: Đó là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí nghiệp có
quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều nước. Trong số 500 công ty lớn nhất
của Mỹ có tới 94% là loại consơn so với 49% năm 1949. Điển hình về tính đa ngành là consơn
GMC (General Motor Corporation) năm 1988 có doanh số là 121,085 tỷ USD. Ngoài ngành sản
xuất ô tô chiếm từ 80-90% tổng giá trị sản phẩm, GMC còn thâu tóm những xí nghiệp sản xuất đồ
điện thông dụng như môtơ, tuabin, đầu máy điêzen, máy giặt, máy hút bụi và một số mặt hàng khác.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là: trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa
các độc quyền và sự biến động nhanh chóng của thị trường thì việc kinh doanh chuyên môn hoá hẹp
dễ bị phá sản. Hơn nữa, hình thức độc quyền đa ngành còn là kết quả của sự chuyển hoá, thay thế
các tờrớt để đối phó với luật chống độc quyền ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa (luật này cấm
độc quyền 100% mặt hàng trong một ngành).
Ở các nước tư bản phát triển ngày càng xuất hiện nhiều công ty vừa và nhỏ, chiếm hơn 90%
tổng số hãng có đăng ký, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong những ngành mới như tin
học, chất dẻo, điện tử, các hãng nhỏ chiếm tỷ lệ tuyệt đối (ở Mỹ các hãng nhỏ chiếm 90% tổng số
hãng trong lĩnh vực này).
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hoá và

chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công, nhất là trong các ngành sản
xuất ôtô, máy bay, cơ khí, dệt...
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó. Đó là: nhạy cảm đối với
thay đổi trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường; mạnh dạn đầu tư vào
những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm; dễ đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí
bổ sung, có thể kết hợp nhiều loại hình kỹ thuật để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao trong
điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế…
Ngoài ra, độc quyền cũng xuất hiện cả ở những nước đang phát triển. Đó là kết quả của sự
thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các nước này và sự ứng dụng những thành tựu khoa
học - kỹ thuật hiện đại khiến cho chỉ một xí nghiệp hay một công ty cũng đủ sức mạnh chi phối việc
sản xuất và tiêu thụ của cả một ngành mới ra đời ở một nước đang phát triển và tới mức độ nhất
định có thể bành trướng ra bên ngoài.
Các tổ chức độc quyền ra đời luôn luôn có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện
hiện nay, xu hướng vận động của chúng là trở thành các công ty xuyên quốc gia và liên minh với
nhà nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và
là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới.
b) Sự thay đổi các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính
Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các ngành thuộc “phần mềm” như
dịch vụ, bảo hiểm... ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Thích ứng với sự biến đổi đó, hình thức tổ chức
và cơ chế thống trị của tư bản tài chính đã thay đổi. Ngày nay, phạm vi liên kết và xâm nhập vào
9


nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập
đoàn tư bản tài chính thường tồn tại dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: công - nông - thương tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự, dịch vụ quốc phòng... Nội dung của sự liên kết cũng đa
dạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp hơn.
Cơ chế thị trường của tư bản tài chính cũng biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được phát
hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư mua cổ phiếu... kéo theo đó là
“chế độ tham dự” được bổ sung thêm bằng “chế độ uỷ nhiệm”, nghĩa là những đại cổ đông được

“uỷ nhiệm” thay mặt cho đa số cổ đông có ít cổ phiếu quyết định phương hướng hoạt động của
công ty cổ phần. Chủ sở hữu tư bản lớn giờ đây vừa khống chế trực tiếp vừa khống chế gián tiếp đối
với tư bản thông qua biến động trên thị trường tài chính, buộc các nhà quản lý phải tuân theo lợi ích
của chúng.
Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, toàn cầu
hoá kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia
thực hiện việc điều tiết các consơn và cônglômêrát, xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia
khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới như Nhật Bản, Mỹ, Đức, Hồng Kông,
Xingapo... là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế. Dù biểu hiện dưới hình thức nào,
có sự thay đổi cơ chế thống trị ra sao, bản chất của tư bản tài chính cũng không thay đổi.
c) Xuât khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyền quốc tế sau chiến tranh, nhưng quy mô,
chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới.
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có những biến đổi lớn.
Thứ nhất, trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các
nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng
đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba
trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản
vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy vào Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước
đang phát triển giảm mạnh (năm 1996 chỉ còn 16,8%, hiện nay khoảng 30%).
Sở dĩ có sự chuyển hướng đầu tư như vậy là do:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và
phát triển thành các ngành mũi nhọn như: ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới,
ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương... Sự xuất hiện những ngành mới đã tạo ra
nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch lớn.
Ở các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất: phát triển các
ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao và hàm lượng vốn lớn. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ
diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì ở các nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng lạc hậu, tình
hình chính trị kém ổn định, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công ty xuyên

quốc gia (TNCs) trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Chẳng hạn vào những năm 90 của thế kỷ XX, các TNCs đã chiếm tới 90% luồng vốn FDI.
Mặt khác đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật là
NIEs châu á. Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, có sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản
và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới
như BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BT (xây dựng - chuyển giao) sự kết hợp giữa xuất
khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khảu tư bản đã được gỡ bỏ dần và
nguyên tắc cùng có lợi được đề cao. Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản
phát triển không làm cho đặc điểm và bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi, mà chỉ làm cho hình
thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn.
d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hoá nền
kinh tế
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của TNCs tăng lên thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá, toàn
cầu hoá kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc
hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế lại
10


diễn ra xu hướng khu vực hoá kinh tế, hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên minh
châu Âu (EU) từ ngày 1-1-1999 gồm 15 nước và cho ra đời đồng tiền chung châu Âu (EURO) với
sự tham gia của 11 quốc gia. Tại Tây bán cầu, Mỹ đang xúc tiến thành lập khối thị trường chung
châu Mỹ (dự định hoàn tất vào năm 2010) bằg cách từng bước mở rộng khối Mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA gồm: Canađa, Mêhicô và Mỹ) đến Nam Mỹ.
Việc phân chia thế giới về kinh tế cũng có sự tham gia của một loạt nước đang phát triển
nhằm chống lại sức ép của các cường quốc TBCN. Đó là việc thành lập tổ chức các nước xuất khẩu
dầu mỏ (OPEC), thị trường chung vùng chóp nón Nam Mỹ (MERCOSUR) gồm 4 nước: Brazin,
Achentina, Urugoay, Paragoay... Ngày càng có nhiều nước tham gia vào các Liên minh mậu dịch tự

do (FTA) hoặc các Liên minh thuế quan (CU).
Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hoá thông qua các tổ
chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực.
đ) Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh
tranh và thống trị mới.
Tuy chủ nghĩa thực dân đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã suy yếu, nhưng
các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh
hưởng bằng cách thực hiện “chiến lược biên giới mềm”, ra sức bành trướng “biên giới kinh tế” rộng
hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ
đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng lại được thay thế
bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong
hoặc núp sau các cuộc đụng độ đó là các cường quốc đế quốc.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là chủ nghĩa tư bản
độc quyền. Những biểu hiện mới đó chỉ là sự phát triển của năm đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư
bản độc quyền mà V.I. Lênin đã vạch ra từ những năm đầu thế kỷ.
2. Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước.
Trải qua quá trình phát triển gần một thế kỷ, ngày nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Đặc điểm nổi bật biểu hiện là:
- Tỷ trọng của kinh tế thuộc nhà nước trong nền kinh tế quốc dân được tăng lên rõ rệt (trong
các ngành sản xuất vật chất, tài chính, ngân hàng, dịch vụ), cùng những công trình cơ sở hạ tầng xã
hội mới xây dựng do nhà nước tư bản chủ nghĩa đầu tư.
- Sự kết hợp giữa kinh tế thuộc nhà nước và kinh tế tư nhân tăng lên rõ rệt.
- Chi tiêu
tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết quá trình tái sản xuất xã hội tăng.
Sở dĩ như vậy là do:
Sự phát triển của LLSX và trình độ xã hội hoá sản xuất cao đã đặt ra một loạt vấn đề mới
đòi hỏi phải có sự giải quyết của nhà nước.

Cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước gay gắt đòi hỏi nhà nước phải đứng ra
mở cửa thị trường.
Tóm lại, tác động của cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát
triển có tính chất nhảy vọt nên nhà nước phải tham dự vào quá trình kinh tế xã hội, đó là một xu thế
tất yếu và thường xuyên.
Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn, thể hiện
như sau: + Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch.
+ Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường thông qua hợp đồng, đồng thời hỗ trợ các
ngành truyền thống cần được tiếp tục duy trì và những ngành mũi nhọn với công nghệ cao.
+ Điều tiết tiến bộ khoa học và công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát
triển, đề xuất các hướng ưu tiên phát triển công nghệ, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các công
ty tư nhân.
+ Điều tiết thị trường lao động bằng cách đào tạo và đào tạo lại, khuyến khích phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút người thất nghiệp, thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, nhà nước
còn can thiệp vào các hợp đồng lao động... + Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát,
điều tiết giá cả.
11


Điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tế...
3. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại
a) Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại được thể hiện trên các khía
cạnh sau:
Thứ nhất: cách mạng công nghệ thông tin(IT) và công nghệ cao phát triển mạnh mẽ. Cách mạng IT
khởi nguồn từ các nước phát triển phương Tây là bước nhảy vọt lớn mang tính lịch sử to lớn của phát triển
khoa học kỹ thuật, là kết quả sự tích lũy khoa học kỹ thuật lâu dài của các nước tư bản chủ nghĩa. Mười mấy
năm gần đây, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành lớn nhất và ngành tăng trưởng nhanh
nhất, nửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ngành công nghệ thông tin của Mỹ chiếm 8,3% trong GDP,đóng
góp cho tăng trưởng kinh tế trên 30%.

Cùng với sự lan rộng trên toàn cầu của cách mạng IT, các ngành công nghệ cao mới khác như sinh
học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng không vũ trụ…. Cũng đang phát triển mạnh mẽ, dự kiến cách
mạng khoa học kỹ thuật sẽ bùng nổ một cao trào mới do sư kết hợp giữa IT với công nghệ cao khác đặc biệt
là công nghệ sinh học. Sự tiến bộ và những bước đột phá của khoa học ký thuật đã mở ra không gian rộng
lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất.
Thứ hai, giáo dục được tăng cường và tố chất của người lao động được nâng cao rõ rệt.
Ví dụ, thời gian được giáo dục học tập của công nhân Mỹ từ 10,6 năm của năm 1948 đã tăng đến trên
14 năm vào năm 1999; trong cùng thời gian này tỷ lệ trên đại học của người dân trên 25 tuổi từ 14% đã tăng
lên đến 50%. Tăng cường giáo dục đào tạo đã làm cho tố chất của công nhân được tăng cao, từ đó đặt nền
móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh.
b) Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất đã góp phần thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển đổi từ
kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp; cách mạng IT hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, vai trò của tri thức và khoa học kỹ thuật đã cao hơn các yếu tố như nguồn tài
nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất.
Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không còn do người lao động cơ bắp thao tác máy móc, mà chủ
yếu do những người lao động trí óc trong các ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri
thức thúc đẩy. Nâng cao tầm quan trọng của tri thức, biểu hiện ở chỗ tăng trưởng của tư bản vô hình (giáo
dục, nghiên cứu, khai thác….) cao hơn tư bản hữu hình(xây dựng, máy móc), hàm lượng tri thức tăng lên
trong sản phẩm và dịch vụ.
Đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế công nghiệp là kết tinh “nguồn tài nguyên”, còn đối tượng
sản xuất và tiêu thụ của kinh tế tri thức là “kết tinh tri thức”.
Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu nghành nghề của chủ nghĩa tư bản cũng được điều
chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa và công nghệ cao hóa. Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba
nghành nghề lớn,vị trí của nông nghiệp hạ thấp, vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan
công nghệ mới được tăng lên. Theo thống kê tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp của Mỹ trong GDP năm
1989 lần lượt là 18,2% và 36,1%; năm 1999 là 1,4% và 21,7%. Trong cùng thời gian này, tỷ trọng của
nghành dịch vụ trong GDP tăng từ 45,7% lên đến 77%. Đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều chỉnh
này phải kể đến vai trò công nghệ thông tin.

c) Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp
Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp trong chủ nghĩa hiện đại được thể hiện ở những
điểm sau:
Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ
phiếu tăng lên. Những năm 90 của thế kỷ XX, số lượng người dân nắm cổ phiếu và giá trị cổ phiếu ở Mỹ
tăng khá nhanh. Năm 1989 là 28% dân số Mỹ có cổ phiếu, Năm 1999 tới 48,2%, năm 1995 những người có
trong tay cổ phiếu trị giá thấp (5.000 USD trở xuống) đang giảm dần, còn những người có trong tay cổ phiếu
trị giá 50.000USD trở lên tăng gấp đôi so với năm 1989, lên đến 14,8 triệu người. Phân tán hóa quyền khống
chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công nhân. Nhưng trên thực tế, công nhân là
cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền khống chế cổ
phiếu cũng không làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao động.
Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn,các giai cấp, tầng lớp, đoàn thể xã hội và tập
đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là
giai cấp trung sản), chiếm khoản 40-50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một
phần vốn, rất nhiều trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp khá
tốt, đã không còn giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thống nữa.
Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất, thu nhập bằng tiền
lương của người lao động cũng có mức tăng trưởng khá lớn. Số liệu thống kê của Cục điều tra dân số liên
12


bang Mỹ cho thấy, từ năm 1986 -1993, thu nhập thực tế của số công nhân luôn có xu thế giảm; nhưng từ năm
1993 đến năm 1999 thì lại tăng lên 7,4%; năm 1999 tỷ lệ nghèo khó giảm đến mức thấp nhất kể từ năm
1979. Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại
nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất, mà bắt nguồn từ quan hệ sở hữu, nên
đã phần nào xoa dịu được tính gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ nghĩa tư
bản muốn tồn tại và phát triển cũng phải lo giải quyết các vấn đề xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa tư bản
và lao động, song song với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và cuộc đấu tranh bền bỉ của
giai cấp công nhân.
d) Thể chể quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn

Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức thể chể quản lý doanh nghiệp
trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước điều chỉnh và cải cách lớn.
Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng ngang và mạng lưới.
Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống kiểu kim tự tháp truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa
tầng thứ và theo chiều dọc, thay thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền ít tầng thứ và theo chiều
ngang; nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn giản trình tự quyết sách; phát huy đầy đủ
tính chủ động và trách nhiệm của toàn thể công nhân, nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng với những thay đổi từ thể
chế sản xuất theo “đơn đặt hàng”, doanh nghiệp thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng
máy tính, chế độ cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng gần gũi với
khách hàng hơn).
Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động, lấy con người làm gốc, yêu cầu đối với công nhân chủ
yếu không phải là điều kiện thể lực mà là phải có kỹ năng và tri thức cao hơn, để họ phát huy tính chủ động
và tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, thay đổi hình thức doanh nghiệp, xuất hiện xu thế hai loại hình lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ
nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã không ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị
trường của công ty. Đồng thời,các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng tạo hơn cũng được phát
triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức sống và hiệu quả cao hơn.
đ) Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nền sản xuất có sự phát triển vượt bậc, quy
mô sản xuất không ngừng mở rộng, do đó trong chủ nghĩa tư bản hiện đại các chính sách điều tiết kinh tế vĩ
mô của nhà nước đang có những điều chỉnh:
Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của
quốc gia.
Ví dụ: Trong 20 năm gần đây, chính phủ Mỹ tập trung phát triển ngành công nghệ cao mới như công
nghệ tin học, lấy phát triển ngành công nghệ cao mới để thực hiện phục hưng kinh tế Mỹ. Những năm 90 của
thế kỷ XX việc thiết lập thị trường chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối với
châu Âu hay đối với cả thế giới đều có ý nghĩa không thể xem nhẹ.
Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX, bất kể là Mỹ hay châu Âu
đều áp dụng mô hình chính sách “con đường thứ ba”, trên thực tế là sự dung hòa quan niệm giá trị truyền

thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của chủ nghĩa bảo thủ mới, đóng vai
trò tích cực cho việc xoa dịu những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận dụng linh hoạt chính
sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa
các tầng lớp xã hội khác nhau.
e) Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống kinh tế tư bản chủ
nghĩa, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế
Có nhiều tên gọi khác nhau về các công ty xuyên quốc gia, đồng thời cũng tồn tại nhiều tên gọi khác
nhau để chỉ các công ty hoạt động sản xuất kinh doanh quốc tế như: các công ty xuyên quốc gia; các công ty
đa quốc gia, các công ty toàn cầu, các công ty độc quyền quốc tế...Song có thể hiểu, các công ty xuyên quốc
gia:
+ Về mặt xuất xứ là công ty tư bản độc quyền.
+ Hầu hết chúng có tầm cỡ quốc tế.
+ Có chi nhánh nước ngoài.
+ Hình thành từ các công ty quốc gia (tức là mang một quốc tịch nếu xem xét ở công ty mẹ)
+ Một công ty quốc gia có cơ cấu hai bộ phận chủ yếu: Công ty mẹ và công ty nhánh (công ty mẹ có
trụ sở tại nước mẹ)
Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền của một quốc gia, thực hiện việc
bành chướng quốc tế bằng hình thức thiết lập một hệ thống chi nhánh ở nước ngoài - nhằm phân chi thị
trường thế giới và tìm kiếm lợi nhuận độc quyền.
13


Hiện nay, các TNC được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài trên quy mô lớn, các công ty xuyên quốc gia mua và thôn tính các tài sản ở nước ngoài, không
ngừng tăng cường thực lực, mở rộng thị phần. Cùng với toàn cầu hóa kinh tế phát triển nhanh, ngày càng
nhiều xí nghiệp trong nước trở thành công ty xuyên quốc gia. Theo tài liệu của trung tâm công ty xuyên quốc
gia Liên hợp quốc, năm 1986 các nước tư bản chủ nghĩa phát triển có 7.276 công ty xuyên quốc gia, với
273.000 chi nhánh và công ty con ở nước ngoài, tài khoản dòng khoảng 200 tỷ USD. Năm 1998, số công ty
xuyên quốc gia lên đến 44.000, với 280.000 công ty con, chiếm 44% giá trị tổng sản phẩm toàn cầu, 50%

tổng kim ngạch buôn bán, 90% đầu tư trực tiếp ở nước ngoài, trên 80% bản quyền kỹ thuật cao. Dựa vào
thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu
hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc quyền liên quốc gia phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng
mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa, các TNC đã có tác
động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh
vực trên toàn thế giới. Thể hiện ở những điểm sau đây:
- Các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy toàn cầu hóa sản xuất và nguồn vốn, thúc đẩy mạnh mẽ
phân công lao động quốc tế sâu sắc hơn, dựa vào nhau trong đời sống kinh tế, thúc đẩy buôn bán quốc tế
phát triển nhanh. Nét điển hình của quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay là sự phân công chuyên môn hóa
- Truyền bá khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý trên phạm vi toàn cầu, tạo không gian rộng lớn
để phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên quy mô quốc tế.
- Chiếm đoạt thị trường toàn cầu, xuất khẩu vốn và hàng hóa trên quy mô lớn, thu về nhiều ngoại tệ,
phát triển thực lực trong nước, tăng cường kiểm soát của tư bản độc quyền trên phạm vi toàn cầu. Nhưng mặt
khác trong quá trình xuất khẩu vốn và kỹ thuật ra thị trường thế giới cũng có khả năng làm cho kinh tế trong
nước “trống rỗng”, khiến nạn thất nghiệp thêm trầm trọng, cũng có khả năng bùng nổ mâu thuẫn và xung đột
với các nước sở tại.
- Tạo cơ hội và cả những thách thức to lớn cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên để độc lập tự chủ
trong phát triển kinh tế dân tộc, trong khi lợi dụng những cơ hội mà các TNC đưa đến, các nước đang phát
triển cũng cần có biện pháp đối phó với những thách thức đang gặp phải; giảm bớt tình trạng dựa dẫm vào
các TNC; đề phòng các công ty đó thâm nhập về chính trị và kiểm soát về kinh tế, bảo vệ nền độc lập chính
trị và lợi ích căn bản của nhà nước dân tộc.
- Ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Các TNC thao túng nguồn vốn tín dụng quốc tế khổng
lồ, hình thành thị trường tiền tệ lớn, trở thành các nhà kinh doanh ngoại tệ lớn nhất và lực lượng chủ yếu thúc
đẩy lưu thông vốn trên toàn thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến vệc ổn định thị trường tiền tệ và cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế.
g) Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tưbản chủ nghĩa ngày càng chú trọng
phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, những xung đột kinh tế như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ
giá hối đoái, chiến tranh lãi xuất mà trước đây thường có giữa các nước phương Tây đã giảm xuống. Việc
giải quyết giữa các nước phương Tây thường áp dụng hình thức thương lượng thỏa hiệp chứ không đối

kháng gay gắt như trước. Những năm gần đây, phối hợp và hợp tác quốc tế được tăng cường rõ rệt, hiệu quả
cũng không ngừng được nâng cao. Như sự phối hợp giữa các nước tư bản về chính sách tài chính, tiền tệ sau
“sự kiện 11- 9 - 2001”, sự phối hợp giữa Mỹ, EU và Nhật Bản để tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng tài chính
tiền tệ trên quy mô toàn cầu năm 2008. Vai trò của các tổ chức kinh tê khu vực và quốc tế phát huy tác dụng
ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh tế quốc tế và trở thành một trong những chủ thể mới điều tiết
quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tham gia một cách toàn diện vào công việc
cứu viện trong khủng hoảng tài chính châu Á, đã giúp các nước hội viên khắc phục khó khăn tạm thời về thu
chi tài chính quốc tế. Tăng cường điều tiết và phối hợp quốc tế có vai trò không thể xem nhẹ trong việc xoa
dịu mâu thuẫn bên trong và bên ngoài các nước tư bản chủ nghĩa, tạo không gian phát triển rộng lớn cho chủ
nghĩa tư bản.

IV. NHỮNG THÀNH TỰU, GIỚI HẠN VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN
1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do và chủ nghĩa tư bản
độc quyền, mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Trong suốt quá trình phát
triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra đối với loại người thì chủ nghĩa tư bản cũng có
những đóng góp tích cực đối với phát triển sản xuất. Đó là:
- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi “đêm trường trung cổ” của xã hội
phong kiến; đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản
chủ nghĩa; chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại.
Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư
bản đã làm tăng năng xuất lao động, tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ. Điều này đã được C.Mác và
14


Ph.Ăng ghen khẳng định trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848: chủ nghĩa tư bản ra đời
chưa đầy 100 năm mà đã tạo ra được đống của cải vật chất khổng lồ bằng tất cả các thế hệ trước đây cộng
lại.
- Phát triển lực lượng sản xuất.

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình
độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí (thời kỳ của C.Mác và
V.I.Lê nin) và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu trong việc chuyển
nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí sang giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả
khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người, đưa nền kinh tế của nhân loại bước vào một thời đại
mới: thời đại của kinh tế tri thức.
- Thực hiện hóa xã hội sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất
trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của
phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao
động sâu sắc, mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ…làm cho các
quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá
trình sản xuất xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản thông qua các cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ chức lao động
theo kiểu công xưởng, do đó đã xây dựng được tác phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề
nếp thói quen của người lao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.
- Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy
chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ vẫn tiến bộ hơn rất
nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay với những thành tựu và đóng góp của nó đối với sự phát triển của
nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải thông qua các cuộc
cách mạng xã hội. Dĩ nhiên cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào - hòa bình hay bạo lực,
điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chung
từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.
2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn chế về mặt lịch sử. Những
hạn chế này được C.Mác và V.I.Lê nin đề cập ngay từ trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa
tư bản.

- Trước hết về sự ra đời chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân tích chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với
quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những
biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt
động buôn bán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực hiện sự bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc
hậu. Về quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, C.Mác cho rằng, đó là lịch sử đầy máu và bùn
nhơ, không giống như một câu chuyện tình ca, nó được sử sách ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và
lửa không bao giờ phai.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với
công nhân làm thuê. Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ
nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song theo phân tích của C.Mác và V.I.Lênin thì chừng nào chủ nghĩa tư bản
còn tồn tại thì chừng đó quan hệ bóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội là điều không tránh
khỏi.
- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh hưởng
đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã
hội bị phá hủy, tốc độ phát triển của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm.
- Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn giữa các nước giàu và
các nước nghèo trên thế giới (thế kỷ XVIII chênh lệch về mức sống giữa các nước giàu nhất và nghèo nhất
mới chỉ là 2,5 lần hiện nay số chênh lệch ấy là 250 lần).
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ 3 bị trì trệ, suy thoái. Điều này được Ngân hàng Thế
giới khẳng định: ở châu Phi, Mỹ Latinh…hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với sự tăng trưởng là
sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái. Ở một vài nước Mỹ Latinh, GNP theo đầu người
hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây. Ở nhiều nước châu Phi, nó còn thấp hơn 20 năm trước
đây,”.....một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ Latinh mức sống không
ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng lên đó là điều hoàn toàn không thể chấp
nhận được”.
15


Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã không ngừng vơ vét tài nguyên, bóc lột
công nhân các nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong vòng phụ thuộc thông qua các con đường xuất

khẩu tư bản, viện trợ, cho vay…kết quả là các nước nghèo không những bị cạn kiệt về tài nguyên mà còn
mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ Latinh. Ở Braxin người ta tính ra
riêng số lãi mà Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay bằng xây nhà cho 30
triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu ăn.
3. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
- Những thành tựu và hạn chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
- Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao thì quan
hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên chặt hẹp hơn so với nội dung vật
chất ngày càng lớn lên của nó. Theo sự phân tích của C.Mác và V.I.Lênin, đến một chừng mực nhất định,
quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới - sở hữu xã
hội (sở hữu công cộng) về tư liệu sản xuất được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất.
Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thức
sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và phủ định phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
- Tuy nhiên những thay đổi của chủ nghĩa tư bản hiện nay nói lên rằng, chủ nghĩa tư bản vẫn đang tiếp
tục điều chỉnh để thích ứng trước những biến động, mâu thuẫn bên trong và ngoài nước. Những điều chỉnh
mới của chủ nghĩa tư bản ở trên đã cho chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản trước mắt vẫn tiếp tục tồn tại và phát
triển, mặc dù sự phát triển này không phải là vĩnh hằng và không phải là vô hạn. Do vậy, đồng thời với việc
vững tin rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cuối cùng sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, cũng cần phải
nhận thức đầy đủ về tính lâu dài của quá trình này. Cần chuẩn bị kỹ càng cho khả năng cùng chung sống, vừa
có hợp tác vừa có đấu tranh với chủ nghĩa tư bản, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản để
xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mặt khác cũng phải nhận thức rằng, chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nó vẫn luôn hàm
chứa một nhân tố: tự hạn chế và tự phủ định do chính mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa sinh ra. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và
phân phối, và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm giảm bớt tính gay gắt của
mâu thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của quan hệ sản xuất tư

bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu, đối kháng về lợi ích trong quá trình sản xuất vẫn còn
đó, mâu thuẫn giai cấp vẫn tồn tại…Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản vốn chưa giải quyết được lại xuất hiện thêm
nhiều mâu thuẫn mới phát sinh, đẩy chủ nghĩa tư bản vào những khó khăn mới về kinh tế, chính trị, xã hội
dưới nhiều hìh thức khác nhau, đặc biệt trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đó là mâu
thuẫn giữa năng lực sản xuất vô hạn với tiêu dùng và khả năng thanh toán hạn chế; mâu thuẫn giữa khả năng
sản xuất vô hạn với nguồn tài nguyên hạn chế; mâu thuẫn giữa nhu cầu nhất thể hóa kinh tế quốc tế và lợi
ích quốc gia; mâu thuẫn giữa các nước chủ nghĩa tư bản trung tâm với các nước ngoại vi...Những mâu thuẫn
này diễn ra đồng thời, vẫn là những thách thức và đe dọa sự tồn vong chủ nghĩa tư bản.
- Tuy nhiên, như C.Mác và V.I.Lênin đã nhận định: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không tự
tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải được thực
hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội
này chính là giai cấp công nhân.

16



×