Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Bài giảng môn quản trị tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 77 trang )

Chƣơng 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH
MỤC TIÊU CHƢƠNG:
Mục tiêu của chương này là nhằm giới thiệu những lý luận chung về tài chính, quá trình hình
thành và phát triển, chức năng và vai trò của tài chính trong nền kinh tế và nêu khái quát hệ
thống tài chính. Sau khi học xong chương này sinh viên sẽ nắm được những kiến thức nền tảng
làm cơ sở cho những môn học kế tiếp

1.1 KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH
- Phạm trù tài chính ra đời và tồn tại trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Khi phân
công lao động xã hội phát triển, chế độ tư hữu xuất hiện dẫn đến sự ra đời của nề sản xuất dựa
trên trao đổi hàng hóa và tiền tệ trở thành một phương tiện không thể thiếu. Sự xuất hiện tiền tệ
đã nhanh chóng thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, đồng thời làm nên cuộc cách mạng
trong công nghệ phân phối: từ phân phối hiện vật sang phân phối bằng giá trị.
- Trong nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, sản phẩm sản xuất ra là để bán. Sản phẩm được xem là
hàng hóa vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị trao đổi. Khi hàng hóa thực hiện giá trị phải gắn
liền với sự vận động của tiền tệ đồng thời phát sinh thu nhập cho người cung cấp hàng hóa. Các
khoản thu nhập này trải qua quá trình phân phối, tạo ra nguồn tài chính hay quỹ tiền tệ của các
chủ thể kinh tế. Đây là cơ sở nảy sinh phạm trù tài chính.
- Tài chính biểu hiện ra là các phương thức chu chuyển tiền tệ giữa các cá nhân, doanh nghiệp và
chính phủ với nhau. Từ đó có các khái niệm về tài chính như tài chính cá nhân, tài chính công ty,
tài chính công.

1.2 BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH
1.2.1 Nguồn tài chính:
Khái niệm: Nguồn tài chính là khái niệm cơ bản trong lĩnh vực tài chính. Sự chu chuyển tiền tệ
giữa các chủ thể với nhau dựa trên quan hệ cung cầu. Khối lượng tiền tệ để thực hiệ một giao
dịch tài chính được gọi là nguồn tài chính.
- Theo nghĩa hẹp: nguồn tài chính là khối lượng tiền tệ có tính lỏng cao được biểu hiện thông qua
các quỹ tiền tệ như:
o
o


o
o

Quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
Các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp
Các quỹ tiền tệ của các định chế tài chính
Các quỹ tiền tệ của các hộ gia đình và các tổ chức xã hội

- Theo nghĩa rộng: ngoài khối tiền có tính lỏng cao, nguồi tài chính còn bao gồm khối tiền có
tính lỏng thấp như:
o Các loại tài sản tài chính hay các loại chứng khoán

1


o Ngoài ra, nguồn tài chính còn bao gồm dạng tài sản như bất động sản, sở hữu trí
tuệ và các loại tài sản vô hình khác có khả năng tiền tệ hóa.
1.2.2 Bản chất tài chính:
Bản chất tài chính phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể với nhau trong quá trình
tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính. Xét về hiện tượng, tài chính biểu hiện ra là
những phương thức hoạt động phát sinh liên quan đến sự chuyển giao tiền tệ giữa các chủ thể
kinh tế:
o
o
o
o

Các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ
Chính phủ phát hành trái phiếu huy động vốn
Các cá nhân gửi tiền vào các định chế tài chính

Các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh …

Bản chất của tài chính phản ánh ràng buộc về quan hệ kinh tế giữa các chủ thể với nhau trong
quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính. Trong phạm trù tài chính tiền xuất hiện với
tư cách là phương tiện để thực hiện phân phối vốn hoặc thu nhập của các chủ thể kinh tế dưới
hình thức giá trị.

1.3 CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH:
1.3.1 Huy động nguồn tài chính:
Chức năng huy động tài chính, hay còn gọi là chức năng huy động vốn, thể hiện khả năng tổ
chức khai thác các nguồn tài chính nhằm tạo lập nguồn lực đáp ứng nhu cầu phát triển của nền
kinh tế. Chức năng huy động vốn thực hiện trên cơ sở tương tác giữa các yếu tố:
o
o
o
o

Chủ thể cần vốn
Các nhà đầu tư
Hệ thống tài chính gồm thị trường tài chính và các định chế tài chính
Môi trường tài chính và kinh tế

Thực hiện chức năng này yêu cầu các chủ thể phải thiết lập chính sách huy động vốn có hiệu quả
dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố như tính toán nhu cầu, quy mô huy động, lựa chọn các công
cụ tài chính và đòn bẩy tài chính kinh tế trong huy động vốn. Các yêu cầu đặt ra cho chính sách
huy động vốn là:
o Về thời gian
o Về kinh tế
o Về mặt pháp lý


1.3.2 Phân bổ nguồn tài chính:
Chức năng phân bổ hay còn gọi là chức năng phân phối nguồn tài chính biểu hiện thông
qua thiết lập sử dụng nguồn lực sẵn có để đạt được các mục tiêu phát triển trong ngắn hạn và dài
hạn của các chủ thể kinh tế - xã hội. Qua chức năng phân bổ nguồn lực, các quỹ tiền tệ chuyên

2


dung được hình thành với những quy mô nhất định tương ứng với nhu cầu chi tiêu của các chủ
thể.
Trong phân bổ nguồn lực, bài toán đặt ra là các chủ thể cần giải quyết là nguồn lực bị
giới hạn trong khi nhu cầu đặt ra cho phát triển là vô hạn. Do vậy khi thực hiện phân bổ nguồn
lực các chủ thể xây dựng chiến lược phân bổ hiệu quả:

Vị trí ở hiện tại

Tổ chức thực
hiện

CHIẾN
LƯỢC
QUẢN LÝ
THEO MỤC

Mục tiêu phát
triển

Các bước đạt
được mục tiêu


Sơ đồ 1-1: Quy trình chiến lƣợc phân bổ nguồn lực tài chính

Vị trí ở hiện tại: tức là phải tiến hành xem xét và đánh giá môi trường kinh tế - xã hội, doanh
nghiệp có những nguồn lực gì, môi trường thế nào, những cơ hội và thách thức, cũng như những
điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Mục tiêu phát triển: với tình trạng hiện có của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần phải đề ra những
mục tiêu phát triển có quy mô chiến lược đáp ứng được các mặt như quản lý, nguồn nhân lực,
tăng trưởng bền vững.
Cách thức để đạt mục tiêu phát triển chiến lược: tức là phải biến từ chiến lược thành hành động
bằng cách lên các kế hoạch và thực hiện lập ngân sách, từ đó tổ chức thực hiện chiến lược một
cách có quy mô để có thể đạt được những mục tiêu đề ra.

1.3.3 Kiểm tra tài chính
Kiểm tra tài chính phản ánh hoạt động thu thập và đánh giá những bằng chứng về thông tin liên
quan đến quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài chính với mục đích đảm bảo tính đúng
đắn, tính hiệu quả và hiệu lực của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ hay nói một cách khác
là việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài
chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định.

3


Kiểm tra tài chính thể hiện dưới các loại hình sau:
o Thanh tra tài chính
o Kiểm toán nội bộ
o Kiểm toán nhà nước
Kiểm tra tài chính được thực hiện dựa trên sự kết hợp các yếu tố sau:
o
o
o

o

Chủ thể kiểm tra
Đối tượng kiểm tra
Cơ sở kiểm tra
Phương pháp kiểm tra

Đặc điểm kiểm tra tài chính:
o Kiểm tra tài chính được thực hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính
o Kiểm tra tài chính được thực hiện thường xuyên

1.4 HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.4.1 Cơ cấu tài chính:
Hệ thống tài chính là một hệ thống gồm có thị trường và các chủ thể tài chính thực hiện chức
năng gắn kết cung – cầu về vốn lại với nhau. Cơ cấu hệ thống tài chính gồm:
-

Thị trường tài chính
Các chủ thể tài chính
Cơ sở hạ tầng tài chính của hệ thống tài chính

CÁC ĐỊNH
CHẾ TÀI
CHÍNH

vốn

vốn

vốn


Các chủ thể
thừa vốn

vốn
n

THỊ
TRƯỜNG
TÀI
CHÍNH

vốn

Các chủ thể
thiếu vốn

Sơ đồ 1-2: Cấu trúc hệ thống tài chính

4


Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là tạo ra kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến
người cần vốn. Các chủ thể thừa vốn có cơ hội để chia sẻ nguồn tài chính của mình để kiếm thêm
lợi nhuận trong khi đó những người thiếu vốn sẽ có cơ hội để tiếp cận nguồn vốn để phục vụ cho
nhu cầu của mình.

1.4.2 Đặc điểm các bộ phận của hệ thống tài chính
a. Thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn, diễn ra dưới hình thức

vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm chuyển dịch từ nơi thừa đến nơi
có nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh tế, bao gồm:
Thị trường tiền tệ: là nơi các công cụ nợ ngắn hạn được mua bán với số lượng lớn. Các
công cụ nợ ngắn hạn lưu hành trên thị trường tiền tệ do nhà nước, các ngân hàng, các công ty lớn
phát hành, có đặc điểm là tính thanh khoản cao và rủi ro không thanh toán thấp. Các công cụ nợ
của thị trường tiền tệ bao gồm: giấy tờ có giá ngắn hạn như thương phiếu, kỳ phiếu thương mại,
tín phiếu kho bạc, các cam kết mua lại, các loại chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng….
Thị trường vốn: là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài hạn (do các chính quyền
trung ương, chính quyền địa phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp phát hành) được trao
đổi mua bán, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa thị
trường tiền tệ và thị trường vốn

b. Các chủ thể tài chính
Các chủ thể tài chính bao gồm các thể nhân và pháp nhân tài chính ở khu vực công và khu vực tư
hoạt động theo những nguyên tắc hay cơ chế nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, cấu thành
các chủ thể tài chính tương ứng với từng khu vực hình thành nên các khâu tài chính như: tài
chính công, tài chính doanh nghiệp, định chế tài chính và tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình
- Tài chính công:
Tài chính công được đặc trưng bằng các quỹ tiền tệ của các định chế thuộc khu vực công gắn
liền với việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Các tổ chức tài chính công bao gồm các đơn
vị thuộc hệ thống cơ quan công quyền, các đơn vị cung cấp dịch vụ công.
- Tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bằng các loại vốn hay các quỹ tiền tệ phục vụ cho hoạt
động đầu tư của các công ty, các đơn vị kinh tế trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ
- Các định chế tài chính
Các định chế tài chính là những định chế thực hiện chức năng cơ bản chu chuyển nguồn vốn từ
các chủ thể tiết kiệm (thừa vốn) đến các chủ thể cần vốn. Khi nhấn mạnh chức năng trung gian
chu chuyển vốn, các nhà kinh tế thường gọi các định chế tài chính là các trung gian tài chính

5



(Financial Intermediaries) Các định chế tài chính gồm: các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các
quỹ đầu tư, công ty tài chính
- Tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình
Theo nghĩa rộng, tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình là một định chế tài chính vốn quan trọng
trong hệ thống tài chính. Đặc trưng cho bộ phận hoạt động tài chính này là sự tồn tại của các quỹ
tiền tệ được sở hữu bởi cá nhân hoặc hộ gia đình. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ của cá nhân hoặc
hộ gia đình bao gồm thu nhập từ lao động, thu nhập từ góp vốn đầu tư cho kinh doanh và từ đầu
tư tài chính, thu nhập từ tài sản thừa kế và quà tặng

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG 1:
1. Trình bày sự ra đời và phát triển của tài chính
2. Nêu bản chất và chức năng tài chính
3. Trình bày hệ thống tài chính

6


Chương 2: ĐẠI CƢƠNG VỀ TIỀN TỆ
MỤC TIÊU CHƢƠNG
Mục tiêu của chương này nhằm giới thiệu những vấn đề cơ bản về tiền tệ, bao gồm vai trò và
chức năng của tiền tệ, các hình thái tiền tệ. Sau khi học xong chương này, sinh viên sẽ hiểu được
vai trò và chức năng của tiền tệ, và hiểu được tầm quan trọng của tiền trong nền kinh tế

1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ:
1.1.1 Khái quát sự ra đời và phát triển của tiền tệ:
Theo K.Marx, sự ra đời của tiền tệ chính là sự phát triển của các hình thái biểu hiện giá trị trong
trao đổi hàng hóa
- Hình thái giản đơn (ngẫu nhiên)

Đây là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Giá trị của hàng hóa chỉ có thể biểu hiện thông
qua duy nhất một hàng hóa khác mà thôi, trực tiếp hàng đổi hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành
ngẫu nhiên.
x hhA = y hhB
Ví dụ: 1 con gà = 1 mét vải. Mét vải ở đây đóng vai trò vật ngang giá
- Hình thái giá trị đầy đủ (mở rộng)
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi
tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với
nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở rộng.
Gía trị của một hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau
x hhA = y hh B
= z hh C
= u hh D….
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc hoặc

-

= 2 con gà hoặc
= 0,1 chỉ vàng hoặc
= ...

Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Ở ví dụ trên, giá trị của một mét vải
được biểu hiện ở 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang giá
đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao
đổi chưa cố định
- Hình thái giá trị chung

7



Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, phức tạp
hơn,người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì
thế việc trao đổi trực tiếp đã không còn phù hợp với nhu cầu.Trước tình hình đó, người ta phải đi
đường vòng, mang hàng hóa của mình để đổi lấy thứ hàng hóa mà nó được nhiều người ưa
chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hóa mà mình cần. Trao đổi trực tiếp hàng – hàng không còn
phù hợp nữa, đòi hỏi phải thay thế bằng hình thức trao đổi hoàn thiện hơn: trao đổi gián tiếp
thông qua hàng hóa trung gian. Khi vật trung gian trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa được
nhiều người ưa chuộng thì hình thái chung của giá trị xuất hiện
y hh B
z hh C

= x hh A

u hh D
-

….

Ví dụ: 10 kg thóc
hoặc 2 con gà

= 1 m vải

hoặc 0,1 chỉ vàng
....
Ở đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hoá đóng vai trò
là vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hoá nào.
Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.
- Hình thái tiền tệ:
Sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội đã dẫn đến quan hệ trao đổi mở rộng

hơn.Tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó
khăn, do đó đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang
giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị
x hh A
y hh B

=T

z hh C
Ví dụ:
10 kg thóc
1 m vải =
2 con gà

0,1 chỉ vàng = vật ngang giá chung
(Vàng trở thành tiền tệ).

Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý:
vàng, bạc và cuối cùng là vàng.

8


1.1.2 Các thời kỳ phát triển của tiền tệ:
a. Hóa tệ:
- Tiền được biểu hiện bằng hàng hóa, đây chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được dùng
trong một thời gian dài. Hàng hóa có giá trị sử dụng chung cho nhiều người, mang tính phổ biến,
đặc trưng cho địa phương
Ví dụ: Ở Bắc nước Anh, lừa được xem như hàng hóa để trao đổi, ở Ấn độ là bò, ở Trung Quốc là
lụa.

Hóa tệ lần lượt xuất hiện dưới hai dạng: hóa tệ kim loại và hóa tệ phi kim loại
Hóa tệ là kim loại:
Là việc lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng để đúc thành tiền là vàng bạc, đồng.
Kim loại có nhiều ưu điểm hơn hàng hóa không phải kim loại khi sử dụng làm đơn vị tiền tệ như
phẩm chất, có thể xác định chính xác, tồn tại lâu & không dễ hư hại, dễ vận chuyển & chia nhỏ,
với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn,có giá trị thực nhiều.
Trong giai đoạn đầu, tiền vàng thường tồn tại dưới dạng nén, thỏi. Nhưng về sau để tiện cho việc
trao đổi, tiền vàng thường được đúc thành những đồng xu với khối lượng và độ tinh khiết nhất
định. Loại tiền này vì thế mà còn được gọi là tiền đúc. Tuy nhiên tiền bằng kim loại cũng có một
số nhược điểm như không dễ & tốn kém vận chuyển cho những giao dịch lớn, chi phí in tiền
càng cao,lãng phí nguồn tài nguyên vốn đã có hạn.
Hóa tệ phi kim loại
Đây là hình thái cổ xưa của tiền tệ, tùy theo từng địa phương, người ta dủng những hàng hóa
khác nhau để làm tiền tệ. Việc từng dùng hàng hóa làm tiền tệ do thói quen địa phương. Tuy
nhiên hóa tệ phi kim loại có nhiều bất lợi khi đóng vai trò tiền tệ như tính không đồng nhất,
không dễ dàng vận chuyển, không dễ chia nhỏ, không tồn tại được lâu, và chỉ được công nhận
trong từng khu vực địa phương.

b. Tiền giấy
Xuất hiện đầu tiên dưới dạng các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra bạc hoặc vàng do các
NHTM phát hành. Đây là các cam kết cho phép người nắm giữ giấy này có thể đến ngân hàng
rút ra số lượng vàng hay bạc ghi trên giấy. Do có thể đổi ngược ra vàng và bạc nên các giấy
chứng nhận này cũng được sử dụng trong thanh toán như vàng và bạc. Sự ra đời những giấy
chứng nhận như vậy đã giúp cho việc giao dịch với những khoản tiền lớn cũng như việc vận
chuyển chúng trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.
Tiền giấy ra đời sớm nhất ở Trung Hoa. Thời đó các nhà buôn tổ chức thành hội gọi là“ hội phi
tiền” nhằm sử dụng tiền giấy để di chuyển từ nơi này sang nơi khác mà không phải dùng tiền
vàng để tránh cướp bóc xảy ra dọc đường. Đầu tiên những thành viên của hội ký gửi một số vàng
vào hội. Hội nhận số vàng này và cấp lại cho người gửi một thứ giấy gọi là “phi tiền”. Người
cầm giấy này có thể xuất trình phi tiền ở một chi nhánh khác của hội để đổi lấy vàng khi cần

thiết. Chính phi tiền là tiền thân của tiền giấy sau này.

9


Từ khi ra đời đến nay, tiền giấy nói chung có hai loại: Tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả
hoán
Tiền giấy khả hoán:
Là loại tiền có thể đổi ra vàng bất cứ lúc nào và được phát hành trên cơ sở lượng vàng dự trữ, sử
dụng trước thế chiến 1 & được thực hiện ở một số quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh.
Tiền giấy bất khả hoán:
Là loại tiền do NHTW thống nhất phát hành, được xem là đồng tiền hợp pháp bắt buộc lưu hành
và NN không thực hiện đổi tiền giấy ra vàng và được sử dụng sau thế chiến 1 đến nay. Đây là
loại tiền mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đang sử dụng. Loại tiền giấy bất khả hoán
có ưu điểm như dễ dàng cất trữ & vận chuyển và có đủ mệnh giá từ lớn tới nhỏ phù hợp với các
quy mô giao dịch ngoài ra chi phí in tiền nhỏ hơn so với tiền kim loại. Tuy nhiên, tiền giấy bất
khả hoán cũng có những nhược điểm như chi phí in tiền cao, có thể bị làm giả, và không bền (dễ
rách)

c. Bút tệ
Là thứ tiền vô hình sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán ngân hàng. Mọi nghiệp vụ
thanh toán tiền bạc giữa người này với người khác được thực hiện bằng cách ghi giảm trong tài
khoản của người phải trả một số tiền để chuyển sang tài khoản của người nhận tiền tại ngân
hàng. Phương tiện được dùng để thanh toán: Tiền Tín dụng, séc,…

d. Tiền điện tử
Tiền điện tử hay còn gọi là tiền mật số, là tiền đã được số hóa (mã hóa số học), tức là tiền ở
dạng những bit số. Ngày nay Tiền điện tử được sử dụng phổ biến trong môi trường thương mại
điện tử phục vụ cho những thanh toán điện tử thông qua hệ thống thông tin bao gồm hệ thống
mạng máy tính, internet và các phương tiện điện tử được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của tổ chức

phát hành (bên thứ 3) và được biểu hiện dưới dạng bút tệ trên tài khoản mà khách hàng (người
mua) mở tại tổ chức phát hành.Sử dụng trong các giao dịch chuyển khoản.
Ngày nay, tiền điện tử được dùng để giao dịch mua bán qua mạng, khiến các giao dịch trở nên dễ
dàng và nhanh chóng, do lợi thế khi dùng tiền điện tử nên chúng ta nghĩ rằng nền kinh tế sẽ mau
chóng loại bỏ tiền giấy trong nền kinh tế tuy nhiên điều này không thể thực hiện nhanh chóng do
cần phải thiết lập hệ thống các máy tính, máy đọc thẻ, mạng truyền thông cần thiết cho tiền điện
tử rất tốn kém, và giao dịch bằng tiền điện tử không cung cấp được chứng từ xác nhận việc thanh
toán và đe dọa tính an toàn do ăn trộm tiền qua mạng máy tính.

1.2 BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ:
1.2.1 Bản chất của tiền tệ:
Bản chất của tiền tệ được thể hiện dưới dạng giá trị sử dụng của tiền tệ và giá trị của tiền

10


Giá trị sử dụng của tiền tệ: khả năng làm thỏa mãn nhu cầu trao đổi của XH, nhu cầu sử dụng
làm vật trung gian trong trao đổi

1.2.2. Chức năng của tiền tệ:
Có 4 chức năng cơ bản:
a. Thước đo giá trị:
Ở chức năng này, tiền tệ thực hiện chức năng đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa
khác. Giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền tệ gọi là giá cả
Để thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ bản thân nó phải có giá trị. Giá trị của tiền
tệ được đặc trưng bởi khái niệm sức mua tiền tệ, tức là khả năng trao đổi của đồng tiền. Để tiện
cho việc đo lường giá trị của hàng hoá, cần có một đơn vị tiền tệ chuẩn. Đơn vị tiền tệ lúc đầu do
dân chúng lựa chọn một cách tự phát, sau đó do chính quyền lựa chọn và qui định trong luật
pháp từng nước.
Việc đưa tiền tệ vào để đo giá trị của hàng hoá làm cho việc tính toán giá hàng hoá

trong trao đổi trở nên đơn giản hơn nhiều so với khi chưa có tiền. Thêm nữa, nhờ có chức năng
này, mọi hình thức giá trị dù tồn tại dưới dạng nào đi nữa cũng có thể dùng tiền tệ để định lượng
một cách cụ thể.

b. Phương tiện lưu thông
Làm môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa, phục vụ cho sự chuyển dịch quyền sở hữu từ
chủ thể này sang chủ thể khác. Biểu hiện qua công thức: „H-T-H‟.
Chỉ sau khi giá cả hàng hóa được biểu hiện thành tiền mặt của người mua trao cho người
bán thì hàng hóa mới từ tay người bán chuyển sang người mua, lúc đó tiền tệ mới hoàn thành
chức năng phương tiện lưu thông và mới thực hiện đầy đủ vai trò vật ngang giá chung. Việc trao
đổi hàng hóa chỉ xảy ra và được thực hiện sau khi tiền tệ đã hoàn thành cùng một thời điểm hai
chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.
Sự tham gia của tiền tệ vào quá trình trao đổi hàng hóa đã tiến bộ hơn hẳn so với trao đổi
hàng hóa trực tiếp(H-H). Việc sử dụng tiền làm phương tiện trung gian trong trao đổi hàng hóa
làm nền kinh tế hoạt động trôi chảy hơn , hiệu quả hơn, tiết kiệm được các khoản chi phí giao
dịch , tiết kiệm được thời gian do không phải tìm những người trùng hợp về nhu cầu trao đổi
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ chỉ đóng vai trò môi giới giúp cho việc
trao đổi thực hiện được dễ dàng do vậy tiền chỉ xuất hiện thoáng qua trong trao đổi mà
thôi (người ta bán hàng hoá của mình lấy tiền rồi dùng nó để mua những hàng hoá mình cần).
Tiền tệ được xem là phương tiện chứ không phải là mục đích của trao đổi.
c. Phương tiện cất giữ
Biểu hiện khi tiền tệ tạm thời trở về trạng thái nằm im để dự trữ, thực hiện chức năng trao đổi
trong tương lai. Khi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi và thanh
toán, nó được cất trữ lại để dành cho những nhu cầu giao dịch trong tương lai. Khi đó, tiền có tác
dụng như một nơi chứa giá trị, nơi chứa sức mua hàng qua thời gian.
Khi cất trữ, điều đặc biệt quan trọng là tiền tệ phải giữ nguyên giá trị hay sức mua hàng
qua thời gian. Vì vậy, đồng tiền đem cất trữ phải đảm bảo yêu cầu: Giá trị của nó phải ổn định.

11



Tiền không phải là nơi cất trữ giá trị duy nhất mà là các tài sản khác cũng là nơi chứa giá trị như
cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, kim loại quý….nhưng tiền là tài sản có tính lỏng cao nhất, bởi
nó là phương tiện trao đổi trung gian, nó không phải chuyển đổi thành bất kỳ cái gì khác.

b. Phương tiện thanh toán
Biểu hiện khi tiền tệ được sử dụng để giảm trừ các khoản nợ trong quan hệ mua bán các hàng
hóa, dịch vụ đã trao đổi trước đây, Khi chức năng phương tiện thanh toán được thực hiện xong
thì quan hệ trao đổi cũng kết thúc.
Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền không chỉ được sử dụng để thanh toán các
khoản nợ về mua chịu các hàng hóa mà chúng còn được sử dụng để thanh toán các khoản vượt ra
bên ngoài phạm vi trao đổi hàng hóa như: nộp thuế, trả lương, các khoản đóng góp và chi phí
dịch vụ…

c. Phương tiện trao đổi quốc tế và tiền tệ thế giới
Biểu hiện khi tiền tệ đóng vai trò là vật ngang giá chung, thực hiện các chức năng của nó trên
phạm vi thế giới. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa các
quốc gia, quan hệ tiền tệ quốc tệ cũng ngày càng được mở rộng và tăng cường.
Nhưng do mỗi quốc gia đều sử dụng đồng tiền riêng cho nên những khoản giao dịch bằng
tiền giữa hai nước đều phải tiến hành so sánh giá trị giữa hai đồng tiên. Đó chính là quan hệ tỉ
giá, khi đã có tỉ giá giữa các đồng tiền thì mọi giao dịch quốc tế đều có diễn ra một cách bình
thường và thuận lợi
Như vậy, ở đây tiền đã được thực hiện với chức năng phương tiện trao đổi quốc tế. Tùy theo
tính chất mạnh hay yếu mà các đồng tiền tham gia vào quá trình trao đổi quốc tế với mức độ
khác nhau.

1.3 CÁC CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ:
1.3.1 Khái niệm và các yếu tố cấu thành chế độ tiền tệ
Khái niệm:
Là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia đã được quy định thành luật pháp

Các yếu tố cấu thành chế độ tiền tệ;
- Bản vị tiền tệ: là cơ sở đánh giá đồng tiền quốc gia, là tiêu chuẩn chung mà mỗi nước chọn
làm cơ sở cho chế độ tiền tệ của mình.
- Đơn vị tiền tệ: Mỗi quốc gia đều có đơn vị tiền tệ riêng của mình và được quy định bằng pháp
luật. Đơn vị tiền tệ của Việt nam là “đồng”, ký hiệu quốc tế là “VND”; đơn vị tiền tệ của Mỹ là
“đô la”, ký hiệu quốc tế là “USD”, đơn vị tiền tệ của Nhật là “yên”, ký hiệu quốc tế là “JPY”,…
- Công cụ trao đổi: tức là những công cụ được sử dụng để thực hiện mua bán hàng hóa, dịch vụ,
thanh toán các khoản nợ như tiền giấy, tiến cắc, tiền điện tử,…

12


Nói chung, trong chế độ tiền tệ, yếu tố thường thay đổi là bản vị tiền tệ.

1.3.2. Các loại chế độ tiền tệ:
a. Chế độ lưu thông tiền kim loại:
- Chế độ đơn bản vị:
Là chế độ tiền tệ lấy một thứ kim loại làm vật ngang giá chung: kẽm, đồng bạc hoặc vàng
- Chế độ song bản vị:
Là chế độ tiền tệ mà vàng và bạc đều được sử dụng với tư cách là tiền tệ. Vàng và bạc đều là vật
ngang giá thực hiện chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông với “ quyền lực ngang
nhau”
Trên thực tế, chế độ song bản vị lại được chia làm hai loại:
- Chế độ bản vị song song
Trong chế độ bản vị song song: bạc và vàng lưu thông theo giá trị thực tế của chúng trên thị
trường. Như vậy trong lưu thông đã có hai thước đo giá trị và dẫn đến hai hệ thống giá cả.
Thực tế trong lưu thông giá trị bạc thấp hơn giá trị vàng, cho nên vàng lại trở thành thước đo giá
trị của bạc. Đến lượt mình, bạc mới trở thành thước đo giá trị của các hàng hóa khác. Tình trạng
này đã làm cho lưu thông hàng hóa gặp nhiều khó khăn và lưu thông tiền tệ không ổn định.
- Chế độ bản vị kép:

Là chế độ song bản vị nhưng nhà nước can thiệp vào thị trường bằng cách quy định tỉ giá giữa
tiền vàng và tiền bạc thống nhất trong phạm vi cả nước.
- Chế độ bản vị vàng:
Vàng được chọn làm kim loại tiền tệ, vào đầu thế kỷ 20, chế độ bản vị vàng được phổ biến hầu
hết các nước. Chế độ bản vị vàng được xem là hình thái cổ điển của chế độ đúc tiền bằng vàng.
Chế độ bản vị vàng có ba đặc điểm:
Tiền vàng được đúc tự do theo tiêu chuẩn giá cả mà nhà nước quy định
Các loại tiền dấu hiệu giá trị lưu hành song song với vàng được phép tự do chuyển đổi ra tiền
vàng theo giá trị danh nghĩa. Điều này làm cho dấu hiệu giá trị không bị mất giá trong quan hệ
với vàng đồng thời hạn chế khả năng lạm phát tiền dấu hiệu.
Vàng được tự do lưu thông giữa các nước nghĩa là nhà nước không thực hiện chế độ quản chế
vàng.
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông ổn định nhất trong lịch sử sản xuất và trao đổi hàng hóa
vì lưu thông tiền vàng không xảy ra lạm phát. Nhưng lưu thông vàng cũng bộc lộ nhược điểm đó
là:
- Lưu thông vàng dẫn đến lãng phí của cải xã hội, vì vàng hao mòn nhiều trong lưu thông
- Thị trường sẽ thiếu phương tiện lưu thông do không đủ vàng để đúc tiền, khi lưu thông hàng
hóa và dịch vụ ngày cảng mở rộng.

b. Chế độ lưu thông tiền giấy
- Nguyên nhân ra đời và bản chất tiền giấy:
Khi tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, nó chỉ là trung gian thanh toán không phải
là mục đích của người bán hàng. Do đó, người ta không quan tâm đến hình thức tồn tại là tiền đủ

13


giá hay tiền đã hao mòn. Vì vậy, ngay trong chức năng phương tiện trao đổi đã tạo khả năng cho
sự ra đời tiền giấy có thể thay đổi tiền đủ giá.
- Bản chất tiền giấy:

Là dạng tiền dấu hiệu, thay thế cho tiền đủ giá khi thực hiện chức năng trao đổi
Chỉ mang giá trị danh nghĩa, giá trị nội tại của nó thường không đáng kể so với mệnh giá
Tiền giấy không phải do có giá trị mới lưu thông mà chính nhờ lưu thông mà nó có giá trị
- Giá trị tiền giấy và quy luật lưu thông tiền giấy:
Giá trị đại diện danh nghĩa của một đơn vị tiền giấy là con số được ghi trên tờ giấy bạc hay mệnh
giá của đồng tiền
- Quy luật lưu thông tiền giấy “ Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng
( hay bạc) do tiền đó tượng trưng mà lẽ ra phải lưu thông thật sự”

CÂU HỎI CHƢƠNG 2:
1.
2.
3.
4.

Tiền tệ có những chức năng gì? Chức năng nào là cơ bản và quan trọng nhất? Vì sao?
Các chức năng của tiền được vận dụng như thế nào trong hoạt động thực tiễn? Hãy cho biết
suy nghĩ của bạn về tiền như thế nào?
Chứng minh tiền tệ ra đời gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa
Một số người cho rằng trong tương lai củng với sự phát triển của tiền điện tử sẽ tiến tới một
xã hội không còn tiền mặt. Hãy cho biết ý kiến về vấn đề này .

14


Chương 3: TÍN DỤNG VÀ LÃI SUẤT
MỤC TIÊU CHƢƠNG:
Cung cấp cho sinh viên những vấn đề căn bản về tín dụng bao gồm sự ra đời và phát triển của
tín dụng, bản chất, chức năng, và các hình thức tín dụng. Về khía cạnh lãi suất, sinh viên sẽ nắm
được thế nào là lãi đơn, lãi kép, các loại lãi suất trong nền kinh tế cũng như cách tính toán của

các loại này

1.1 CƠ SỞ RA ĐỜI CỦA TÍN DỤNG:
Phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ
sở ra đời quan hệ tín dụng.
Vào hậu thời công xã nguyên thủy, xã hội có những chuyển biến sâu sắc, những thay đổi trong
các quan hệ kinh tế xã hội do kết quả của sự phát triển loài người qua lao động đã dẫn đến sự ra
đời của chế độ tư hữu.
Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện chế độ sở hữu về TLSX là cơ sở hình thành sự phân hóa xã hội:
của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, những người này trở nên giàu có và
chiếm giữ những đặc quyền đặc lợi của xã hội trong khi đó một nhóm người khác có thu nhập
thấp hoặc thu nhập không đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp những biến
cố rủi ro bất thường xảy ra. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi phải có sự ra đời của quan hệ tín
dụng để giải quyết nhu cầu mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hòa nhu cầu vốn
tạm thời của cuộc sống. Như vậy có thể kết luận, cơ sở lý luận ra đời của tín dụng là sự ra đời và
tồn tại của các quan hệ kinh tế tư hữu, gắn với diễn biến của quá trình phân công lao động xã
hội, tín dụng góp phần thực hiện phân bổ điều tiết sử dụng nguồn lực của cải xã hội hiệu quả
hơn.

1.1.1Khái niệm và bản chất tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở
hữu sang cho người sử dụng trong một thời gian nhất định và với một khoản chi phí nhất
định.Nói một cách khác, những người có nguồn vốn nhàn rỗi (người cho vay) trên sở tín nhiệm
(người đi vay) sẽ chuyển giao quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một khoản thời gian
nhất định, không chuyển giao quyền sở hữu vốn. Người đi vay khi hết thời hạn vay phải có trách
nhiệm hoàn trả lượng giá trị vốn gốc ban đầu và phần giá trị tăng thêm dưới dạng lợi tức tín dùng
( đã được thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay)
Quan hệ tín dụng được biểu hiện qua các phương thức rất đa đạng và phong phú nhưng nó vẫn
mang đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ làm thay đổi quyền sử dụng, không làm thay đổi quyền sử dụng vốn

- Qúa trình chuyển giao vốn phải có thời hạn và thời hạn này được xác định dựa trên sự thỏa
thuận giữa các bên tham gia quan hệ tín dụng
- Chủ sở hữu vốn được nhận lại một phần thu nhập dưới dạng lợi tức tín dụng.

15


Trong quan hệ tín dụng phải thể hiện đầy đủ ba đặc trưng trên, nếu thiếu một trong những đặc
trưng này thì sẽ không cấu thành quan hệ tín dụng. Điều này có thể là một trong những trường
hợp sau: nếu thiếu đặc trưng thứ ba thì trở thành quan hệ mượn, vì không có yếu tố chi phí người
đi vay phải trả cho người cho vay và là khoản thu nhập lợi tức người cho vay được nhận; nếu
thiếu đặc trưng thứ hai và thứ ba thì đây là quan hệ biếu tặng, cho luôn, còn nếu thiếu cả ba đặc
trưng thì không có quan hệ kinh tế xảy ra vì không có sự chuyển giao vốn.

1.1.2 Chức năng của tín dụng:
a. Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả
Chức năng này phản ánh sự vận động của vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, nói một cách
khác tín dụng trở thành cầu nối giữa cung – cầu vốn trong nền kinh tế.Người thiếu vốn có thể
nhận được vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh và người thừa vốn có cơ hội kiếm thêm lợi
nhuận .
Tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình
thức cho vay nhờ đó điều hòa vốn tín dụng từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Sự điều hòa mang
tính chất tạm thời và phải trả lãi.
Việc phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách: Phân phối
trực tiếp và phân phối gián tiếp.
Phân phối trực tiếp là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể
trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Phương pháp phân phối này được
thực hiện trong quan hệ tín dụng thương mại và việc phát hành trái phiếu của các công ty...
Phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung
gian như, ngân hàng, công ty tài chính...


b. Chức năng tiết kiệm tiền mặt
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng và phát triển đa dạng, từ đó
đã thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị
kinh tế. Điều này sẽ làm giảm được khối lượng giấy bạc trong lưu thông, làm giảm được chi phí
lưu thông giấy bạc ngân hàng, đồng thời cho phép nhà nước điều tiết một cách linh hoạt khối
lượng tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát
triển.

c. Chức năng giám đốc các hoạt động của nền kinh tế
Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhằm phục vụ yêu cầu tái
sản xuất, tín dụng có khả năng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của
nền kinh tế, do đó, tín dụng còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước
để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế. Chức năng giám đốc
kiểm soát thể hiện rõ ở việc kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của chủ thể đi vay và chủ thể
cho vay nhằm đảm bảo an toàn vốn và đạt được hiệu quả cao nhất khi thực hiện quan hệ tín
dụng.

16


Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt, gắn liền với việc phát triển
thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá
trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh tế.

1.1.3 Vai trò của tín dụng:
Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên
liên tục.
Trong một thời điểm trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp: Một nhóm “ tạm thời

thừa vốn” và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời trong một thời gian nhất định. Một
nhóm “tạm thời thiếu vốn” và muốn tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện
tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả mãn về vốn và dẫn đến
quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thương xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng
một cách tối đa.
Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn
để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh
tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được
điều đó bởi quan hệ tín dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và
đáp ứng nhu cầu đó.Tín dụng giúp các doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích lũy vốn, nhanh
chóng mở rộng đầu tư sản xuất vừa góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho
nền kinh tế
Tín dụng còn là công cụ tài trợ cho các ngành kém phát triển, các ngành kinh tế mũi nhọn trong
chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển đồng đều của các ngành kinh tế trong đó
có các ngành kinh tế trong điểm, mũi nhọn phát triển mạnh tạo động lực lôi cuốn các ngành kinh
tế khác.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư, ổn định đời sống tạo công ăn việc
làm và ổn định trật tự xã hội
Nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ và giá cả sẽ là điều kiện cơ bản
nâng cao dần đời sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Với tín dụng tiêu dụng, những nhà tín dụng hay nhà sản xuất kinh doanh cung cấp tín dụng dưới
hình thức hàng hóa tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt…đáp ứng nhu cầu trong
cuộc sống sinh hoạt, khi họ chưa có điều kiện về thu nhập. Một trong những ví dụ điển hình để
minh chứng cho điều này là thông qua quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những
người tàn tật đã có được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v.
Thứ tư. Là công cụ kết nối nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế cộng đồng thế giới, góp phần
phát triển mối quan hệ đối ngoại.

17



Sự phát triển của tín dụng không những trong phạm vi một nước mà còn mở rộng ra phạm vi
quốc tế, nhờ đó thúc đẩy, mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm giúp đỡ và
giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các nước
có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng phát triển

1.1.4 Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trƣờng
a.Tín dụng thương mại:
Khái niệm tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu
hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình
thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín
dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian
nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán
dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Như vậy, tín dụng thương mại góp phần
giải quyết nhanh hàng hóa cho người bán, giảm được những khoản chi phí không cần thiết; đồng
thời nó góp phần giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn phục vụ cho mục đích duy trì và
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm của tín dụng thương mại
- Tín dụng thương mại vốn cho vay dưới dạng hàng hóa hay một bộ phận của vốn sản xuất
chuẩn bị chuyển hóa thành tiền, chưa phải là tiền nhàn rỗi.
- Người cho vay (chủ nợ) và người đi vay (con nợ) đều là những doanh nghiệp trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Khối lượng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối lượng hàng hóa được
đưa ra mua bán chịu.
Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại
- Thương phiếu
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nhận nợ, được gọi là kỳ
phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu. Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận yêu

cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian
nhất định.
Đặc điểm của thương phiếu
- Thương phiếu mang tính trừu tượng: Biểu hiện qua đặc điểm là trên thương phiếu không ghi
rõ nguyên nhân, nội dung kinh tế nào dẫn đến phát sinh quan hệ tín dụng và sự ra đời của thương
phiếu, mà chỉ thể hiện các yếu tố sau: số tiền nợ, tên người nhận nợ, thời gian và địa điểm thanh
toán
- Thương phiếu mang tính bắt buộc: Trên thương phiếu có ghi dòng chữ: “Lệnh trả tiền vô điều
kiện “Khi tới hạn thanh toán người nhận nợ trên kỳ phiếu phải thanh toán số nợ mà không hiện
bất cứ lý do nào để trì hoãn nợ; điều này được pháp luật bảo hộ.
- Thương phiếu mang tính lưu thông. Trong thời gian thương phiếu còn hiệu lực, nó có thể
được sử dụng như một phương tiện thanh toán thông qua việc chuyển giao quyền sở hữu thương

18


phiếu từ người này sang người khác bằng thủ tục ký hậu chuyển nhượng vào tờ kỳ phiếu. Mỗi
lần chuyển nhượng là một khoản nợ được thanh toán.
Phân loại thương phiếu
Dựa trên cơ sở người lập:
- Thương phiếu do người mua chịu lập ra gọi là lệnh phiếu;
- Thương phiếu do người bán chịu lập ra gọi là hối phiếu.
Dựa trên phương thức ký chuyển nhượng:
- Thương phiếu vô danh: Là thương phiếu không ghi tên người thụ hưởng, loại này khi chuyển
nhượng không cần phải làm thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Ai cầm thương phiếu một cách hợp
pháp là người thụ hưởng.
- Thương phiếu đích danh: Là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng. Đối với loại này
người thụ hưởng không được phép chuyển nhượng vì người mắc nợ chỉ đồng ý thanh toán cho
chính người có tên trên kỳ phiếu.
- Thương phiếu ký danh: Là thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng. Là người sở hữu thương

phiếu, người thụ hưởng có thể chuyển nhượng nó cho người khác, nhưng khi chuyển giao kỳ
phiếu phải làm thủ tục ký hậu nhằm thiết lập quyền sở hữu hợp pháp cho người cầm tờ thương
phiếu
Ưu, nhược điểm của tín dụng thương mại
Ưu điểm của tín dụng thương mại
- Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm cho
chu kỳ sản xuất rút ngắn lại;
- Tín dụng thương mại tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực
tiếp mà không thông qua bất kỳ cơ quan trung gian nào;
- Tín dụng thương mại góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, làm giảm chi phí
lưu thông xã hội.
Nhược điểm của tín dụng thương mại
- Về quy mô: lượng giá trị cho vay bị hạn chế, chỉ giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ
có.
- Về thời gian: ngắn thường là dưới 1 năm;
- Về điều kiện kinh doanh, chu kỳ sản xuất: Thời gian doanh nghiệp muốn bán chịu không phù
hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần mua chịu thì tín dụng thương mại cũng không xảy ra.
- Về phạm vi: bị hạn chế chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp với nhau, và phải quen biết và tin
tưởng nhau
- Về sự phù hợp: Được cấp dưới hình thức hàng hoá, vì vậy doanh nghiệp bán chịu chỉ có thể
cung cấp cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp có nhu cầu đúng thứ hàng
hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc kinh doanh.

b. Tín dụng ngân hàng
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức
kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó Ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi

19



vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng (TCTD) khi đến hạn thanh toán.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian , quan
hệ tín dụng ngân hàng được thể hiện qua hai khâu:
Khâu huy động vốn: Ngân hàng là một chủ thể đi vay, huy động khai thác các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi chưa sử dụng để hình thành nên nguồn vốn cho vay. Hoạt động này được thực hiện
dưới hình thức ngân hàng huy động tiền gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp, vay mượn qua các
hợp đồng hoặc dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng trên thị trường.
Khâu cho vay: Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng sẽ thực hiện phân phối cho vay
cấp tín dụng lại cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Đối tượng cho vay chủ yếu
là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với mục đích sử dụng vốn tín dụng cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ
- Ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay;
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô
phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa;
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa vốn giữa các chủ thể trong nền
kinh tế.
Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ và bổ sung cho nhau.
Hoạt động tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng tín dụng ngân hàng thông qua
nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố hoặc tái chiết khấu. Đồng thời hoạt động của tín dụng ngân hàng
góp phần khắc phục những hạn chế của tín dụng thương mại, mở rộng cung ứng vốn cho các chủ
thể kinh tế, tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển.
Công cụ lưu thông của tín dụng ngân hàng
- Công cụ lưu thông của tín dụng ngân hàng là kỳ phiếu ngân hàng; là một loại chứng từ có giá
của ngân hàng hay là một giấy nhận nợ của ngân hàng phát hành cho các pháp nhân và thể nhân,
nó được lưu hành không thời hạn trên thị trường.
- Kỳ phiếu ngân hàng do ngân hàng phát hành dựa trên quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với

doanh nghiệp, cư dân và nhà nước. Nó được ra đời trên hai cơ sở bảo đảm bằng vàng và tín
dụng. Kỳ phiếu ngân hàng còn được gọi là giấy bạc ngân hàng và trở thành tiền tệ.
Ưu, nhược điểm của tín dụng ngân hàng
Ưu điểm của tín dụng ngân hàng
- Thời hạn cho vay linh hoạt - ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn của
khách hàng;
- Về khối lượng tín dụng lớn;
- Về phạm vi được mở rộng với mọi ngành, mọi lĩnh vực.
Nhược điểm của tín dụng ngân hàng

20


- Tín dụng ngân hàng có độ rủi ro cao - gắn liền với chính ưu điểm do việc ngân hàng có thể cho
vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có, hoặc có sự chuyển đổi thời hạn và phạm vi tín
dụng rộng.

c. Tín dụng nhà nước
Khái niệm tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã
hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của
ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà
nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển,
và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô. Trong tín dụng nhà nước, nhà
nước vừa là chủ thể đi vay vừa là chủ thể cho vay nhằm mục đích thực hiện chức năng và nhiệm
vụ kinh tế xã hội của nhà nước. Tìn dụng nhà nước do chính phủ giao cho ngành tài chính hoặc
kết hợp giữa ngành tài chính và ngành ngân hàng tổ chức thực hiện
Đặc điểm của tín dụng nhà nước
- Chủ thể là nhà nước, các pháp nhân và thể nhân;
- Hình thức đa dạng, phong phú;

- Tín dụng nhà nước chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian.
Công cụ lưu thông của tín dụng nhà nước
Khi nhà nước vay
- Tín phiếu kho bạc;
- Trái phiếu kho bạc;
- Trái phiếu đầu tư;
Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình;
Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển;
- Công trái;
- Trái phiếu chính phủ quốc tế.
Khi nhà nước cho vay
- Cho vay đầu tư;
- Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư;
- Bảo lãnh tín dụng.
Ưu, nhược điểm của tín dụng nhà nước
Ưu điểm của tín dụng nhà nước
- Duy trì hoạt động thường ngày của nhà nước; đòn bẩy kinh tế quan trọng để nhà nước điều
tiết giữa tích lũy và tiêu dùng
- Góp phần xây dựng cơ sở vật chất hiện đại; điều tiết lưu thông trên thị trường
- Góp phần vào nghĩa vụ quốc tế, vì quan hệ ngày càng phát triển, đôi khi nhà nước không thể
từ chối nghĩa vụ cho vay đối với nước ngoài;
- Kiểm soát quy mô đầu tư, điều tiết cơ cấu đầu tư, bố trí hợp lý cơ cấu ngành nghề, tạo nên
một cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các vùng lãnh thổ.

21


- Thay đổi một cách thỏa đáng sự phân bổ nguồn lực tài chính trong quá trình điều tiết việc
phân phối thu nhập của xã hội.
- Tạo điều kiện phát triển tín dụng ngân hàng.

Nhược điểm của tín dụng nhà nước
Rủi ro là vỡ nợ của nhà nước, do tính toán kỹ nhu cầu vay và sử dụng vốn vay không hiệu quả;

2. LÃI SUẤT
2.1 KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI LÃI SUẤT:
a. Khái niệm lãi suất:
Có thể khái niệm lãi suất là giá cả mà người đi vay phải trả cho việc sử dụng vốn của người cho
vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay
trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ một người cho vay. Cụ thể, lãi suất là phần trăm tiền gốc
phải trả cho một số lượng nhất định của thời gian mỗi thời kỳ. Ví dụ, một công ty nhỏ vay vốn từ
một ngân hàng để mua tài sản mới cho doanh nghiệp của mình, và ngược lại người cho vay nhận
được tiền lãi theo lãi suất quy định cho việc trì hoãn sử dụng các khoản tiền và thay vào đó bằng
việc cho vay nó cho người vay. Lãi suất thường được thể hiện như một tỷ lệ phần trăm của tiền
gốc trong một khoảng thời gian một năm
Lãi suất phản ánh giá của việc sử dụng tiền của người khác, nên việc xác định chính xác mức lãi
suất phải trả cũng như mức lãi suất được hưởng là một vấn đề quan trọng khi thực hiện việc cấp
hay nhận các khoản tín dụng.
Ta có công thức:
Lãi suất = (Lợi tức (tiền vay): Số vốn bỏ ra ban đầu) x 100%

b. Phân loại lãi suất:
Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu đƣợc:
Lãi suất được chia thành 2 loại:
Lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) là lãi suất được tính theo giá trị danh nghĩa, không kể
đến tác động của lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trên hợp đồng
tín dụng. Loại lãi suất này được niêm yết trên báo chí, niêm yết tại các ngân hàng, truyền thông
khác
- Lãi suất thực tế (real interest rate) là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi
về lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế có mối liên hệ được thể hiện trong phương trình sau:

Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Vì vậy, lãi suất thực tế còn được định nghĩa là lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Người ta
có thể tính trước lãi suất thực tế dựa trên lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát dự tính
Nếu gọi i là lãi suất thực, i là lãi suất danh nghĩa và p là lạm phát thì lãi suất thực được tính như
sau:
ir = in- p
Để thấy rõ hơn sự khác nhau giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế ta nghiên cứu ví dụ sau:
Giả sử, 1 hộ gia đình gởi 1 khoản tiền tiết kiệm $100 vào ngân hàng với kỳ hạn 1 năm và mức

22


tiền lãi là $10. Vào cuối năm số dư của họ là $110. Trong trường hợp này, lãi suất danh nghĩa là
10%./năm. Giả sử lạm phát của nền kinh tế là 10%/ năm, như vậy số tiền $110 vào cuối năm chỉ
mua được 1 số lượng hàng hóa bằng $100 ở đầu năm. Trong trường hợp này, lãi suất thực là
bằng 0.
Như vậy, có thể nói rằng lãi suất thực tế là chỉ dẫn tốt hơn cho người dân khi quyết định gửi tiền
hay vay tiền từ ngân hàng, để đầu tư vào chứng khoán công ty hay mua trái phiếu chính phủ.
Nếu chỉ nhìn vào lãi suất danh nghĩa có thể có những đánh giá sai về thị trường tín dụng. Bởi vì
lãi suất danh nghĩa cao không có nghĩa là thị trường tín dụng đang rất căng thẳng do chi phí đi
vay quá cao. Nếu tỷ lệ lạm phát cao thì chi phí đi vay thực ra rất thấp.
Căn cứ vào tính chất của các khoản vay:
Dựa vào tính chất của các khoản vay, có thể chia lãi suất ra thành:
Lãi suất tiền gửi ngân hàng: là loại lãi suất mà các ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào
ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào các loại tiền gửi:
không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm Trật tự lãi suất tiền gửi được hình thành theo nguyên tắc: lãi
suất tiền gửi có kỳ hạn > lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Lãi suất tín dụng ngân hàng: là loại lãi suất mà người vay vốn phải trả cho ngân hàng khi vay
vốn từ ngân hàng. Lãi suất tín dụng ngân hàng có nhiều loại tùy theo các loại hình vay: ngắn, dài
hạn; (không) có tài sản đảm bảo… về nguyên tắc: lãi suất tín dụng ngân hàng > lãi suất tiền gửi

ngân hàng; lãi suất cho vay dài hạn > lãi suất cho vay ngắn hạn; lãi suất cho vay tiêu dùng > lãi
suất cho vay sản xuất kinh doanh.
Lãi suất chiết khấu: là lãi suất được các ngân hàng thương mại áp dụng khi cho khách hàng vay
nợ dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá khi chưa đến kỳ hạn thanh toán. Lãi suất chiết
khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi
ngân hàng cho khách vay. Vậy, lãi suất chiết khấu là loại lãi suất trả trước mà người đi vay trả
cho ngân hàng trước khi sử dụng tiền vay. Việc định ra lãi suất tái chiết khấu được coi là một
công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài chính. Thông thường
mỗi khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên hay giảm xuống, kéo theo nâng hay giảm lãi suất cơ bản.
Ví dụ, doanh nghiệp A đến ngân hàng xin chiết khấu 1 thương phiếu có mệnh giá $10.000, lãi
suất chiết khấu 10%/ năm, thời hạn 6 tháng. Vậy ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay số tiền:
10.000 – (10.000 x 6%)/12% = $9,500
Và ngân hàng đã thu lãi trước là:
10.000 – 9.500 = $500
Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất được ngân hàng trung ương áp dụng khi cho các ngân hàng
thương mại vay dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá khi chưa đến kỳ hạn thanh toán. Lãi
suất tái chiết khấu được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá giấy tờ có giá và được khấu trừ
ngay khi cho các ngân hàng thương mại vay.
Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thương mại trên thị trường liên
ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn vay trên thị
trường liên ngân hàng. Lãi suất này chịu sự chi phối bởi lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng (còn gọi là lãi suất
hàng ngày)

23


Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng thương mại sử dụng để xây dựng lãi suất kinh
doanh. Mỗi quốc gia có quy định về lãi suất cơ bản khác nhau, nó có thể do Ngân hàng trung
ương ấn định (ví dụ ở Nhật: là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do bản thân các ngân

hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình.

2.2 PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT:
Do mỗi công cụ nợ có cách tính trả lãi khác nhau, nên nếu có cùng một mức lãi suất thì số tiền
cuối cùng mà nhà đầu tư nhận được từ việc đầu tư vào các công nợ cũng sẽ khác. Vì thế, cần
thiết phải xây dựng các phép đo lãi suất để xác định chính xác giá cả tín dụng, đồng thời giúp
cho các nhà đầu tư biết và lựa chọn nên đầu tư vào công cụ nợ nào sẽ có thu nhập tiền lời cao
hơn.

2.2.1Phƣơng pháp tính lãi:
Có hai phương pháp tính lãi: lãi đơn và lãi kép
- Cách tính lãi đơn:
Lãi đơn là lãi suất áp dụng trong trường hợp hết mỗi kỳ hạn của lãi suất, người đi vay phải hoàn
trả cho người cho vay tiền lãi của khoản vốn vay.
Theo phương pháp này, cứ mỗi $1 cho vay, thì nhà đầu tư nhận được (I x i) tiền lãi. Nếu cho vay
PV đô la thì nhà đầu tư nhận được PV x i. Cho đến khi đáo hạn thì nhà đầu tư thu về tiền gốc và
lãi: PV + (PV x i). Từ đó có thể khái quát công thức tính lãi đơn như sau: FV = PV (1+ i). Trong
đó PV là tiền gốc ban đầu, i là lãi suất suốt trong kỳ cho vay, FV là tổng số tiền nhà đầu tư nhận
được khi đáo hạn.
Nếu như i* lãi suất tính theo tháng, thì công thức tính lãi đơn ở trên được viết thành
FV = PV (1+n x i*). Trong đó n là số tháng trong kỳ cho vay.
Phương pháp tính lãi đơn thường được áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn truyền thống
(vay thương mại, tiền gửi tiết kiệm…), cách tính toán đơn giản. Tuy nhiên trong trường hợp các
khoản tín dụng dài hạn, quy mô lớn, để đảm bảo công bằng, chính xác chi phí sử dụng vốn, cần
phải sử dụng phương pháp tính lãi kép.
Ví dụ: Một khoản vay 1.000.000 VNĐ hôm nay , người đi vay phải hoàn trả tiền lãi cho người
cho vay cuối năm là 1% thì 1% là lãi suất đơn và khoản vay như vậy gọi là vay đơn.
- Cách tính lãi kép:
Lãi suất kép là lãi suất áp dụng trong trường hợp hết mỗi kỳ hạn của lãi suất, lãi đơn trong kỳ
được gộp vào vốn để tính lãi cho kỳ tiếp theo.

Ví dụ: Nhà đầu tư A cho vay với số tiền PV và lãi suất i/tháng thời gian vay n tháng. Có thể khái
quát công thức tính lãi kép như sau.
Sau tháng thứ 1 người đi vay nhận được:
FV1= PV (1+i)
Sau tháng thứ 2:
FV2 = FV1 (1+i) = PV(1+i)2
Sau tháng thứ 3:
FV3= FV2 (1+i) = PV(1+i)3

24


Cứ như vậy sau n tháng, tổng số tiền thu về sẽ là:
FVn= FVn-1 (1+i) = PV(1+i)n
Theo cách tính lãi kép, tiền lãi của kỳ trước được cộng vào tiền gốc để tính lãi kỳ sau. Căn cứ
khoa học của phương pháp này là người đi vay bắt đầu từ tháng hai không chỉ sửa dụng tiền gốc
ban đầu mà còn là tiền lãi phát sinh của tháng trước. Tiền lãi mà người cho vay nhận được bây
giờ gồm 2 phần: phần thứ nhất là tiền lãi tính trên tiền gốc ban đầu (cố định); phần thứ hai là tiền
lãi tính trên lãi phát sinh ở kỳ trước đó và tăng dần theo các năm. Theo đó, số vốn của người cho
vay tăng lên hàng tháng theo cấp số nhân với công bội là (1 + i).

2.2.2 Hiện giá:
Lãi suất hiện giá là lãi suất tính ra giá thành hiện hành theo phương pháp hiện hành hóa, thể hiện
chính xác giá thực tế của khoản vay và hiệu suất thực tế của khoản cho vay, theo phần trăm của
vốn, cho một thời kỳ nhất định.
Gía trị hiện tại có được bằng cách tính xem hôm nay cần bao nhiêu tiền đầu tư với lãi suất
hiện hành để thu về đúng dòng thu nhập tương lai đang xem xét. Và ngược lại,với giá hiện tại và
dòng thu nhập tương lai có thể xác định được lãi suất hiện giá, phải dựa vào công thức xác định
giá trị hiện tại.
Để xác định giá trị tương lai của 1 lượng tiền hiện tại có công thức:

FVn = PV x ( 1+i)n
Trong đó, (1+i)n là hệ số giá trị tương lai ( future value factor). Với bất kỳ số tiền hiện tại (PV)
để tính giá trị tương lai của nó (FV) sau một khoảng thời gian xác định với n, với mức lãi suất
cho trước I, chúng ta tính được hệ số giá trị tương lai rồi nhân với PV.Ngược lại để tính giá trị
hiện tại (PV) của một khoản tiền thu được trong tương lai (FV) sau một khoảng thời gian n,
chúng ta áp dụng công thức: PV = FV
(1+i) n

Trong đó 1/(1+i)n là hệ số giá trị hiện tại ( present value factor)
Phương pháp hiện giá rất hữu ích trong việc lựa chọn các công cụ tín dụng để đầu tư. Kỹ thuật
hiện giá còn gọi là kỹ thuật chiết khấu các luồng tiền; và lãi suất được sử dụng để chiết khấu gọi
là lại suất chiết khấu. Qua kỹ thuật hiện giá, chúng ta thấy được hiện tại giá trị của các công cụ
trên thị trường với mức lãi suất i nào đó.

2.2.3 Lãi suất hoàn vốn (Yield to Maturity)
Lãi suất hoàn vốn là loại lãi suất làm cân bằng hiện giá của tất cả khoản thu nhận được từ một
công cụ nợ với giá trị hiện tại của nó.Vì khái niệm tiềm ẩn trong việc tính lãi suất hoàn vốn có
một ý nghĩa tốt về mặt kinh tế, các nhà kinh tế coi nó là phép đo lãi suất chính xác nhất.
Để hiểu được lãi suất hoàn vốn, chúng ta xem xét một số công cụ nợ phổ biến trên thị trường tín
dụng. Căn cứ vào cách thức trả lãi và tiền gốc, có thể chia các công cụ nợ thành bốn nhóm: nợ
đơn, trái phiếu chiết khấu, trái phiếu coupon và nợ thanh toán cố định. Các loại công cụ nợ khác
nhau căn bản về kỳ hạn thanh toán (Timing of payment)
- Nợ đơn (Simple loan)

25


×