Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận môn luật cạnh tranh đề tài các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo luật cạnh tranh 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.31 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH



LUẬT CẠNH TRANH
BÀI TẬP NHÓM

Đề tài: CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN TRỪ ĐỐI VỚI
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH BỊ CẤM THEO LUẬT
CẠNH TRANH 2004

GVHD:

Trần Thăng Long

SVTH :



Cao Vũ Ngọc Hân
Nguyễn Thảo Uyên
Phạm Mạnh Hiếu
Nguyễn Cao Trí
: B511_Tối thứ 4
TP.Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2015


MỞ ĐẦU...................................................................................................................4
I.Cơ sở lý luận của pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh:......................5
1.Khái quát về pháp luật cạnh tranh và hành vi hạn chế cạnh tranh:....................5


1.1Khái quát về pháp luật cạnh tranh:...............................................................5
1.2Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh:........................................................6
2.Nguồn luật điều chỉnh........................................................................................6
3.Những dạng biểu hiện cơ bản của hành vi hạn chế cạnh tranh..........................6
4.Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và ý nghĩa:...................................7
4.1Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh:...............................................7
4.2Ý Nghĩa:.......................................................................................................7
5.Những hành vi hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát:...............................................8
II. Các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo
Luật cạnh tranh 2004:..............................................................................................11
1.Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.........................................................................11
1.1Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh .................................................11
1.2Các loại hình thỏa thuận hạn chế cạnh tranh .............................................12
1.2.1Thỏa thuận theo chiều ngang ..............................................................13
1.2.2Thỏa thuận theo chiều dọc ..................................................................16
1.3Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004......16
1.4Các trường hợp miễn trừ cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh..............17
1.4.1Cơ sở của việc miễn trừ trách nghiệm cho các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh.............................................................................................................17
1.4.2Các trường hợp được miễn trừ ...........................................................18
2. Tập trung kinh tế.............................................................................................20


2.1Khái niệm tập trung kinh tế........................................................................20
2.2Những biện pháp kiểm soát tập trung kinh tế:............................................22
2.3Những trường hợp miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế:..................23
2.3.1Đối với: “Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong
nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản”:................................24
2.3.2“Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”............................26

KẾT LUẬN.............................................................................................................28


MỞ ĐẦU
Với tư cách là công cụ pháp lý được sử dụng để loại bỏ các biểu hiện không
lành mạnh trên thị trường quốc gia, Luật cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo vệ lành mạnh và khả năng phát triển tự thân của nền kinh tế nội địa, bảo
vệ quyền tự do kinh doanh, khơi thông dòng chảy của cạnh tranh trên thị trường và
thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, hiệu quả trên tinh thần phát
triển lợi thế so sánh của từng thị trường thành viên. Trên thực tế đã có nhiều hành
vi hạn chế cạnh tranh gây cản trở cạnh tranh, có khả năng gây thiệt hại cho thị
trường. Vì thế hành vi này đã được điều chỉnh bởi Luật canh tranh 2004. Tuy nhiên
có những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm lại được hưởng miễn trừ. Đó là những
hành vi nào? Bài viết của nhóm sẽ phân tích vấn đề đó.


I.

Cơ sở lý luận của pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh
tranh:

1. Khái quát về pháp luật cạnh tranh và hành vi hạn chế cạnh tranh:
1.1 Khái quát về pháp luật cạnh tranh:

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là yếu tố tất yếu để các doanh
nghiệp tồn tại và phát triển. Cạnh tranh gắn với sự sống còn của các doanh nghiệp.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành nhân tố sản xuất
hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trong thị trường hàng hóa. Cạnh
tranh cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sẽ áp dụng nhiều cách thức để
giành thị trường bằng việc tác động trực tiếp tới khách hàng thông qua các yếu tố

như giá cả hàng hóa, số lượng, chất lượng, dịch vụ hoặc kết hợp các yếu tố này
hoặc yếu tố khác để tác động tới khách hàng. Trong thị trường mà các doanh
nghiệp cùng ganh đua để đạt được mục đích của mình, ắt hẳn sẽ không tránh khỏi
những hành vi trái pháp luật có thể gây ra hậu quả trực tiếp tới khách hàng. Chính
vì vậy, phải có một hàng rào pháp lý trong lĩnh vực này được đặt ra để hạn chế
những hành vi cạnh tranh sai trái của những doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh đã
ra đời nhằm thực hiện nhiệm vụ đó.
Pháp luật cạnh tranh không phải là pháp luật có mục tiêu trực tiếp nâng cao
năng lực cạnh tranh của một quốc gia mà nó mang tính ngăn cản và can thiệp trực
tiếp vào hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp nhằm ngăn ngừa, xử lí những
hành vi cạnh tranh trái pháp luật.
Ở quốc gia có những sự ổn định tương đối về pháp luật cạnh tranh, mặc dù
có cơ cấu của hệ thống pháp luật cạnh tranh khác nhau, song sau khi xem xét cấu
thành cụ thể, họ đều chia pháp luật cạnh tranh thành hai lĩnh vực riêng biệt : pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống cạnh tranh ( còn gọi là
chống độc quyền hay kiểm soát độc quyền ). Sở dĩ có sự phân biệt như vậy là do
tính chất của hành vi và mức độ của hành vi và mức độ nguy hại của chúng đối với
thị trường là khác nhau. Theo đó phương thức và sự nghiêm khắc của pháp luật đối
với hai nhóm hành vi này là khác nhau. Bên cạnh pháp luật về nội dung, pháp luật


về cạnh tranh còn có bộ phận pháp luật về thủ tục hay còn được gọi là pháp luật về
tố tụng cạnh tranh.
1.2 Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh:

Pháp luật cạnh tranh luôn có hai lĩnh vực cơ bản là pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh và pháp luật hạn chế cạnh tranh. So với pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật hạn chế cạnh tranh ra đời muộn hơn nhưng
nó ngày càng được các nhà lập pháp quan tâm với mục đích xây dựng một cơ chế
để “cương tỏa quyền lực kinh tế”, buộc quyền lực đó phải khuất phục trước sức ép

của cạnh tranh nhằm duy trì sự cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng, cho hiệu quả
của nền kinh tế và sự phát triển của quốc gia nói chung.
Trong lĩnh vực này, pháp luật luôn quan tâm đến ba nhóm đối tượng điều
chỉnh là các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi lạm dụng thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế. Trong pháp luật Việt
Nam, các nhà làm luật cũng tiếp cận theo cách hiểu ấy. Tại khoản 3 Điều 3 Luật
cạnh tranh 2004 đã đưa ra khái niệm về hành vi hạn chế cạnh tranh, đó là “ hành vi
của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm
dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”. Pháp luật đã cụ thể hóa nội dung của
từng hành vi này trong ba nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh nói trên trong các điều
8, 13, 14, 16 Luật cạnh tranh 2004.
2. Nguồn luật điều chỉnh

Luật cạnh tranh số: 27/2004/QH11
3. Những dạng biểu hiện cơ bản của hành vi hạn chế cạnh tranh

-

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Lạm dụng vị trí thống lĩnh
Lạm dụng vị trí độc quyền
Tập trung kinh tế.


4. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và ý nghĩa:
4.1 Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh:

Thị trường theo pháp luật cạnh tranh không chỉ được hiểu theo nghĩa thông
thường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa của kẻ bán người

mua mà khái niệm này cần được định nghĩa một cách cụ thể và có những tiêu chí
rõ ràng. Bởi lẽ khi cần tìm hiểu mối quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh không thể
thống kê mọi doanh nghiệp mà cần có sự phân loại các doanh nghiệp vào nhóm
các mặt hàng, lĩnh vực khác nhau. Doanh nghiệp sản xuất may mặc không thể là
đối thủ của doanh nghiệp sản xuất ô tô. Mặt khác, để xác định được hành vi độc
quyền, xác định được sức mạnh của một doanh nghiệp trên thị trường hàng hóa,
dịch vụ cụ thể cần phải có những tiêu chí định lượng, biện pháp giám sát nhất định.
Tất cả những vấn đề liên quan đến nhận dạng hay phân khúc thị trường như vậy
được pháp luật cạnh tranh xem xét trong khái niệm “thị trường liên quan”. Xác
định thị trường liên quan được coi là tiền đề, là căn cứ để xác định pháp luật chống
hạn chế cạnh tranh nói chung và xác định hành vi hạn chế cạnh tranh nói riêng.
Bên cạnh việc xác định thị trường liên quan, ta cũng cần phải xác định thị
phần của các doanh nghiệp. Việc xác định này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình xử lí vụ việc hạn chế cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong thị trường đều có
một thị phần nhất định. Thị phần được xem như là chỉ số cho thấy tầm quan trọng
hay sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường. Thị phần là một tiêu chí rất quan
trọng cho việc đánh giá chính xác, rõ ràng mức độ hành vi hạn chế cạnh tranh trên
thị trường của các hành vi hạn chế cạnh tranh trên thị trường được nhiều quốc gia
trên thế giới áp dụng. Theo đó, tổng thị phần của các doanh nghiệp thực hiện hành
vi hạn chế cạnh tranh luôn tỉ lệ thuận với mức độ hạn chế cạnh tranh của các hành
vi đó.
4.2 Ý Nghĩa:

Việc xác định thị trường liên quan cũng như thị phần của doanh nghiệp trên
thị trường có ý nghĩa quan trọng vì:


- Thứ nhất, xác định thị trường liên quan là công việc đầu tiên để xác định
thị phần của từng doanh nghiệp trong vụ việc hạn chế cạnh tranh. Theo quy định
của Luật cạnh tranh 2004, thị phần là cơ sở để xác định liệu các doanh nghiệp tham

gia vào thỏa thuận cạnh tranh có bị cấm thực hiện thỏa thuận đó hay không, xác
định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp, xác định
trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và trường hợp các doanh nghiệp tập trung kinh
tế cần phải thông báo cho cục quản lí cạnh tranh trước khi tiến hành
- Thứ hai, xác định thị trường liên quan là cơ sở quan trọng để xem xét xem
hai doanh nghiệp có phải là đối thủ cạnh tranh của nhau hay không vì các doanh
nghiệp chỉ có thể là đối thủ của nhau khi cùng hoạt động trong cùng một thị trường
liên quan.
- Thứ ba, xác định thị trường liên quan và thị phần giúp cho việc xác định
mức độ hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm các quy định của Luật cạnh tranh
gây ra.
5. Những hành vi hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát:

Hầu hết tất cả các hành vi hạn chế cạnh tranh đều nhằm và hướng tới mục
đích độc quyền hóa để nhằm thống lĩnh thị trường. Độc quyền sẽ tạo ra sự xơ cứng
cho sự phát triển kinh tế và vì thế, pháp luật cạnh tranh phải ngăn cản và xóa bỏ
mọi tính toán độc quyền hóa.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, vì lí do phải đảm bảo lợi ích
công cộng, vì tính chất và điều kiện đặc thù của một ngành hay lĩnh vực kinh tế
(như sản xuất vũ khí hoặc các phương tiện bí mật nhà nước), nhà nước cho phép
giữ độc quyền trong một lĩnh vực và mức độ nhất định. Chính vì thế, pháp luật
chống hạn chế cạnh tranh thực hiện sự kiểm soát những nhóm hành vi như sau:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Các-ten ): là hành vi cấu kết giữa hai
hay nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản sự tham
gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự gia nhập thị trường của
các doanh nghiệp tiềm năng. Về hình thức, các thỏa thuận này có thể được hình


thành thông qua các hợp đồng, nghị quyết, thỏa thuận ngầm của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh 2004 thì các thỏa thuận này bao gồm:

a. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp;
b. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung
ứng dịch vụ;
c. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua,
bán hàng hoá, dịch vụ;
d. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
e. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
f. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
g. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận;
h. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc
cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền: Hạn chế cạnh
tranh không chỉ được tạo ra bởi sự phối hợp hành động của các doanh nghiệp mà
còn được tạo ra bởi các hành vi lạm dụng thị trường đơn phương bởi các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Vị trí thống lĩnh thị trường theo từ điển
Chính sách thương mại quốc tế là “khả năng của một công ty có thể gây ảnh hưởng
đến xử sự của một công ty khác, bất kỳ là ngược hay xuôi”. Theo đó quyền lực thị
trường là khả năng ảnh hưởng của một doanh nghiệp đến hành vi của một doanh
nghiệp khác trên thương trường. Theo điều 13 LCT 2004 thì các doanh nghiệp,
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm thực hiện các hành vi sau
đây:


a. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh;

b. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán
lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
c. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản
trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
d. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm
tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;
e. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
f. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
- Tập trung kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, việc hợp nhất hay sát
nhập giữa các doanh nghiệp là con đường nhanh nhất để tạo ra khả năng độc quyền
của một doanh nghiệp mới. Hành vi này có thể sẽ làm cho nền kinh tế trở nên trì
trệ chậm phát triển, các doanh nghiệp khác không còn cơ hội để cạnh tranh, người
tiêu ùng phải cắn răng việc các doanh nghiệp độc quyền áp giá,… Bởi vậy, kiểm
soát việc hợp nhất hay sát nhập doanh nghiệp ( tập trung kinh tế ) ngày càng trở
thành nội dung trọng tâm của pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh.Theo quy
định của Điều 18 LCT 2004, tập trung kinh tế bị cấm nếu thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan,, trừ
trường hợp được miễn trừ theo điều 19 của luật này, hoặc doanh nghiệp sau khi tập
trung kinh tế vẫn thuộc doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.


II. Các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh
tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004:
1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.1 Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Mặc dù không có một khái niệm chung, thống nhất giữa các quốc gia về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên, từ thực tiễn thực thi pháp luật, có thể

thấy cách hiểu, cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở các quốc gia
có nhiều điểm tương đối đồng nhất.
Ở Châu Âu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 101 (Điều
81 cũ) của Hiệp ước thành lập liên minh Châu Âu như sau:
"Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, quyết định của hiệp hội các doanh
nghiệp và mọi hành vi liên kết khác có thể ảnh hưởng đến thương mại giữa các
nước thành viên và có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch
quy luật cạnh tranh trên thị trường của liên minh, đều bị coi là đi ngược lại với
mục đích thành lập thị trường chung và bị cấm”.
Tại Nhật Bản, khoản 6, Điều 2, Luật Chống độc quyền quy định:
“Hạn chế thương mại bất hợp lý là các hoạt động kinh doanh mà thông qua
đó bất kỳ doanh nghiệp nào bằng hợp đồng, thỏa thuận hay bất kỳ các hoạt động
thông đồng khác, không phụ thuộc tên gọi, cùng hạn chế hay tiến hành các hoạt
động kinh doanh của họ theo cách thức cố định giá, duy trì giá hay tăng giá, hoặc
để giới hạn sản xuất, công nghệ, sản phẩm, cơ sở sản xuất hay khách hàng hoặc
giao dịch của các đối tác, gây ra hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực
thương mại, đi ngược lại lợi ích chung”.
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh hiện hành thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được liệt vào nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh, theo đó là các hành vi của
doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Khác với pháp
luật cạnh tranh của Châu Âu và Nhật Bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam không
đưa ra khái niệm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà quy định cụ thể về 8 dạng


thức (hành vi) thoả thuận, bao gồm các thỏa thuận như thỏa thuận ấn định giá,
phân chia thị trường, tiết chế sản lượng… quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng như của các quốc gia nêu
trên đều không phân biệt hình thức thỏa thuận (công khai hay ngầm) và đều nhắm
vào mục đích/hệ quả hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận. Tuy nhiên, từ các cách
tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, có thể thấy rằng pháp

luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành sử dụng cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh hẹp hơn so với tiếp cận của Châu Âu và Nhật Bản, chí ít trên 2
phương diện:
 Ở Việt Nam, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bao hàm thỏa thuận giữa
các doanh nghiệp, không bao hàm các quyết định của Hiệp hội doanh nghiệp hay
các hành vi liên kết khác như ở Châu Âu và Nhật Bản. Chính bởi cách tiếp cận
này, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã không xem xét vai trò của các hiệp hội
trong các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
 Xuất phát từ cách tiếp cận liệt kê hành vi, ở Việt Nam, ngoài 8 dạng thỏa
thuận được luật hóa tại Điều 8 của Luật, các hạn chế thương mại bất hợp lý khác
hay các hành vi liên kết, thông đồng khác mặc dù có mục đích hoặc hệ quả ngăn
cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường nhưng nếu không
thuộc 8 dạng thỏa thuận được liệt kê sẽ không bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh và không bị xem xét.
1.2 Các loại hình thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được phân loại và nhận
dạng theo nhiều tiêu chí khác nhau. Hình dưới đây trình bày cách phân loại thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh theo mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận và
theo mức độ vi phạm nguyên tắc cạnh tranh.
Căn cứ mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận
Căn cứ theo mối quan hệ giữa các chủ thể (doanh nghiệp) tham gia thỏa
thuận, có thể phân loại thành thỏa thuận theo chiều ngang và thỏa thuận theo chiều


dọc. Việc phân loại này có một ý nghĩa quan trọng trong cách tiếp cận điều chỉnh
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bởi vì thỏa thuận ngang luôn được đánh giá
là có tác động nguy hại hơn so với thỏa thuận theo chiều dọc, do phạm vi ảnh
hưởng trên cùng một thị trường của thỏa thuận ngang lớn hơn thỏa thuận dọc. Do
vậy, phân biệt rõ ràng giữa thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc sẽ giúp ích cho

việc định hướng cách thức điều chỉnh hành vi thỏa thuận, mức độ can thiệp của cơ
quan cạnh tranh đối với vụ việc.
1.2.1 Thỏa thuận theo chiều ngang
Thỏa thuận theo chiều ngang (các-ten) là thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví dụ: thỏa
thuận giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với nhau, giữa những người
bán lẻ với nhau).
Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang diễn ra giữa các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau.
Về hình thức, thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh
nghiệp, có thể công khai hoặc ngầm.
Về nội dung, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang thường tập
trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh
tranh như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng
và nội dung hợp đồng.
Khi những nội dung của thỏa thuận được hình thành và thực hiện, thì các
yếu tố nói trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất, không có cạnh tranh trên thị
trường giữa những doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Thỏa thuận ấn định giá là một thỏa thuận bất kỳ giữa các đối thủ cạnh
tranh nhằm tăng, giảm, ấn định hoặc duy trì giá sản phẩm, dịch vụ trên thị trường.
Về bản chất, thỏa thuận ấn định giá là thỏa thuận nhằm loại bỏ, triệt tiêu hoặc hạn
chế cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp. Thỏa thuận ấn định giá có thể bao


gồm các thỏa thuận (ngầm hoặc công khai) nhằm tăng, giảm, kìm giữ giá các sản
phẩm trên thị trường.
Thỏa thuận hạn chế sản lượng có thể bao gồm các thỏa thuận về sản lượng
sản xuất, sản lượng bán hoặc tỷ lệ tăng trưởng thị trường. Về bản chất, thỏa thuận
hạn chế sản lượng là những toan tính tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu của
thị trường bằng cách tạo ra sự khan hiếm giả tạo về hàng hóa, dịch vụ mà các

doanh nghiệp kinh doanh. Sự khan hiếm giả tạo được chứng minh bằng năng lực
kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, theo đó họ đã thống nhất cắt
giảm số lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ hoặc ấn định số
lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá đủ để tạo khan hiếm trên thị trường
trong khi năng lực sản xuất, mua bán hoặc cung ứng của họ đủ đáp ứng nhu cầu thị
trường. Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp được xác định bằng số lượng, khối
lượng hàng hoá, dịch vụ đã sản xuất mua bán hoặc cung ứng trước khi có thỏa
thuận.
Thỏa thuận phân chia thị trường là những thỏa thuận trong đó các đối thủ
cạnh tranh phân chia các thị trường với nhau theo lãnh thổ, theo lượng cung, cầu
của từng doanh nghiệp hoặc theo nhóm khách hàng cụ thể.
Thứ nhất, thỏa thuận phân chia thị trường theo lãnh thổ là việc các doanh
nghiệp phân chia thị trường địa lý liên quan thành các khu vực và giao cho từng
doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán hàng hóa dịch vụ trong một, một số
khu vực nhất định. Thỏa thuận này được pháp luật của các nước coi là loại thỏa
thuận kinh điển nhất trong những thỏa thuận phân chia thị trường.
Thứ hai, thỏa thuận phân chia thị trường mang tính định lượng là việc các
doanh nghiệp thống nhất phân bổ lượng hàng hóa, dịch vụ mua, bán trên thị trường
cho từng doanh nghiệp tham gia. Trong trường hợp này, thị trường được phân chia
theo lượng cung, lượng cầu mà không phải theo khu vực địa lý hoặc theo nhóm
khách hàng. Để thực hiện được thỏa thuận này, các doanh nghiệp phải dự liệu
được tổng lượng hàng hóa, dịch vụ được mua, bán trên thị trường liên quan và


phân chia thành những phần khối lượng, số lượng mà từng doanh nghiệp được
quyền mua, bán.
Thứ ba, thỏa thuận phân chia thị trường theo nhóm khách hàng là việc các
doanh nghiệp thống nhất cho từng doanh nghiệp tham gia được quyền mua, bán
hàng hóa với một số nhóm khách hàng nhất định. Với thỏa thuận này, các doanh
nghiệp phải phân chia khách hàng thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định.

Các tiêu chí phân nhóm khách hàng rất đa dạng, có thể phân chia theo thu nhập,
theo độ tuổi, theo giới tính, theo đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng…. Từ đó, mỗi
doanh nghiệp tham gia được phân công phụ trách mua hoặc bán sản phẩm với một
nhóm khách hàng.
Thông đồng đấu thầu (bid rigging): là những thỏa thuận giữa các đối thủ
cạnh tranh nhằm làm sai lệch kết quả đấu thầu để đạt được mục tiêu của mình.
Bản chất hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu là các
bên tham gia đã loại bỏ cạnh tranh giữa họ hoặc với những doanh nghiệp không
tham gia thỏa thuận để dành quyền trúng thầu cho người mà họ chỉ định. Quan hệ
cạnh tranh mà người mời thầu mong muốn sử dụng để tìm kiếm người cung cấp
hàng hoá, cung ứng dịch vụ tốt nhất đã bị hủy diệt bằng thỏa thuận thông đồng của
những người tham gia dự thầu. Vì vậy, người mời thầu đã không thể đạt được ý
định của mình, cuộc cạnh tranh đã trở thành giả tạo giữa những người dự thầu khi
tổ chức đấu thầu. Bằng sự thông đồng, các bên dự thầu đã phá hỏng cơ chế cạnh
tranh trong đấu thầu nên người trúng thầu được lựa chọn nhưng không do cơ chế
cạnh tranh theo đúng ý định của người mời thầu, mà do các doanh nghiệp tham gia
thông đồng xác định.
Ở một số quốc gia, thông đồng đấu thầu và hạn chế sản lượng đôi khi được
coi là một trong số loại hành vi ấn định giá và/hoặc phân chia thị trường, vì tác
động của các hành vi này là nhằm can thiệp đến việc định giá thầu hoặc bằng cách
giảm sản lượng hoặc nhằm chuyển nhượng, phân chia những hợp đồng cụ thể hoặc
thị phần giữa các đối thủ cạnh tranh. Bất kể việc phân loại cụ thể như thế nào, thì


tất cả các loại hardcore cartel đều bao gồm hành vi mà trong đó các đối thủ cạnh
tranh ấn định một mặt của thị trường tự do.
1.2.2 Thỏa thuận theo chiều dọc
Thỏa thuận theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints) là thỏa
thuận hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác
nhau trong quá trình sản xuất, hoặc phân phối trên thị trường. Nhìn chung, các thỏa

thuận theo chiều dọc phần lớn ít gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường cạnh
tranh, tới thị trường hơn so với thỏa thuận theo chiều ngang.
Về chủ thể, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận dọc không phải là đối thủ
cạnh tranh của nhau, mà là những doanh nghiệp hoạt động ở các khâu khác nhau
trong quá trình kinh doanh, chẳng hạn như nhà sản xuất và nhà phân phối.
Về hình thức, cũng giống như thỏa thuận ngang, thỏa thuận dọc có thể công
khai hoặc ngầm định.
Về nội dung, thỏa thuận dọc thường tập trung vào các điều kiện kinh doanh
trên thị trường thứ cấp như giá bán lại, khu vực phân phối, sản lượng phân phối,
khách hàng giao dịch, điều kiện phân phối…Thỏa thuận theo chiều dọc thường đa
dạng, tùy thuộc vào đặc điểm của sản phẩm hay dịch vụ phân phối. Dựa trên các
nhóm hành vi thường gặp, thỏa thuận theo chiều dọc có ba dạng chính, bao gồm:
+ Thỏa thuận ấn định giá bán lại;
+ Thỏa thuận bán kèm sản phẩm, dịch vụ;
+ Hợp đồng độc quyền.
1.3 Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004

Điều 9 Luật cạnh tranh đưa ra hai mức độ cấm đoán đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, bao gồm:
Cấm tuyệt đối đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sau: thỏa thuận
ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh; thỏa thuận
loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;


thông đồng để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có
thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên đối với thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị
trường tiêu thụ, cung cấp nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận

hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ;
thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận áp đặt
cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ
hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng.
1.4 Các trường hợp miễn trừ cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

1.4.1 Cơ sở của việc miễn trừ trách nghiệm cho các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
Việc xử lý các thỏa thuận trong kinh doanh bị coi là hạn chế cạnh tranh luôn
đòi hỏi nhà nước cần cẩn trọng, bởi thực tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy
không phải mọi thỏa thuận đều gây hại cho thị trường. Theo đó, các quy định về
việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được xây dựng trên những cơ
sở lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh
Tự do kinh doanh luôn bao hàm trong nó quyền được khế ước và lập hội.
Các chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn có quyền chủ động trong việc liên kết để
thiết lập và thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Công
quyền và pháp luật không những không được can thiệp mà còn phải xây dựng cơ
chế bảo hộ cho những hoạt động nói trên.
Với tư cách là lực lượng bảo vệ công lý và lẽ phải, nhà nước và pháp luật sẽ
chỉ có thể can thiệp vào sự tự do khi hành vi của một nhóm người là nguy cơ đe
dọa sự tự do và lợi ích chính đáng của người khác. Vì vậy, một khi sự liên kết của


các doanh nghiệp tạo ra khả năng xâm hại lợi ích của doanh nghiệp khác, người
tiêu dùng, của thị trường và những lợi ích này cần được bảo vệ thì lúc đó pháp luật
mới cần xuất hiện để ngăn chặn và trừng phạt.
Thứ hai, sự cân xứng về các lợi ích mà pháp luật bảo vệ.
Phân tích dưới góc độ tác động của các thỏa thuận đối với cạnh tranh, các lý

thuyết kinh tế đều nhìn nhận hiện tượng bằng tính hai mặt của nó. Theo đó, ngoài
những khả năng gây hại cho cạnh tranh, còn tồn tại nhiều thỏa thuận không có khả
năng gây hại hoặc bên cạnh khả năng gây ra nhiều tác hại làm giảm cạnh tranh,
chúng còn đem lại nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của thị trường. Vì vậy
pháp luật hầu hết các nước đều đòi hỏi người thực thi phải luôn cân nhắc và tính
toán đến mọi khả năng có thể xảy ra để có thái độ trừng phạt hay cho phép thực thi
các thỏa thuận trên thực tế.
Tóm lại, với tư cách là một sự liên kết trong kinh doanh giữa các doanh
nghiệp, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được phân tích, xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau, từ đó pháp luật và công quyền có thái độ thích hợp. Bên
cạnh những quy định cấm đoán và trừng phạt đối với các thỏa thuận có khả năng
gây hại cho thị trường, pháp luật cạnh tranh của hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều ghi nhận những trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tích cực đối với thị
trường, được coi là hợp pháp. Tùy theo chính sách cạnh tranh của từng nước mà
mức độ cấm đoán hoặc thừa nhận tính hợp pháp của các thỏa thuận trong pháp luật
cạnh tranh sẽ khác nhau.
1.4.2 Các trường hợp được miễn trừ
Theo quy định của luật cạnh tranh, những thỏa thuận sau đây được xếp vào
đối tượng có thể được hưởng miễn trừ: Điều 10. Trường hợp miễn trừ đối với
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Khoản 2 Điều 9 của Luật này
được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ
giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:


a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật
của chủng loại sản phẩm;
d) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên

quan đến giá và các yếu tố của giá;
đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
e) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ nhất, chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển
Chiến lược liên doanh và phát triển giữa các doanh nghiệp được thực hiện
để: Hợp lý hóa cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
hoặc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa,dịch vụ.
Có thể minh họa chiến lược này bằng các trường hợp sau:
Một là, hai doanh nghiệp cùng cạnh tranh trên thị trường, trong đó một
doanh nghiệp có chất lượng chất lượng sản phẩm tốt nhưng mạng lưới phân phối
kém có thể phối hợp với doanh nghiệp có sản phẩm với chất lượng trung bình
nhưng mạng lưới phân phối hiệu quả. Sự kết hợp này giúp cho hiệu quả hoạt động
của hai doanh nghiệp tốt hơn và đem lại hiệu quả cho người tiêu dùng trong việc
hưởng thụ sản phẩm với chất lượng đảm bảo yêu cầu.
Hai là, các doanh nghiệp có thể hợp tác, phát triển và thực hiện các công
trình nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật có liên quan mà nếu như làm
một mình sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Trường hợp này thường xảy ra
với những nghành nghề kỹ thuật đòi hỏi công nghệ có trình độ cao như chế tạo
máy bay, khoa học viễn thông,…
Thứ hai, chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và điều
kiện kinh doanh
Các thỏa thuận nằm trong chiến lược chuẩn hóa những yêu cầu về sản phẩm
và các điều kiện kinh doanh thường bao gồm hai nội dung là: thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp nhằm thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của


chủng loại sản phẩm hoặc thỏa thuận thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao
hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá. Dưới góc
độ kinh tế, các thỏa thuận về việc đặt ra các tiêu chuẩn nói trên nhìn chung là có lợi
cho người tiêu dùng và có thể làm cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả

hơn nếu như những tiêu chuẩn đó là tiến bộ và phản ánh sự đi lên trong công nghệ
kỹ thuật, chất lượng và trình độ kinh doanh.
Thứ ba, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh được Luật cạnh tranh dự liệu bao
gồm hai loại là: các thỏa thuận nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nhỏ và vừa; tăng cường sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
Các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc diện có thể miễn trừ
phải thực hiện thủ tục xin hưởng miễn trừ theo pháp luật cạnh tranh.
2. Tập trung kinh tế
2.1

Khái niệm tập trung kinh tế

Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể nào về khái niệm
mang tính khái quát để định nghĩa về hành vi tập trung kinh tế. Theo điều 16 Luật
Cạnh Tranh 2004 chỉ nêu ra các hành vi được xem là tập trung kinh tế như sau:
a. Sát nhập DN
b. Hợp nhất DN
c. Mua lại DN
d. Liên doanh giữa các DN
e. Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Qua đó, ta có thể thấy được đặc điểm chung của các hành vi trên chính đó
là:
Thứ nhất, chủ thể của các hành vi trên được xác định là “doanh nghiệp” - có
thể cùng hoặc không cùng hoạt động trong một thị trường liên quan. Tuy nhiênhiện


nay, luật cạnh tranh mới chỉ tập trung kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế giữa
các doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên quan.

Thứ hai, thông qua các hành vi được nêu trong điều 16 ta cũng có thể nhận
thấy rằng hành vi: sát nhập, mua lại, hợp nhất, liên doanh đều được hình thành từ
việc kết hợp 2 hay nhiều doanh nghiệp khác nhau trên thị trường, thông qua các
hình vi trên đã chủ động liên kết khả năng kinh doanh của chính bản thân các
doanh nghiệp với nhau để hình thành nên khối thống nhất có tiềm lực cao hơn.
Điều này cũng chính là dấu hiệu để phân biệt giữa hành vi tập trung kinh tế và
hành vi tích tụ tư bản từ chính nội sinh của Doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh.
Thứ ba, thông qua việc thực hiện các hình thức tập trung kinh tế sẽ dẫn đến
hậu quả là hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh, thay đổi cấu
trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường  bước đầu để tạo tiến tới
hình thức độc quyền hóa trong thị trường.
Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh nghiệp,
theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế ước, tự do lập
hội... được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Tuy nhiên sự tự do nào cũng
cần có giới hạn, tránh trường hợp tự do đó ảnh hưởng đến lợi ích và quyền lợi của
chủ thể khác nói riêng và của toàn thị trường nói chung. Mục tiêu cụ thể của các
hình thức tập trung kinh tế suy cho cùng là tạo ra những doanh nghiệp lớn trên cơ
sở tập trung sức mạnh của nhiều doanh nghiệp sẵn có trên thương trường. Từ đó
làm cho số lượng của các đối thủ cạnh tranh sẽ bị giảm sút. Bên cạnh đó, sự hiện
diện của các “đại”doanh nghiệp hoặc các tập đoàn sẽ làm thay đổi cơ cấu của thị
trường và có nguy cơ xuất hiện của những doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị
trường, những doanh nghiệp độc quyền. Khi xét ở một chừng mực nào đó thì tập
trung kinh tế vẫn có thể đem lại cho thị trường một số hiệu quả nhất định như nâng
cao năng lực cạnh tranh của các DN trong nước với các DN nước ngoài vốn dĩ đã
có tiềm lực lớn, nâng cao năng suất sản xuất,v.v… Do đó, việc kiểm soát các hành


vi tập trung kinh tế đòi hỏi Nhà nước và pháp luật phải cân nhắc về tính hiệu quả
của từng vụ việc cụ thể.

2.2

Những biện pháp kiểm soát tập trung kinh tế:

Như phân tích ở trên thì các hành vị tập trung kinh tế cần dược Nhà nước và
pháp luật cân nhắc và có những biện pháp để kiểm soát. Theo quy định của Luật
Cạnh tranh thì không phải mọi trường hợp tập trung kinh tế đều bị pháp luật ngăn
cản (vì những trường hợp này không làm thay đổi đáng kể cấu trúc thị trường). Cụ
thể, việc kiểm soát tập trung kinh tế được thực hiện bởi các biện pháp tăng dần như
sau:
 Đối với các trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan
của các doanh nghiệp tham gia dưới 30% hoặc trường hợp doanh nghiệp
hình thành sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì các doanh nghiệp được tiến hành
tập trung kinh tế mà không cần phải thực hiện thủ tục thông báo bắt buộc.
 Đối với các trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan
của các doanh nghiệp tham gia từ 30% đến 50% thì các doanh nghiệp được
tiến hành tập trung kinh tế tuy nhiên đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp
đó phải thực hiện thủ tục thông báo cho Cục Quản lý Cạnh tranh trước khi
tiến hành tập trung kinh tế (theo điều 20 Luật cạnh tranh 2004). Để tiến hành
thủ tục thông báo, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế cần hoàn
thiện Hồ sơ thông báo tập trung kinh tế theo mẫu do Cục Quản lý cạnh tranh
ban hành
 Đối với các trường hợp tập trung kinh tế trong đó thị phần kết hợp trên thị
trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị
trường liên quan… thì bị cấm (Điều 18 Luật cạnh tranh 2004).
Bên cạnh đó nhằm tránh trường hợp phủ nhận những mặt tích cực của hành
vi tập trung kinh tế tại một số vụ việc cụ thể thì theo Điều 18 Luật cạnh tranh cũng



có quy định những trường hợp ngoại lệ được miễn trừ đối với các hành vi tập trung
kinh tế thỏa một số điều kiện được quy định trong luật.
2.3

Những trường hợp miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế:

Cũng theo điều 18 Luật cạnh tranh 2004 có nêu trường hợp để được miễn
trừ đối với các hành vi tập trung kinh tế đó là: “nếu sau khi thực hiện tập trung
kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật”. Điều
đó có nghĩa trong trường hợp 2 hay nhiều doanh nghiệp sau thực hiện các hành vi
tập trung kinh tế thì vẫn thuộc nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa  quy mô hoạt
động vẫn còn nhỏ, thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp
tham gia không lớn nên khả năng chi phối hay làm thay đổi cấu trúc thị trường là
hầu như không có. Do đó Nhà nước không cần kiểm soát hoạt động tập trung kinh
tế của các doanh nghiệp này.
Bên cạnh đó tại điều 19 Luật cạnh tranh cũng có quy định các trường hợp
được miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế, cụ thể như sau: “Tập trung kinh tế
bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn trừ trong các
trường hợp sau đây:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải
thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát
triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”
Tuy nhiên cần phải hiểu rằng các trường hợp được quy định trong điều 19
nêu trên là sẽ đương nhiên được áp dụng đối với các giao dịch mua bán, sát nhập
doanh nghiệp bị cấm khi các giao dịch này thõa mãn các điều kiện được quy định
tại Điều 19, mà đây chỉ là các tiêu chí được nhà làm luật đưa ra để các cơ quan
chức năng đánh giá, xem xét khi có đơn xin hưởng miễn trừ của các doanh nghiệp.
Và thực tế để áp dụng các tiêu chí này không phải là chuyện đơn giản, vì các tiêu
chí này chỉ được nêu chung chung chứ chưa có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể

để doanh nghiệp cũng như cơ quan chức năng áp dụng trong thực tiễn. Cụ thể như:


2.3.1 Đối với: “Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang
trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản”:
Điều kiện để xem xét cho phép doanh nghiệp được hưởng miễn trừ trong
trường hợp này đó là một hoặc nhiều bên tham gia vào giao dịch mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp phải đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá
sản. Ví dụ như trường hợp chuyển giao thị trường viễn thông của QVN Telecom
cho Viettel thời gian qua, câu hỏi đặt ra việc sáp nhập này có vi phạm luật cạnh
tranh? Về vấn đề này, Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) có
công văn số 58/CV-HTC gửi đến Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương), Hội
đồng cạnh tranh, Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng, kiến nghị sẽ là vi
phạm pháp luật cạnh tranh trong việc chuyển giao toàn bộ mọi nguồn lực của EVN
Telecom cho Viettel. Mà theo đó, Hanoi Telecom nêu ra ba lý do:
Thứ nhất, nếu mọi nguồn lực của EVN Telecom được chuyển giao toàn bộ
cho Viettel thì chỉ riêng đơn vị này sở hữu tới trên 50% tổng quỹ tần số 3G của
quốc gia, tạo điều kiện cho Viettel trở thành doanh nghiệp có vị trí độc quyền.
Thứ hai, do Viettel hiện chiếm gần 37% thị phần thông tin di động tại Việt
Nam, nên nếu Viettel lấy được băng tần 3G của EVN Telecom đang chia sẻ với
Hanoi Telecom thì sẽ ngăn cản việc tham gia thị trường của Hanoi Telecom, do chỉ
với một phần nhỏ băng tần 3G còn lại Hanoi Telecom sẽ không thể cung cấp dịch
vụ 3G ra thị trường với giá cả cạnh tranh nhất do chi phí triển khai quá lớn.
Thứ ba, trong kế hoạch tiếp nhận EVN Telecom, Viettel sẽ được sử dụng
miễn phí tất cả các cột tháp ăngten và hàng chục triệu cột điện, trong khi các nhà
mạng khác phải thuê cột điện để treo cáp với giá tăng gấp trên bảy lần so với giá
khởi điểm. Điều này cũng vi phạm các quy định của luật cạnh tranh. Ngoài ra, theo
báo cáo mới nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông, Viettel hiện chiếm gần 37%
thị phần thông tin di động tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo Điều 11, Mục 2, luật cạnh
tranh với trên 30% thị phần, Viettel được coi là “doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh

thị trường” viễn thông Việt Nam (1)
1

() />

Tuy nhiên, tốc độ phát triển của EVN về hoạt động viễn thông không được
như kỳ vọng trong suốt quá trình triển khai, đồng thời EVN cũng được Chính Phủ
yêu cầu tập trung vào lĩnh vực chính là điện lực, nên EVN telecom có nguy cơ sáp
nhập doanh nghiệp là khá rõ ràng. Không phải mọi trường hợp giao dịch sáp nhập
doanh nghiệp đều có hại cho cạnh tranh trên thị trường mà trong một số trường
hợp những giao dịch này cũng mang lại những lợi ích nhất định.Đó có thể là kết
quả của giao dịch sáp nhập doanh nghiệp góp phần giúp cho một bên của giao dịch
thoát khỏi nguy cơ bị phá sản, hoặc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong nước với quá trình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng hơn. Tuy vậy
cần phải thấy là việc cân nhắc giữa tác hại và lợi ích mà giao dịch sáp nhập doanh
nghiệp mang lại phải đặt trong tương quan với chính sách cạnh tranh và điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định.Trên tinh thần đó, pháp
luật cạnh tranh qui định giao dịch sáp nhập doanh nghiệp mặc dù rơi vào trường
hợp bị cấm nhưng nếu thỏa mãn những điều kiện do luật cạnh tranh qui định thì có
thể được xem xét để được miễn trừ.Vậy vấn đề là thế nào để xác định đượcdoanh
nghiệp đang có nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản? Pháp luật cạnh
tranh hiện nay hầu như chưa có qui định cụ thểnào giải thích cho hai khái niệm
trên.
Theo điều 201 luật DN 2014 thì doanh nghiệp được xem xét giải thể theo
yêu cầu tự nguyện hoặc do bắt buộc bởi pháp luật, tuy nhiên nhìn chung để có thể
giải thể thì doanh nghiệp phải bảo đảm đã thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác. Còn theo khoản 1 và 2 điều 4 luật phá sản 2014 thì doanh nghiệp, hợp
tác xã bị xem là phá sản khi: “doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán” và “bị
Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Tuy nhiên nhìn chung 2 quy

định trên vẫn chưa thể hiện rõ được như thế nào thì bị coi là “trong nguy cơ bị giải
thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản”. Trong trường hợp này, về mặt lí luận rất khó
lí giải cho nguyên do được hưởng miễn trừ của doanh nghiệp khi doanh nghiệp
thực hiện các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nhưng lại rơi vào các


×