Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Đặc điểm câu văn trong truyện Nguyễn Ngọc Tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.39 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
BỘ MÔN: NGÔN NGỮ HỌC

ĐẶC ĐIỂM CÂU VĂN
TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ

SVTH: Nguyễn Thị Lâm – Lớp 4A
GVHD: TS. Trần Hoàng

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2010


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH..................................................1
KHOA NGỮ VĂN..........................................................................................................1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP............................................................................................1
BỘ MÔN: NGÔN NGỮ HỌC........................................................................................1
ĐẶC ĐIỂM CÂU VĂN...................................................................................................1
TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ............................................................1
SVTH: Nguyễn Thị Lâm – Lớp 4A.................................................................................1
GVHD: TS. Trần Hoàng..................................................................................................1
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2010.................................................1
MỤC LỤC........................................................................................................................2
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................3


CHƯƠNG MỘT............................................................................................................12
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ HỮU QUAN........................................12
I. Vấn đề khái niệm câu..................................................................................................12
II. Vấn đề phân loại câu tiếng Việt.................................................................................14
CHƯƠNG HAI..............................................................................................................26
ĐẶC ĐIỂM CÂU VĂN TRONG TRUYỆN................................................................26
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ..........................................................................................26
I. Đặc điểm về cấu tạo ngữ pháp....................................................................................26
II. Đặc điểm về tu từ cú pháp.........................................................................................44
Tiểu kết...........................................................................................................................66
KẾT LUẬN....................................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................71

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

2


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ Nam Bộ nhưng đã rất quen thuộc với bạn
đọc. Ra mắt độc giả với tập truyện đầu tay “Ngọn đèn không tắt” (2000), với một
giọng văn dân dã mộc mạc, thấm thía tình người, niềm đau và nỗi buồn, với ngôn ngữ
rất riêng, rất trong trẻo, độc đáo và đa âm sắc, Nguyễn Ngọc Tư sớm được độc giả đón
nhận và yêu mến. Tiếp sau đó, những tập truyện ngắn khác của chị lần lượt ra đời như
Giao thừa, Cánh đồng bất tận, Biển người mênh mông, Nước chảy mây trôi, Gió lẻ...

Nguyễn Ngọc Tư dần dần khẳng định được tài năng cũng như định hình được phong
cách của mình. Chị liên tục gặt hái được nhiều thành công với nhiều giải thưởng văn
học trong và ngoài nước.
Vậy, điều gì đã làm nên những thành công của chị? Có phải bởi một giọng văn
mượt mà, đằm thắm mà chan chứa tình đời, tình người, vừa nhẹ nhàng, mộc mạc vừa
trầm lắng, day dứt đầy suy tư? Có phải bởi chất Nam Bộ đặc quánh trong từng trang
viết? Có phải bởi một tấm lòng luôn hướng đến con người, hướng đến những nỗi niềm
sâu lắng bên trong của mỗi tâm hồn mỏng mảnh?
Nguyễn Ngọc Tư là tất cả những điều ấy. Nhưng, làm nên thành công, làm nên
phong cách riêng khó lẫn của Nguyễn Ngọc Tư, ngoài những yếu tố đó ra, còn do bởi
hình thức diễn đạt, bởi những câu văn mượt mà, mộc mạc tự nhiên như lời nói, như
suy nghĩ chân tình của người Nam Bộ. Có thể nói, Nguyễn Ngọc Tư đã có nhiều đóng
góp trong việc vận dụng và kiến tạo câu văn. Tìm hiểu về đặc điểm câu văn trong
truyện Nguyễn Ngọc Tư, luận văn đưa ra những nhận định bước đầu giúp người đọc
có cái nhìn rõ nét hơn khi đánh giá Nguyễn Ngọc Tư, đánh giá những đóng góp của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc sử dụng ngôn ngữ nói riêng và đánh giá tài năng, phong
cách văn chương của Nguyễn Ngọc Tư nói chung.
2. Nam Bộ là một vùng đất giàu tình người, phong phú về văn hóa. Văn chương
Nam Bộ cũng là một nét đặc sắc đáng tự hào không chỉ của con người Nam Bộ mà còn
của cả con người Việt Nam. Nó đã góp thêm tiếng nói mới, âm sắc mới trong văn
chương của đất nước. Từ những trang tiểu thuyết mở đường của Hồ Biểu Chánh, từ sự
xuất hiện của nhiều cây cây bút tài năng như Đoàn Giỏi, Anh Đức, Nguyễn Thi, Sơn
Nam, Trang Thế Hy... đến Nguyễn Ngọc Tư, văn chương Nam Bộ đã đạt được nhiều
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

3


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư


GVHD: TS. Trần Hoàng

thành công rực rỡ. Cùng góp tiếng nói chung cho văn chương Nam Bộ, nhưng mỗi nhà
văn lại có lối đi riêng, có một phong cách riêng. Chúng tôi muốn tìm hiểu về đặc điểm
câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư để thông qua đó khẳng định đặc điểm riêng
trong phong cách của chị, thấy rõ nét khác biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ, trong
việc sử dụng và kiến tạo câu văn của chị so với các nhà văn khác.
3. Nói về Nguyễn Ngọc Tư, người ta có thể nói rất nhiều về giọng văn, về nhân
vật, về tình cảm con người, về chất Nam Bộ chất phác, mượt mà và sâu lắng... Tóm tại
là những vấn đề liên quan tới nội dung tác phẩm. Tuy nhiên, những vấn đề về đặc
điểm ngôn ngữ, đặc điểm câu văn (trên cả ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ
dụng) thì chưa có ai dụng công nghiên cứu. Cho đến thời điểm này, chưa có một công
trình nào quan tâm tìm hiểu vấn đề này thật kĩ lưỡng.
Từ những lí do trên, người viết đã chọn đề tài nghiên cứu “Đặc điểm câu văn
trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Người viết hi
vọng công trình sẽ đóng góp thêm một tiếng nói nhỏ trong việc khẳng định tài năng,
phong cách và những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư trong việc sử dụng và kiến tạo
câu văn làm phong phú thêm cho văn học Nam Bộ. Do hạn chế của phạm vi nghiên
cứu, người viết chỉ mong khóa luận sẽ góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu ngôn
ngữ và văn chương Nguyễn Ngọc Tư, góp thêm tiếng nói trong tình hình nghiên cứu
về Nguyễn Ngọc Tư hiện nay.

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung của luận văn, chúng tôi sẽ dành ra một chương để nêu lên cơ sở
lí thuyết và một số vấn đề hữu quan về câu và phân loại câu. Trong chương này, chúng
tôi sẽ trình bày lựa chọn của mình trong việc nhận diện câu và phân loại câu. Đây là cơ
sở để chúng tôi tiến hành khảo sát, phân loại và nghiên cứu về đặc điểm câu văn trong
truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Trong chương tiếp theo, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát,
phân loại và từ đó khát quát lên đặc điểm câu văn trong truyện của chị.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát 30 truyện (truyện ngắn và

truyện vừa) đã được xuất bản của Nguyễn Ngọc Tư thuộc ba thời điểm trong quá trình
sáng tác (tập truyện đầu tay, tập truyện gây được tiếng vang lớn và tập truyện mới
nhất), gồm các tập truyện:
− Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ, 2000
− Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

4


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

− Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008
Mỗi nhà văn, nhà thơ trong quá trình sáng tác, không ít thì nhiều, đều có sự thay
đổi, sự trưởng thành trong từng trang viết của mình. Tìm tòi, sáng tạo là yêu cầu và
trách nhiệm của nhà văn. Nhà văn không thể giữ mãi một nội dung, một cách viết, một
cách thể hiện trong tất cả các tác phẩm của mình, nếu không muốn người đọc nhàm
chán. Đặc biệt, về hình thức tác phẩm, hình thức câu văn, nhà văn phải có cách thể
hiện mới mẻ, hấp dẫn và phù hợp với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Do đó,
chúng tôi chọn khảo sát những truyện của Nguyễn Ngọc Tư trải đều trong quá trình
sáng tác của chị. Việc lựa chọn này giúp chúng ta thấy được những ổn định và những
thay đổi trong hình thức câu văn của Nguyễn Ngọc Tư, đảm bảo được tính khách quan
trong đánh giá.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ có khối lượng tác phẩm xuất bản khá lớn chỉ
trong một thời gian ngắn. Đồng thời chị cũng được trao tặng nhiều giải thưởng văn
học có uy tín cũng như nhận được nhiều sự yêu mến và kì vọng lớn lao từ độc giả. Có

thể nói, Nguyễn Ngọc Tư đã và đang đạt được những thành công nhất định trên con
đường định hình một phong cách Nam Bộ đặc sắc trong sáng tác của mình.
Là một cây viết trẻ, nhưng tên tuổi Nguyễn Ngọc Tư sớm được nhiều người biết
đến, không chỉ độc giả thông thường mà còn cả giới nghiên cứu. Những bài viết tìm
hiểu về truyện ngắn, tạp văn cũng như phong cách văn chương Nguyễn Ngọc Tư xuất
hiện khá nhiều, thường xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Tuy
nhiên, theo tìm hiểu bước đầu, những bài viết này chủ yếu nghiên cứu, tìm hiểu về
truyện ngắn, tạp văn của chị về mặt nội dung, giọng điệu văn chương chứ chưa đi sâu
tìm hiểu về ngôn ngữ, về đặc điểm câu văn trong truyện của chị. Có chăng, những nhà
nghiên cứu chỉ đưa ra một vài nhận xét sơ bộ ban đầu về câu chữ trong văn Nguyễn
Ngọc Tư mà thôi.
Trong phần này, chúng tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu về sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư, được in trong các báo và đăng trên các trang web.
1. Trước hết, tiêu biểu nhất và sớm nhất có thể kể đến bài viết “Nguyễn Ngọc
Tư, đặc sản miền Nam” của Trần Hữu Dũng, đăng trên trang o. Trong bài viết này, Trần Hữu Dũng đã tìm hiểu và khái quát về đặc điểm
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, để từ đó khẳng định về phong cách mới lạ, độc đáo làm
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

5


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

nên chất “đặc sản” của chị. Trần Hữu Dũng đã xem xét truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
một cách tường tận và thấu đáo trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Ông
đặc biệt đề cao tài năng sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Tư. Ông nhận
thấy truyện Nguyễn Ngọc Tư sử dụng phương ngữ một cách đậm đặc. Ông cũng là
người đầu tiên nhận xét về cấu trúc câu văn của Nguyễn Ngọc Tư: “Cách ngắt câu

của cô là cách ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh
tượng rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu”. Ông nhận thấy cấu trúc
câu văn của Nguyễn Ngọc Tư “mới và độc đáo. Lối bắt đầu với chữ Mà, rồi một dấu
phẩy. Hoặc lối chen vào giữa câu một chi tiết trong ngoặc đơn: “Hai đứa tôi ngồi đâu
đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì” (Nhà cổ).
Hoặc lối dứt câu bằng một thán từ có âm bổng: “Sao tự nhiên em qua đây lãng xẹt
vậy không biết?” (Lý con sáo sang sông)”. Ông đánh giá đó là một cái riêng đặc sắc
không thể trộn lẫn với bất kì nhà văn nào khác, như là một “đặc sản miền Nam”.
Trong bài viết này, bằng tất cả sự yêu mến chân thành, Trần Hữu Dũng cũng không
quên cảnh báo những nguy cơ có thể khiến tác giả trẻ này đi vào lối mòn trong sáng
tác bên cạnh sự nhìn nhận và tán thưởng tài năng của chị.
2. Trên báo Văn nghệ, số 39, ra ngày 24/9/2005, tác giả Hoàng Thiên Nga có bài
viết “Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận”. Tác giả đã điểm qua những nét
đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm truyện Cánh đồng bất tận. Theo tác
giả, với Cánh đồng bất tận, “vẫn bút pháp giản dị gọn ghẽ đầy ắp âm sắc Nam Bộ,
cách chọn lọc ngôn ngữ cử chỉ sống động như đẽo như tạc, trên bối cảnh tiêu sơ
ruộng đồng sông nước Cửu Long vẫn là những mảnh đời nghèo khó xiêu dạt bơ phờ vì
áo cơm. Nhưng không cũ mòn, không nhàm chán, mạch văn liên kết chặt chẽ bởi vô
số chi tiết hình ảnh thú vị, cốt truyện hình thành theo dòng suy tưởng của nhân vật
xưng tôi, nhẫn nhịn lặng lẽ mà xuyên mỗi lúc một sâu phơi mở tận đáy tâm hồn, tính
cách, số phận con người.” Bên cạnh đó, Hoàng Thiên Nga cũng có một vài nhận xét
về đặc điểm câu văn “Truyện dài mà dung lượng vẫn dồn nén vì câu văn ngắn gọn,
chuyển cảnh dứt khoát lạnh lùng, bỏ lại phía sau lớp lớp ngữ nghĩa ẩn chứa đầy mùi
vị cay đắng.”
3. Huỳnh Công Tín với bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn trẻ Nam Bộ” trên
trang web cũng dành cho Nguyễn Ngọc Tư những lời khen
tặng xứng đáng với tài năng của chị. Ông đánh giá cao khả năng xây dựng những
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

6



Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

không gian Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư và thừa nhận: “Đặc biệt,
vùng đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất
liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị”. Huỳnh Công Tín
cũng đánh giá cao khả năng miêu tả tâm lí người và vật hết sức sắc sảo của Nguyễn
Ngọc Tư. Công bằng với điều kiện và hoàn cảnh sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, ông
cũng yêu cầu chúng ta cần có cái nhìn thông cảm hơn khi những vấn đề chị quan tâm
còn nhỏ nhặt và chưa có tầm bao quát. Ông cũng khẳng định cái đáng quý cần phát
huy ở chị chính là chất Nam Bộ trong sáng tác.
4. Trên mục “Phê bình” của trang web ngày 14/6/2006
có đăng bài viết của Trần Phỏng Diều với tựa đề “Thị hiếu thẩm mĩ trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư”. Với cách hiểu “đi tìm thị hiếu thẩm mĩ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư thực chất là đi tìm những hình tượng văn học trong sáng tác của tác
giả. Các hình tượng văn học này cứ trở đi trở lại và trở thành một ám ảnh khôn nguôi,
buộc người viết phải thể hiện ra tác phẩm của mình”, Trần Phỏng Diều đã chỉ ra thị
hiếu thẩm mĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện qua ba hình tượng: hình
tượng người nghệ sĩ, hình tượng người nông dân và hình tượng dòng sông. Sau khi
phân tích vẻ đẹp của từng hình tượng, tác giả cũng đánh giá rất cao văn phong mộc
mạc, cách viết như nói của Nguyễn Ngọc Tư. Theo tác giả, nếu chị đánh mất đi vùng
thẩm mĩ này thì đồng thời cũng làm mất đi rất nhiều giá trị thẩm mĩ trong tác phẩm
của mình.
5. Trên Kỉ yếu sinh viên khoa học toàn quốc, Huế 2008, tác giả Nguyễn Thị
Hoa có bài viết “Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện Cánh
đồng bất tận”. Trong bài viết này, bên cạnh việc phân tích, đưa ra những nhận định về
sự phong phú và đa sắc thái của giọng văn Nguyễn Ngọc Tư trong tập truyện, tác giả

còn chỉ ra một số đặc điểm về câu văn trong truyện Nguyễn Ngọc Tư. Theo tác giả,
“giọng văn của chị vừa trữ tình nhẹ nhàng, vừa đầy tâm trạng suy tư được gợi ra

bằng hàng loạt câu văn buông lơi, mềm mại “Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông
thênh thang mãi…”. Câu văn mang chất thơ, như khúc nhạc lòng buông ra mênh
mang, mênh mang! Trong truyện ngắn của chị, chúng ta bắt gặp hàng loạt câu văn
bỏ lửng, hàng loạt dấu “…” giữa những trang văn như tâm trạng ngổn ngang thổn
thức của nhà văn trước cảnh đời và tình người “Với ký ức trống trơn, họ phơi phới
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

7


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…”. Hàng loạt câu hỏi buông ra như tiếng
kêu thống thiết trước cuộc đời đa đoan “Có ai chờ chúng tôi trên những cánh đồng
khơi?”; “Đêm nay tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư? Và tôi ngủ trong
nỗi xốn xang”; hay là sự vỡ nhẽ trước cuộc sống “Mà, đã ngấm, đã xé toang lòng
với nỗi đau chia cắt rồi chưa sợ sao?”. Nét nổi bật ở chất giọng này là những câu
văn kết thúc tác phẩm, song lại mở ra một chân trời cảm xúc, suy tư nơi độc giả
“Nhưng nói để làm gì, ta?”; hay “ Họ suy nghĩ…”; “Biển người thì mênh mông
vậy…”; “Ai mà biết. Mùa này gió bấc hiu hiu lại về…”; “Rồi họ, và cả má tôi đều
bảo tôi khóc đi…”. Những câu văn ngắn, buông lơi như tiếng thở nhẹ khơi gợi
dòng suy nghĩ bâng quơ cho người đọc.” Những nhận xét của tác giả, tuy chỉ mới
là những nhận định thiên về trực quan và cảm tính ban đầu, nhưng cũng là những
nhận xét đáng lưu ý khi tìm hiểu về đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn
Ngọc Tư.

6. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thu thập được khá nhiều bài viết tìm hiểu một số
khía cạnh ngoài cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư như các bài viết “Không gian sông
nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của Thụy Khuê; bài “Thời gian
huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư” của Mai
Hồng (cùng được đăng trên o); bài viết “Lời đề từ trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của tác giả Phạm Phú Phong (tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 6/2008)... Các tác giả đã góp thêm nhiều tiếng nói mới trong việc tìm hiểu,
đánh giá văn chương Nguyễn Ngọc Tư.
7. Gần đây nhất, có quy mô và mang tính chất sâu rộng hơn cả là công trình
“Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” (Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học
Việt Nam, trường ĐHSP Tp. HCM) của tác giả Nguyễn Thành Ngọc Bảo. Trong công
trình nghiên cứu của mình, tác giả đã đi sâu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
trên nhiều khía cạnh, trong đó có một phần nhỏ nghiên cứu về cách diễn đạt kiểu Nam
Bộ trong lối kể chuyện và đặc điểm câu văn trong truyện Nguyễn Ngọc Tư. Theo tác
giả, “Câu văn của Nguyễn Ngọc Tư cũng ngắn gọn và mộc mạc như lời ăn tiếng nói
hàng ngày của con người Nam Bộ. Nó thường có kết cấu một chủ vị đơn giản và chị
hay có kiểu mở ngoặc giữa chừng trong một câu để giải thích thêm cho độc giả những
điều cần thiết và thú vị”. Tác giả cũng nhận thấy rằng, truyện của Nguyễn Ngọc Tư
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

8


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

thường xen rất nhiều câu hỏi giữa những lời kể chuyện để tạo cớ cho một sự lí giải
không cần thiết về mặt sự kiện nhưng chuyển tải sự hài hước độc đáo của người kể
chuyện. Bên cạnh đó, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng có rất nhiều câu văn bắt

đầu bằng liên kết từ (và, rồi, thế là, bỗng dưng...) bởi đa số truyện đều được trần thuật
theo thời gian tuyến tình của sự kiện hoặc chiều dài diễn biến tâm trạng của nhân vật.
Từ những nhận xét đó, tác giả đi đến kết luận: “Nhìn chung, Nguyễn Ngọc Tư không
có nhiều sáng tạo đặc sắc trong việc kiến tạo câu văn (về ý kiến này chúng tôi sẽ xem
xét và trình bày quan điểm của mình trong nội dung nghiên cứu sau). Có thể nói câu
văn của chị gọn ghẽ và xinh xắn, nhiều câu tươi rói hơi thở của lời ăn tiếng nói hằng
ngày. Đôi chỗ, bằng cách ngắt bởi những dấu ngoặc đơn, chị đã mang đến được nhiều
sự thích thú, bất ngờ cho người đọc. Viết như nói, tưởng dễ mà khó, cũng như việc tạo
ra những câu văn ngắn gọn, dứt khoát nhưng vẫn chuyển tải được hết những gì mình
muốn nói cũng là dấu hiệu chứng tỏ bản lĩnh của cây bút trẻ này”. Với những nhận
xét trên, có thể nói, cho tới nay, đây là công trình đã nghiên cứu, tìm hiểu khá cụ thể
về đặc điểm câu văn trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.
Trên đây, chúng tôi đã điểm qua một số bài viết về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và
sáng tác của chị, bên cạnh đó cũng còn rất nhiều bài viết khác nữa. Chúng tôi nhận
thấy rằng, tình hình nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay
còn ít ỏi và chưa có hệ thống. Đa phần các bài viết đều được đăng tải trên các báo,
website, blog... chứ chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào được in thành
sách. Hơn nữa, đa phần các bài viết đều trên tinh thần giới thiệu một tập truyện của chị
vừa xuất bản (tập Cánh đồng bất tận), hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào đó.
Bên cạnh đó, có rất nhiều bài phỏng vấn, bài viết kể lại kỉ niệm hay những lần gặp gỡ
chị ở Cà Mau. Chúng tôi nhận thấy, về phương diện nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, có rất ít những bài phê bình trên bình diện khái quát mà chủ yếu các tác giả
chỉ tập trung vào truyện “Cánh đồng bất tận”, và những bài viết ấy đa phần đều là
khen chê một cách cảm tính. Những bài viết của các tác giả đi trước đa phần là những
bài viết với tư cách tranh luận trên diễn dàn nhiều hơn là công trình nghiên cứu khoa
học thật sự.
Có thể thấy, đa phần các tác giả đi trước chỉ chú trọng tìm hiểu về nội dung, nghệ
thuật trong truyện Nguyễn Ngọc Tư. Còn về phương diện đặc điểm ngữ pháp, ngữ
SVTH: Nguyễn Thị Lâm


9


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

nghĩa, ngữ dụng trong lối hành văn của Nguyễn Ngọc Tư thì cho đến nay, chưa có một
công trình, một bài viết nào nói đến. Có chăng, chỉ là trong những bài viết của mình,
các tác giả chỉ nhắc đến rất ít, rất sơ lược về đặc điểm ngôn ngữ, giọng điệu, về cách
dùng từ địa phương, điểm qua đôi nét sơ lược về đặc điểm câu văn... của Nguyễn
Ngọc Tư mà thôi.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp thống kê
Chúng tôi đã khảo sát, thống kê và phân loại các kiểu câu trong truyện của
Nguyễn Ngọc Tư theo cấu trúc cú pháp và theo các biện pháp tu từ cú pháp. Dựa trên
kết quả thống kê, phân loại đó, chúng tôi tiến hành phân tích và khái quát lên những
đặc điểm về câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư.
4.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Vận dụng phương pháp này, đầu tiên chúng tôi đi tiến hành phân tích từng kiểu
câu, từng biện pháp tu từ cú pháp để nêu bật đặc điểm cấu trúc câu, thấy được sự vận
dụng sáng tạo của Nguyễn Ngọc Tư trong việc viết câu, sử dụng các biện pháp tu từ cú
pháp... Phương pháp phân tích cũng giúp chúng tôi nhận ra giá trị của các kiểu câu,
của các biện pháp tu từ của Nguyễn Ngọc Tư trong truyện của mình. Từ kết quả phân
tích, chúng tôi tiến hành tổng hợp, rút ra những kết luận chung nhất, khái quát nhất về
đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư.
4.3. Phương pháp so sánh
Để thấy rõ phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng như sự đóng

góp của Nguyễn Ngọc Tư về mặt vận dụng và kiến tạo câu văn, vận dụng các biện
pháp tu từ nghệ thuật, trong quá trình nghiên cứu, người viết có tiến hành so sánh đối
chiếu Nguyễn Ngọc Tư với một số cây bút khác như Sơn Nam, Nam Cao, Nguyễn
Tuân, Trang Thế Hy... ở từng nội dung có liên quan để thấy được nét tương đồng và dị
biệt, từ đó thấy rõ hơn đặc điểm câu văn trong truyện của chị.

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

10


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội
dung được chia làm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và một số vấn đề hữu quan
Trong chương này, chúng tôi sẽ đi giải quyết hai vấn đề, đó là câu và phân loại
câu tiếng Việt. Để giải quyết vấn đề, chúng tôi sẽ điểm qua một số khuynh hướng định
nghĩa và phân loại câu tiếng Việt, từ đó đưa ra quan điểm riêng của mình. Đây là cơ sở
để chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê và phân loại câu phục vụ cho việc nghiên
cứu.
Chương 2: Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư
Trong chương này, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại các kiểu câu trong
truyện Nguyễn Ngọc Tư theo cấu trúc cú pháp và theo các biện pháp tu từ cú pháp; sau
đó, dựa trên kết quả thống kê phân loại, chúng tôi sẽ phân tích và rút ra đặc điểm khái
quát về câu văn trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.


SVTH: Nguyễn Thị Lâm

11


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

CHƯƠNG MỘT
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ HỮU QUAN
I. Vấn đề khái niệm câu
1. Khái niệm câu
Từ trước đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về câu. Theo Hoàng Trọng
Phiến (Ngữ pháp tiếng Việt. Câu – NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1980)
thì “trong các văn kiện ngôn ngữ học có khoảng 300 định nghĩa câu cho mọi ngôn
ngữ. Về câu tiếng việt cũng có khoảng 30 định nghĩa”. Do đó, việc thống nhất khi định
nghĩa về câu không phải là chuyện dễ.
Trong phần này, chúng tôi không đi sâu tìm hiểu về các quan niệm, các khuynh
hướng định nghĩa về câu mà chỉ trình bày quan niệm của mình làm cơ sở cho việc
nhân diện câu trong phần sau.
Qua tìm hiểu, chúng tôi đồng ý với ý kiến của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ Vũ Đức Nghiệu – Hoàng Trọng Phiến (Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt – NXB Giáo
dục, 1997) khi định nghĩa câu.
“Câu là đơn vị của ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự
lập và có ngữ điệu kết thúc, mang một tư tưởng tương đối trọn vẹn có kèm thái độ của
người nói hoặc chỉ biểu thị thái độ của người nói, giúp hình thành về biểu hiện, truyền
đạt tư tưởng, tình cảm với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất.”
Định nghĩa này đã phản ánh được những đặc điểm cơ bản của câu, nó giải quyết
được những vấn đề khúc mắc đặt ra khi định nghĩa về câu:
 Định nghĩa khẳng định câu là đơn vị của ngôn ngữ chứ không phải của lời nói

(để phân biệt với phát ngôn là sản phẩm của lời nói hằng ngày).
 Về mặt hình thức: Câu là đơn vị của ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong
và bên ngoài) tự lập và có ngữ điệu kết thúc.
 Về mặt nội dung: câu mang một tư tưởng tương đối trọn vẹn có kèm thái độ
của người nói hoặc chỉ biểu thị thái độ của người nói.
 Về mặt chức năng: giúp hình thành về biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm
với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

12


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

Hơn nữa, định nghĩa của nhóm tác giả trên dễ hiểu và thông dụng hơn cả, được
sử dụng để học tập trong nhà trường. So với các định nghĩa khác, chúng tôi nhận thấy
định nghĩa của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu – Hoàng Trọng Phiến là
thuyết phục hơn cả.

2. Nhận diện câu
Trong luận văn này, chúng tôi nhận diện câu dựa trên những đặc điểm cơ bản
của câu như sau:
2.1. Tính độc lập về mặt ngữ pháp
Câu là một chỉnh thể ngữ pháp độc lập, thống nhất, có khả năng hoạt động độc
lập để diễn đạt một ý trọn vẹn mà không cần sự hỗ trợ nào khác. Đặc điểm này giúp ta
khu biệt câu về mặt hình thức, nhờ đó ta phân biệt được nòng cốt câu với các cấu tạo
C-V không giữ vai trò nòng cốt câu như cụm C-V làm chủ ngữ, làm vị ngữ, làm các
thành phần phụ khác (trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ…).

Ví dụ:
Vào giữa mùa khô, chúng tôi thực hiện chuyến du khảo đồng bằng châu thổ. Hai
tuần cuối cùng của cuộc điền dã, chúng tôi ở lại Thổ Sầu. Những khúc hát của các bà
má ở xứ này đã giữ chân chúng tôi lại quá lâu. (Nguyễn Ngọc Tư – Của ngày đã
mất)
Đoạn văn trên có ba câu, được ngăn cách nhau bởi dấu chấm câu (.), mỗi câu
diễn đạt một ý hoàn chỉnh.
2.2. Ngữ điệu
Câu bao giờ cũng có ngữ điệu kèm theo. Ngữ điệu đó có thể mang ý nghĩa hỏi,
thể hiện cảm xúc, ra một mệnh lệnh… Ngữ điệu bình thường nhất là chỗ ngắt ranh
giới hai câu.
Ví dụ:
Đến giờ này mà nó chưa về à?
Đây có thể là câu của một người nói với một (hay nhiều người) về một ai đó đi
đâu chưa về. Người nói có thể lên giọng ở những chỗ cần nhấn mạnh để thể hiện cảm
xúc và mục đích hỏi.
2.3. Tính thông báo
Câu bao giờ cũng mang một nội dung thông báo. Tất cả các đơn vị và các kết
cấu ngữ pháp chưa mang nội dung thông báo thì chưa phải là câu. Những câu có cấu
tạo ngữ pháp đúng nhưng tối nghĩa, vô nghĩa cũng không phải là câu.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

13


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

Tính thông báo của câu quyết định tư cách câu của các đơn vị và các kết cấu

ngữ pháp. Nhờ tính thông báo mà các đơn vị và các kết cấu ngữ pháp mới có tính độc
lập, do tính thông báo mà câu phải mang một ngữ điệu nhất định. Đặc điểm này khiến
câu có thể thực hiện chức năng giao tiếp, tư duy. Nó giúp ta phân biệt được những nội
dung định danh như từ, cụm từ với các kiểu câu được cấu tạo bằng một từ, một cụm
từ. Tính thông báo của câu liên quan mật thiết với tính tình thái, tính tình thái là dấu
hiệu quan trọng để nhận diện câu.
Ví dụ:
Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế.
(Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân Việt Nam)
→ Thông báo về một sự kiện, một đặc điểm của phong trào thơ Mới ở Việt Nam.
2.4. Tính tình thái
Câu bao giờ cũng phải thể hiện một tình thái nhất định. Đó là thái độ chủ quan
của người nói đối với hiện thực khách quan được phản ánh trong câu và với đối tượng
tham dự giao tiếp. Tính tình thái trong câu tiếng Việt được biểu hiện chủ yếu bằng các
phụ từ tình thái, các trợ từ.
Ví dụ:
− Thế mà vẫn có nhiều người thương lắm đấy!
− Chị đã về đấy ư?
Trên đây là những đặc điểm của câu giúp nhận diện câu trong văn bản. Trong
câu, các đặc điểm này gắn bó và cùng tồn tại thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh
thể độc lập.

II. Vấn đề phân loại câu tiếng Việt
1. Giới thiệu chung
Cũng như vấn đề định nghĩa câu, việc phân loại câu cũng là một vấn đề hết sức
phức tạp. Có nhiều định nghĩa về câu nên cũng có nhiều cách phân loại câu tùy thuộc
vào khái niệm về câu mà ngôn ngữ dựa vào.
Nhìn chung, có hai cách phân loại sau:
− Phân loại câu theo mục đích phát ngôn: là cách phân loại câu dựa vào mục đích
nói và hành động ngôn ngữ.

− Phân loại theo cấu trúc cú pháp: cách phân loại này phụ thuộc rất nhiều vào
quan niệm lí thuyết về cấu trúc câu.

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

14


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi dựa vào cách phân loại câu theo cấu
trúc cú pháp để phục vụ cho việc tìm ra đặc điểm cũng như giá trị nghệ thuật của câu
văn trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.
Vấn đề phân loại câu tiếng Việt là một trong những vấn đề khá khó khăn và phức
tạp. Xoay quanh vấn đề này đã có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau, thậm chí đối
nghịch lẫn nhau. Có ý kiến phân loại câu theo cấu trúc đề - thuyết, ủng hộ việc phân
loại câu theo cấu trúc đề - thuyết (Cao Xuân Hạo…); có ý kiến phân loại câu căn cứ
vào số lượng mệnh đề (Bùi Đức Tịnh…); có ý kiến phân loại câu theo cách cấu tạo
(Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê…); có ý kiến phân loại câu dựa vào kết cấu C-V
(Hoàng Tuệ…); có ý kiến phân loại câu dựa vào số lượng nòng cốt (Hoàng Trọng
Phiến, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung, Đái Xuân Ninh…); v.v…Mỗi cách phân
chia đều có những cơ sở khoa học riêng, có những ưu, nhược điểm riêng nên việc lựa
chọn một cách phân loại quả là khó khăn.

2. Phân loại câu
Qua tìm hiểu và tham khảo ý kiến của nhiều tác giả trong việc phân loại câu,
chúng tôi đưa ra một hệ thống phân loại câu của mình, phục vụ cho việc thống kê,
phân loại câu trong phần sau. Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày quan niệm của mình về

các kiểu câu và cách phân loại chúng.
Theo chúng tôi, câu tiếng Việt có thể phân thành hai kiểu câu lớn là câu đơn và
câu ghép. Trong đó, mỗi kiểu câu lại có thể được phân thành những kiểu câu nhỏ hơn.
2.1. Câu đơn
Câu đơn là kiểu câu có một kết cấu ngữ pháp làm nòng cốt. Kiểu kết cấu ngữ
pháp làm nòng cốt có thể là kết cấu ngữ pháp do hai thành phần có quan hệ C-V tạo
thành, có thể là kết cấu ngữ pháp do một thành phần tạo thành. Dựa vào kết cấu ngữ
pháp này, chúng ta có thể chia câu đơn thành hai kiểu câu nhỏ hơn: câu đơn bình
thường (có kết cấu ngữ pháp do hai thành phần có quan hệ C-V tạo thành) và câu đơn
đặc biệt (có kết cấu ngữ pháp do một thành phần tạo thành)
2.1.1. Câu đơn bình thường
Là kiểu câu có một kết cấu hai thành phần có quan hệ C-V làm nòng cốt. Một
kết cấu C-V gồm hai thành phần: một thành phần nêu đối tượng (chủ ngữ) và một
thành phần tiêu biểu cho nội dung thông báo về đối tượng đó (vị ngữ). Quan hệ ý
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

15


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

nghĩa giữa hai thành phần trong kết cấu C-V thường tương ứng với quan hệ giữa hai
thành phần của một phán đoán trong tư duy.
Ví dụ:
Cô lái xe / đứng lặng ngoài rào, như bị trăng đông thanh pho tượng.
C

V


Cô / không biết làm gì với niềm tin vào tình yêu đang phụt phù nhóm lửa trong anh.
C

V
(Tình thầm – Nguyễn Ngọc Tư)

2.1.2. Câu đơn đặc biệt
Là kiểu câu do một từ, ngữ tạo thành. Từ, ngữ tạo thành câu đơn kiểu này là
thành phần duy nhất không thể xác định là chủ ngữ hay vị ngữ như trong các kiểu câu
đơn hai thành phần. Câu đơn đặc biệt là một kiến trúc kín tự thân, do đó, khác với
dạng tỉnh lược của câu, câu đặc biệt không cần và không thể khôi phục thành phần cho
đầy đủ hơn. Tồn tại trong hoàn cảnh sử dụng, câu đơn đặc biệt tự nó đủ cho người ta
hiểu nó.
Dựa vào bản chất từ loại của từ, ngữ làm thành phần chính có thể phân biệt một
số kiểu nhỏ về câu đơn đặc biệt như sau:
− Câu đơn đặc biệt – danh từ: là câu do một danh từ hay một ngữ danh từ hay
một đại từ (biểu thị sự vật, thay thế danh từ, ngữ danh từ) tạo thành. Câu đơn đặc biệt
- danh từ được dùng để xác định thời gian, nơi chốn.
Ví dụ: Tháng Giêng. Mạc Tư Khoa tuyết trắng.
− Câu đơn đặc biệt – động từ (hay tính từ): là câu do một động từ / tính từ, một
ngữ động từ / ngữ tính từ hay một đại từ (thế, vậy) làm thành phần chính. Kiểu câu này
được dùng để thông báo, liệt kê về sự tồn tại của một sự vật, sự việc; bộc lộ cảm xúc
hay dùng để hô gọi...
Ví dụ: Còn gạo trong túi.
Xa xa nhấp nháy ánh đèn.
Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ đến khi lên ba vẫn không biết
nói.
− Câu đơn đặc biệt do các loại từ khác tạo thành dùng làm lời gọi đáp hay biểu
thị một cảm xúc. Kiểu câu này có thể dùng làm thành phần phụ trong một câu đơn

bình thường hoặc một câu phức hay câu ghép.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

16


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

Ví dụ: Trời!
Chao ôi!
 Lưu ý
Trong ngữ pháp tiếng Việt, bên cạnh câu đặc biệt, chúng ta cũng có các kiểu câu
khác cũng có cấu tạo do một từ, ngữ tạo thành. Đó là kiểu câu tỉnh lược và câu dưới
bậc. Câu tỉnh lược thực chất là câu đơn hai thành phần nhưng có một thành phần bị
lược bỏ, chỉ giữ lại một từ hay một ngữ biểu hiện đầy đủ nội dung thông báo của cả
câu. Do đó, khi phân loại, chúng tôi xếp câu tỉnh lược vào câu đơn hai thành phần.
Trong ngôn ngữ văn chương (và trong một số phong cách ngôn ngữ khác), nhiều
khi người ta tách một thành phần nào đó của câu ra thành một câu riêng, và gọi nó
bằng những tên gọi khác nhau như ngữ trực thuộc (Hoàng Trọng Phiến) hay câu dưới
bậc (Diệp Quang Ban). Theo Diệp Quang Ban, câu dưới bậc là biến thể của câu có
ngữ điệu kết thúc, tự lập nhưng không tự lập về cấu tạo ngữ pháp và về ngữ nghĩa.
Câu dưới bậc là một bộ phận của một câu trọn vẹn được tách ra vì những lí do nghệ
thuật. Câu dưới bậc không tồn tại một cách tự lập, nó chỉ có giá trị nghệ thuật và có ý
nghĩa hiểu được xét trong mối quan hệ với câu mà từ đó nó được tách ra. Nếu coi câu
dưới bậc là một hình thức tỉnh lược, nghĩa là có thể phục hồi bộ phận bị rút bỏ thì bộ
phận được phục hồi đó sẽ trở thành một bộ phận lặp thừa không cần thiết và có thể tỏ
ra là một cấu tạo ngữ pháp vụng về. Câu dưới bậc tự nó không phải là một câu, nó chỉ
là một thứ “câu” xuất hiện trong quá trình tạo ra những dấu chấm câu mang giá trị

nghệ thuật.
Ví dụ: Mưa! (là câu đặc biệt)
Huấn đi về trạm máy. Một mình. Trong đêm. (câu dưới bậc)
Còn các tác giả khác thường không phân biệt câu đơn đặc biệt và câu dưới bậc.
Chúng tôi cũng xem câu dưới bậc là câu đơn đặc biệt, vì về mặt hình thức nó cũng do
một từ, ngữ tạo thành, được nhận diện nhờ dấu câu và mang một nội dung thông báo
riêng (thường là nhấn mạnh một điều gì đó).
2.1.3. Một số trường hợp trung gian giữa câu đơn bình thường và câu đơn đặc biệt
Có nhiều ý kiến chưa thống nhất khi phân biệt câu đơn đặc biệt với các biến thể
của một câu đơn bình thường. Chúng tôi xin trình bày quan điểm của mình như sau:
− Câu đặc biệt có ý nghĩa tồn tại hay câu đảo vị ngữ lên trước.
Ví dụ: Bắt đầu trận đấu rồi.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

17


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

Bỗng lòe chớp đỏ!
Những câu như trên, có người cho đó là câu một thành phần chính do ngữ động
từ có ý nghĩa tồn tại đảm nhận nhằm miêu tả sự tồn tại của sự vật hiện tượng trong
phạm vi không gian hiện hữu (câu đơn đặc biệt). Có người lại cho đó là câu đơn đảo vị
ngữ lên trên, chủ ngữ chính là biểu thức ngôn từ chỉ ra sự vật tồn tại: chớp đỏ, trận
đấu. Chúng tôi xem những kiểu câu như thế này là câu đơn đặc biệt.
− Câu đặc biệt cảm thán hay câu ẩn chủ ngữ
Ví dụ: Buồn quá!
Nóng quá!

Những câu như trên miêu tả cảm giác về thời tiết hoặc là cảm giác tâm sinh lí
của người nói. Có người xem đó là câu ẩn chủ ngữ, có người xem đó là câu đặc biệt
cảm thán. Chúng tôi xem đó là câu đặc biệt.
− Câu đặc biệt mệnh lệnh hay câu tỉnh lược
+ Khẩu lệnh hay câu tỉnh lược
Ví dụ: Đi đều, bước!
Bắn!
Tránh ra!
Dựa vào hoàn cảnh giao tiếp ta có thể xác định được chủ thể hành động, có thể
thêm chủ ngữ, vị ngữ vào cho câu. Nhưng trong thực tế sử dụng thì không có nhu cầu
này, vì cả người ra lệnh và cả người nhận lệnh đều đã hiểu rõ. Hơn nữa, việc biến các
khẩu lệnh như trên thành câu hai thành phần lại khiến cho câu mất tự nhiên và mất đi
tính chất dứt khoát, mạnh mẽ của một khẩu lệnh. Chúng tôi xem đó là câu đặc biệt.
+ Câu đặc biệt nêu nghĩa vụ, trách nhiệm chung hay câu vắng chủ ngữ
Ví dụ: Trong cuộc sống không nên cầu toàn.
Phải biết nhìn xa trông rộng.
Những câu trên nêu nghĩa vụ, trách nhiệm hoặc một phương châm xử thế cho
mọi người nói chung. Có thể thêm chủ ngữ có ý nghĩa phiếm định như: mọi người,
chúng ta,...nhưng hoàn toàn không cần thiết vì làm như vậy sẽ khiến cho nhiều câu
không tự nhiên, mất đi tính chân lí khái quát của nội dung mệnh đề, giảm đi tính dứt
khoát, mạnh mẽ của lời cầu khiến. Cũng có ý kiến cho rằng những câu trên là câu đơn
vắng chủ ngữ. Theo chúng tôi, có thể coi chúng là câu đơn đặc biệt.

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

18


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư


GVHD: TS. Trần Hoàng

2.1.4. Quan niệm về câu trung gian, câu phức
Như đã trình bày ở trên, câu đơn hai thành phần có một kết cấu ngữ pháp có
quan hệ C-V làm nòng cốt. Các thành phần chủ ngữ, vị ngữ này có cấu tạo khá phong
phú: có thể là một từ, một cụm từ, một chuỗi cụm từ, một kết cấu C-V… Đối với
những kiểu câu có kết cấu C-V làm chủ ngữ, vị ngữ hay các thành phần khác của câu,
nhiều nhà ngữ pháp học đã xếp chúng vào kiểu câu phức, câu trung gian (vừa mang
bản chất câu đơn, vừa mang bản chất câu ghép). Đó là quan niệm của Nguyễn Hữu
Quỳnh, Hoàng Trọng Phiến, Hoàng Văn Thung, Lê A…
Tác giả Hoàng Trọng Phiến (Ngữ pháp tiếng Việt – Câu, NXB ĐHQG HN, 2008)
cho rằng, câu trung gian là kết quả triển khai cấu trúc câu đơn nhưng không còn ở bậc
câu đơn mà cũng chưa đến bậc câu ghép. Quan niệm về câu trung gian xuất phát từ
chỗ tiếng Việt có quá trình mở rộng hoặc phức tạp hóa các mô hình câu đơn với các
biến thể của chúng. Các tác giả đều đi đến thống nhất rằng, câu trung gian (câu phức)
là kiểu câu chứa hai kết cấu C-V, trong đó có một kết cấu C-V làm thành phần câu.
Chúng vừa có đặc điểm của câu đơn, vừa có đặc điểm của câu ghép.
Về vấn đề phân loại câu trung gian, các tác giả cũng hướng đến một cách phân loại
chung như sau:
− Câu trung gian / câu phức có kết cấu C-V làm vế câu tương đương với chủ ngữ
(nêu sự việc làm đối tượng thông báo)
Ví dụ: Em giải bài tập như vậy là đúng.
− Câu trung gian / câu phức có kết cấu C-V làm vế câu tương đương với vị ngữ
(nêu sự việc là nội dung thông báo)
Ví dụ: Em bé này tóc đen nhánh.
− Câu trung gian / câu phức có kết cấu C-V làm vế câu tương đương với định ngữ
(thành phần phụ sau một ngữ danh từ)
Ví dụ: Anh Nam đang đọc quyển sách tôi vừa đọc ở thư viện.
− Câu phức có kết cấu C-V làm vế câu tương đương với bổ ngữ (thành phần phụ
sau một ngữ động từ hay một ngữ tính từ)

Ví dụ: Tôi tin các em sẽ cố gắng học tập.
− Câu phức có kết cấu C-V làm vế câu (tương đương với bổ ngữ hoặc định ngữ)
làm thành phần phụ trạng ngữ ngoài nòng cốt câu.
Ví dụ: Để cha mẹ vui lòng, các em phải cố gắng học tập.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

19


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

 Quan niệm của người viết
Đối với những kiểu câu này, chúng tôi xếp vào câu đơn hai thành phần. Vì cho
dù trong một câu có nhiều kết cấu C-V, nhưng chỉ có một kết cấu C-V lớn nhất đóng
vai trò nòng cốt, kết cấu C-V còn lại chỉ đóng vai trò làm thành phần của câu chứ
không phải là cụm C-V nòng cốt. Như vậy, chỉ nên xem đây là kiểu câu đơn hai thành
phần.
Ví dụ:
Chúng ta / giúp đỡ đồng bào / là chúng ta yêu nước.
C

V
C

V

Con gà / mào / đỏ chót.
C

C

V
V

Khi chúng tôi / đến, cả cánh đồng / rực lên một màu vàng hoa cải.
C
C

V

V

Trạng ngữ
2.2. Câu ghép
Câu ghép là kiểu câu chứa từ hai kết cấu C-V trở lên, mỗi kết cấu làm thành
một vế câu, nêu các sự việc hoặc đối lập với nhau hoặc có quan hệ chặt chẽ về ý nghĩa
và về cấu tạo ngữ pháp.
Ví dụ:
Mõ / lại thúc, trống / lại giục và tù và / lại inh ỏi thổi lên.
C1

V1

C2

V2

C3


V3

Dựa theo quan hệ ngữ pháp giữa các vế trong câu ghép, ta có thể chia thành câu
ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Dựa theo sự có mặt hay không có mặt của kết
từ, ta có thể phân thành câu ghép dùng kết từ và câu ghép không dùng kết từ. Chúng
tôi phân loại câu ghép dựa theo quan hệ ngữ pháp giữa các vế trong câu.

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

20


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

2.2.1. Câu ghép đẳng lập
Gồm hai hay nhiều vế câu nêu các sự việc có quan hệ với nhau nhưng mỗi sự
việc được thể hiện trong một kết cấu ngữ pháp tương đối độc lập. Do đó, các vế câu
đều có thể tách ra và tách thành câu đơn.
Ví dụ: Trời nổi gió, cơn mưa ập đến.

→ Trời nổi gió. Cơn mưa ập đến.
Có thể chia câu ghép đẳng thành câu ghép đẳng lập không có kết từ và câu ghép
đẳng lập có kết từ.
Ví dụ: Trống đánh xuôi kèn thổi ngược. (không có kết từ)
Nước mát rượi và Thanh cúi nhìn mình trong dòng nước. (có kết từ)
 Những quan hệ ngữ nghĩa thường gặp giữa các vế câu trong câu ghép đẳng lập
• Quan hệ liệt kê đồng thời: có thể biểu thị bằng từ nối và, thì… thì…, còn; nhưng
thường thì không có từ nối. Các vế được tách riêng bởi dấu phẩy (,).

Ví dụ: Con chó thì chạy thong thả, con khỉ thì buông thõng hai tay ngồi ngúc nga
ngúc ngoắc, con mèo đen đốm trắng thì ngao ngao lững thững chạy theo.
• Quan hệ liệt kê kế tiếp có thể được biểu thị bằng từ nối: rồi, vừa, thì, là, bèn,
liền…
Ví dụ: Con khỉ này rất nghịch. Một bữa nọ, Bác vừa quay lưng ngó ra sân, nó bèn rón
rén bốc trộm cơm của Bác.
• Quan hệ so sánh, đối chiếu (tương đồng, tương phản)
Ví dụ: Má tôi còn trẻ, má anh cũng cỡ trung niên.
Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.
• Quan hệ tuyển chọn, thường được biểu thị bằng từ nối hay, hoặc (tuyển chọn
lỏng), hoặc… hoặc… (tuyển chọn chặt).
Ví dụ: Tôi đi hay anh đi?
Hoặc tôi phải rời bỏ Tổ quốc, hoặc tôi phải sống xa cha mẹ mình bên đất Mỹ.
2.2.2. Câu ghép chính phụ
Gồm hai vế câu nêu các sự việc có ý nghĩa gắn bó và có cấu tạo ngữ pháp chặt
chẽ. Trong những hoàn cảnh nói viết cụ thể, có thể tách các vế câu làm thành câu đơn
với sắc thái nhấn mạnh vào sự việc, nhưng quan hệ ý nghĩa giữa các sự việc vẫn tồn
tại.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

21


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

Người ta thường sử dụng một số phương tiện sau đây để tách và/hoặc nối các
vế câu ghép chính phụ:
+ Quan hệ từ: nhưng, mà, song…

+ Cặp quan hệ từ: nếu…thì…, tuy…nhưng…, vì…nên…, càng…càng…
+ Cặp phụ từ: chưa…đã…, vừa…đã…, đã…còn…
+ Cặp đại từ phiếm định: ai…nấy…, nào…ấy…, bao nhiêu…bấy nhiêu…
+ Cặp tình thái từ: thà…chứ…, thà…còn hơn…
 Những quan hệ nghĩa thường gặp giữa các vế trong câu ghép chính phụ
• Quan hệ nhân quả (vì/do/bởi/tại A nên/cho nên B; nhờ A mà B)
Ví dụ: Rừng thiêng vì rừng đã tích tụ hàng ngàn, hàng vạn năm thời gian.
• Quan hệ điều kiện/ hệ quả (nếu A thì B; giá A thì B; hễ/cứ A thì/là B; A thì mới
B; đã A thì/là phải B)
Ví dụ: Nếu không có Bá Nhỡ thì ấp Mê Thảo tan rồi. (Nguyễn Tuân)
• Quan hệ đối lập – nhượng bộ (tuy A nhưng B; mặc dù/dẫu A vẫn B)
Ví dụ:

Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

• Quan hệ bổ sung, tăng cấp (không những/chẳng những/không chỉ A mà còn B;
đã A lại còn B)
Ví dụ: Đã giàu thì lại giàu thêm
Đã khó lại khó cả đêm lẫn ngày. (ca dao)
• Quan hệ hô - ứng liên hoàn (bao nhiêu… bấy nhiêu, ai…nấy, nào…ấy, càng…
càng…)
Ví dụ: Rau nào sâu ấy.
Cha nào con ấy. (tục ngữ)
• Quan hệ nghịch điều kiện – hệ quả (chưa A đã B)
Ví dụ: Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.(tục ngữ)
• Quan hệ lựa chọn khẳng định – phủ định (thà A còn hơn B; thà A chứ không B)
Ví dụ: Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc.
• Quan hệ đối lập biểu thị bằng quan hệ từ: nhưng, mà, lại, song… Đối với kiểu
quan hệ này, vế sau là vế chính của câu.

Ví dụ: Sự đề kháng của họ ngày càng tốt hơn theo dòng thời gian nhưng mỗi người
theo một cách khác nhau.
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

22


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

2.2.3. Hiện tượng câu ghép hỗn hợp
Bên cạnh việc phân loại câu ghép thành câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ,
một số nhà ngữ pháp học còn đưa ra một loại câu ghép khác nữa, đó là câu ghép hỗn
hợp. Đó là quan niệm của Nguyễn Thị Thìn, Nguyễn Hữu Quỳnh. Theo các tác giả,
câu ghép hỗn hợp là loại câu ghép gồm nhiều kiểu câu kết hợp lại với nhau để diễn tả
hiện thực phong phú, sinh động. Loại câu này ta luôn luôn gặp trong sách vở, báo chí.
Nguyễn Thị Thìn chia kiểu câu hỗn hợp này ra thành hai loại: câu ghép nhiều tầng bậc
và câu ghép hỗn hợp.
− Câu ghép nhiều tầng bậc: là câu mà một trong hai vế hoặc cả hai vế có cấu tạo
tương đương với một câu ghép.
Ví dụ: Tôi không kể với anh thì tôi cũng phải nói với người khác, bởi vì tôi không thể
tự trò chuyện với mình suốt đời được.
− Câu ghép hỗn hợp: là câu ghép nhiều tầng bậc, có chứa cả quan hệ đẳng lập và
quan hệ chính phụ giữa các vế của câu.
Ví dụ: Nơi nào dẹp được nạn cờ bạc thì cuộc sống trở nên yên ổn mọi người còn lo
làm ăn sinh sống, nơi nào nạn cờ bạc hoành hành thì rượu chè kiện cáo, đôi khi còn
đánh chém nhau cả ngày trong cùng một họ.
 Quan niệm của người viết
Chúng tôi không sử dụng khái niệm câu ghép hỗn hợp khi phân loại câu ghép.

Chúng tôi chỉ phân loại câu ghép thành câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Câu
ghép hỗn hợp mà hai tác giả này nói đến, tùy theo quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu mà
chúng tôi xếp vào câu ghép chính phụ hay câu ghép đẳng lập. Chẳng hạn, trong ví dụ
mà Nguyễn Thị Thìn cho là câu ghép nhiều tầng bậc, chúng tôi xếp vào câu ghép
chính phụ vì các vế câu này có quan hệ chặt chẽ với nhau theo quan hệ nguyên nhân –
hệ quả. Còn ví dụ còn lại chúng tôi xem đó là câu ghép đẳng lập.
2.2.4. Một số ý kiến chưa thống nhất về câu ghép
− Câu đơn có trạng ngữ hay câu ghép
Ví dụ: Chân tay vung lên như điện giật, ông trợn mắt hỏi không ra tiếng.
Biểu thức ngôn từ được gạch chân có thể được coi là trạng ngữ chỉ cách thức
hoặc tình trạng của chủ thể thực hiện hành động chính do vị ngữ câu biểu thị. Như vậy
ta có câu đơn có trạng ngữ. Cũng có thể xem chúng là một vế phụ của câu ghép, như
SVTH: Nguyễn Thị Lâm

23


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư

GVHD: TS. Trần Hoàng

vậy ta sẽ có câu ghép chính phụ. Chúng tôi xếp những kiểu câu trên vào kiểu câu đơn
có trạng ngữ (chỉ cách thức hành động).
− Câu đơn có thành phần phụ tình thái hay câu ghép
Ví dụ: Lạ thật, phố xá gì mà vắng tanh vắng ngắt. Nhà nào nhà ấy mới tám giờ tối đã
đóng cửa im ỉm.
Tuyệt quá, với chiêu này thì nhất định nó phải về chầu ông bà ông vải rồi.
Cụ ơi, chúng cháu có thể giúp cụ việc gì được không ạ?
Đối với những kiểu câu trên, có ý kiến cho là câu ghép, trong đó vế thứ nhất là
một ngữ thể hiện cảm xúc hay dùng để hô gọi. Cũng có tác giả xem là câu đơn có

thành phần phụ tình thái. Chúng tôi đồng ý với ý kiến thứ hai.
− Câu đơn có nhiều vị ngữ hay câu ghép
Xét các ví dụ: Ông chủ bút đứng dậy chào, bắt tay, mời khách ngồi.
Thuốc lá mang lại khoản lợi nhuận không nhỏ nhưng luôn là một mối
nguy hại lớn cho sức khỏe con người.
Những câu có một chủ ngữ nhiều vị ngữ như trên có thể xem là câu ghép, có
bao nhiêu vị ngữ là có bấy nhiêu vế câu ghép. Tuy nhiên, cũng có thể xem nó là câu
đơn hai thành phần chính. Những câu có một chủ ngữ, nhiều vị ngữ như trên đều có
thể dùng để biểu thị phán đoán phức gồm một số phán đoán đơn có cùng một chủ từ
logic liên kết lại. Hơn nữa, việc xác lập cho mỗi vị ngữ một chủ ngữ bằng cách nhắc
lại nhiều lần biểu thức ngôn từ làm chủ ngữ sẽ đưa những câu có chuỗi vị ngữ trở
thành câu ghép gồm nhiều nòng cốt đơn. Như vậy, tính cách là câu ghép của chúng
không dễ dàng bị phủ định. Trước đây, có ý kiến cho rằng, có bao nhiêu vị ngữ là có
bấy nhiêu vế câu ghép. Tuy nhiên, khả năng khôi phục chủ ngữ cho từng vị ngữ
thường ít được thực hiện vì dễ tạo ra sự lặp từ, ngữ không cần thiết, làm cho câu văn
trở nên nặng nề, nhàm chán (trừ những trường hợp phục vụ cho mục đích tu từ biểu
cảm). Để đỡ gây phức tạp cho thao tác phân tách câu ra thành hai thành phần chính
chủ ngữ, vị ngữ đối với câu chỉ có một chủ ngữ, ta có thể quy ước với nhau rằng: câu
có một chủ ngữ nhiều vị ngữ là câu đơn hai thành phần chính.
Trên đây chúng tôi đã trình bày quan niệm của mình về khái niệm câu, cách
nhận diện câu và đưa ra hệ thống phân loại câu của mình. Những điều đã trình bày trên
là cơ sở để chúng tôi tiến hành thống kê, khảo sát và phân tích câu trong truyện

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

24


Đặc điểm câu văn trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư


GVHD: TS. Trần Hoàng

Nguyễn Ngọc Tư ở chương tiếp theo. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin hệ thống lại các
kiểu câu trong tiếng Việt bằng sơ đồ sau:
Câu tiếng Việt
Câu đơn
Câu đơn bình
thường

Câu ghép
Câu đơn
đặc biệt

Câu ghép
đẳng lập

Câu có một vị

Câu có nhiều

ngữ

vị ngữ

SVTH: Nguyễn Thị Lâm

Câu ghép
chính phụ

25



×