Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận sử dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học Đại học tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.63 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN
Học phần: Sử dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ
trong dạy học Đại học

Chủ đề tiểu luận:
Sử dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ thông tin trong đổi mới phương
pháp dạy học Đại học tại Việt Nam

Huế, 6/2016
Đặt vấn đề
Những thành tựu của khoa học-công nghệ (KH-CN) đang làm thay đổi mạnh
mẽ xã hội loài người, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ
nguyên của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức, tác động tới tất cả mọi lĩnh vực,
làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Kho
tàng kiến thức của nhân loại ngày càng đa dạng và phong phú. Trong điều kiện đó,
việc toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu khách quan của các nước
đang phát triển. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, Internet tạo điều
kiện thuận lợi cho giao lưu, hội nhập văn hóa và cũng là điều kiện thuận lợi cho
việc đổi mới và phát triển giáo dục. Nhà trường từ chỗ hoạt động khép kín chuyển
sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội, gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu KH-CN
và ứng dụng; Giáo viên (GV) thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển sang cung cấp


cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách tự lực, có phân tích và
tổng hợp.
Trong bối cảnh quốc tế đó, để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đất nước,
nền giáo dục Việt Nam phải thực hiện một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện về nội
dung lẫn phương pháp dạy học (PPDH) như tinh thần của nghị quyết TW2 - khóa
VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu: “Đội mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện


hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh, nhất là sinh viên đại học”. Đậy chính là cơ sở để chúng ta đặc biệt
quan tâm đến “Sử dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ thông tin trong đổi mới
phương pháp dạy học Đại học hiện nay”.

Tổng quan về phương tiện dạy học với đổi mới phương pháp dạy học
Phương tiện dạy học

Theo Từ điển tiếng Việt thì ”Phương tiện là cái dùng để làm một việc gì, để
đạt một mục đích nào đó” và ”Thiết bị là tổng thể nói chung những máy móc,
dụng cụ, phụ tùng cần thiết cho một hoạt động nào đó” (Từ điển tiếng Việt)
Cho đến nay, trong giáo dục nói chung và trường học nói riêng đã và đang
sử dụng một số thuật ngữ khác nhau khi nói về phương tiện, thiết bị phục vụ cho
quá trình dạy học như: cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, thiết bị dạy học, thiết
bị trường học, dụng cụ học tập, giáo cụ trực quan, đồ dùng dạy học, tài liệu, học
liệu v.v... Trong đó có thể hiểu:


- Cơ sở vật chất bao gồm phòng thí nghiệm, vườn trường, phòng học, bàn
ghế, các thiết bị kĩ thuật phục vụ các hoạt động của nhà trường như máy tính, máy
in, máy photocopy, máy ảnh ...
- Phương tiện dạy học là toàn bộ những trang thiết bị, đồ dùng, dụng cụ
được sử dụng phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy và học tập trong nhà trường. Ví
dụ: hệ thống tăng âm, loa, micro; ti vi và các đầu đọc VIDEO, VCD, DVD; các
loại máy chiếu phim dương bản, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa phương tiện,
máy vi tính; các loại tranh, ảnh, tranh giáo khoa, bản đồ, bảng biểu; các loại mô
hình, vật thật; các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm; máy móc, thiết bị, dụng cụ dạy học
thực hành v.v... Đôi khi, người ta coi tất cả các phương tiện kể trên cũng thuộc về
cơ sở vật chất của trường học.
Có lẽ sử dụng khái niệm theo Từ điển Bách khoa Việt Nam là thích hợp hơn

cả: ”Phương tiện dạy học (còn gọi là đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học) là một vật
thể hoặc một tập hợp các vật thể mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học để
nâng cao hiệu quả của quá trình này, giúp học sinh lĩnh hội khái niệm, định luật,...
hình thành các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ cần thiết” (Từ điển BK Việt Nam).
Xét theo nghĩa hẹp, giữa ”thiết bị” và ”phương tiện” có điểm giống và khác
nhau, trong đó ”thiết bị” có nội hàm hẹp hơn và thường để chỉ có một phương tiện
kĩ thuật nào đó. Tuy nhiên, trong thực tế người ta thường sử dụng hai thuật ngữ
này với cách hiểu như nhau.
Vai trò của phương tiện trong quá trình dạy học

Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển thì phương tiện dạy học cũng
ngày càng trở thành yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới chất lượng và hiệu
quả của quá trình dạy học. Đặc biệt, trong các môn học thuộc ngành khoa học tự
nhiên thì có những nội dung sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu phương tiện
dạy học.


Trước đây, khi đề cập tới các thành tố của quá trình dạy học thường chỉ chú
trọng tới 3 thành phần là mục đích, nội dung và phương pháp dạy học. Ngày nay,
do sự phát triển về chất, quá trình dạy học được xác định gồm 6 thành tố là: mục
đích (hẹp hơn là mục tiêu), nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức
tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá. Các thành tố này có quan hệ tương tác hai
chiều lẫn nhau (Hình 1.1).
Trong sơ đồ trên, nếu xét về phương diện nhận thức thì phương tiện dạy học
vừa là cái để học sinh “trực quan sinh động”, vừa là phương tiện để giúp quá trình
nhận thức được hiệu quả.
Nghiên cứu về vai trò của phương tiện dạy học, người ta còn dựa trên vai trò
của các giác quan trong quá trình nhận thức và đã chỉ ra rằng:
- Kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5%
qua sờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn (Tô Xuân Giáp).

Mục đích DH

Nội dung DH

Phương pháp
DH

Phương tiện
DH

Tổ chức DH

Kiểm tra - đánh
giá kết quả DH


Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình dạy học
- Tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được;
30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được;
80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được (Tô
Xuân Giáp).
- Cũng theo Tô Xuân Giáp, ở Ấn độ, người ta cũng tổng kết: tôi nghe – tôi
quên; tôi nhìn – tôi nhớ; tôi làm – tôi hiểu.
Những số liệu trên cho thấy, để quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần
phải thông qua quá trình nghe – nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương tiện
(thiết bị, công cụ) để tác động và hỗ trợ.
Vai trò đối với giáo viên
- Hỗ trợ hiệu quả cho giáo viên trong quá trình tổ chức các hoạt động nhận
thức cho người học bởi đảm bảo quá trình dạy học được sinh động, thuận tiện,
chính xác.

- Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm người học lĩnh hội đủ nội
dung học tập một cách vững chắc.
- Giảm nhẹ cường độ lao động của giáo viên, do đó nâng cao hiệu quả dạy
học.
Vai trò đối với người học
- Kích thích hứng thú học tập cho người học, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình lĩnh hội kiến thức của người học.
- Giúp người học tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.


- Là phương tiện giúp người học hình thành và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo
cả thao tác trí tuệ lẫn thao tác vật chất. Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực
tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống.
Đổi mới phương pháp dạy học

Thực trạng
Ở Việt Nam hiện nay, các kiểu PPDH ở ĐH được sử dụng phổ biến gồm:
thông báo-tái hiện, làm mẫu-bắt chước. Mặc dù các kiểu PPDH mới như: giải
thích-tìm kiếm bộ phận, nêu vấn đề-nghiên cứu,… ngày càng được chú ý nhiều
hơn, nhưng hầu hết các trường ĐH và CĐ ở Việt Nam hiện nay vẫn còn sử dụng
PPDH cũ, vẫn còn theo lối truyền thụ một chiều, “thầy đọc-trò chép”, chưa phát
huy đầy đủ tính tích cực, độc lập của SV và bồi dưỡng cho họ năng lực tự học, tự
nghiên cứu. Các phương pháp thuyết trình, diễn giảng, vẫn là các PPDH chủ yếu.
QTDH vẫn còn mang nặng tính lý thuyết, cách dạy theo kiểu truyền thống là dùng
lời, người học dùng phương pháp nghe và ghi nhớ một cách thụ động. Việc tổ chức
hướng dẫn cho SV tự học, đọc sách, semina, thảo luận,… chưa được chú trọng
đúng mức. Giờ thực hành, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm còn ít, chưa đặt ra yêu cầu
cao đối với SV trong học tập, trong nghiên cứu khoa học. Phần lớn SV chỉ biết
cách học khi sắp thi tốt nghiệp, nên hiệu quả học tập trong nhà trường là rất thấp,
khả năng tự học, tự phát triển kém, quen với nghe và ghi, không quen với tự đọc và

tự tóm lược,… Phần lớn các đề thi cuối môn học chỉ nhằm đánh giá SV thuộc bài
đến mức nào, kết quả phổ biến là SV chỉ học theo bài giảng của thầy, không tham
khảo tài liệu, không học theo lối tư duy phê phán, tư duy sáng tạo để dẫn đến có
năng lực giải quyết vấn đề.
Với các PPDH như trên, tất yếu dẫn đến cách học thụ động, đối phó của SV.
Theo số liệu điều tra của một số nhà nghiên cứu giáo dục thì có tới hơn 70% số SV
chỉ học trong vở ghi. Số SV đọc thêm tài liệu tham khảo, liên hệ thực tế, vận dụng


kiến thức vào thực tiễn chiếm tỷ lệ không cao. Chỉ có 7,6% số SV trong quá trình
học biết tự nêu và giải quyết vấn đề. Với kết quả như trên, rõ ràng các PPDH ở ĐH
và CĐ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo của xã hội.
Định hướng đổi mới
Đổi mới PPDH được hiểu là đổi mới nội dung, giáo trình, cách tiến hành các
phương pháp dạy và phương pháp học, đổi mới các phương tiện và hình thức triển
khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp
truyền thống và vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy - học tiên tiến nhằm
nâng cao tính chủ động, sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, phát huy
tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nâng cao năng lực tự học,
tự nghiên cứu, nâng cao các kỹ năng cần thiết về nghề nghiệp, kỹ năng làm việc
với người khác, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng trình bày, thuyết
phục, kỹ năng tự phát triển.
Áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông mới là công nghệ trực tiếp
sinh ra nền kinh tế tri thức và cũng tạo nên mầm mống của một cuộc cách mạng
thực sự, trong đó những cơ cấu cứng nhắc theo truyền thống về mối quan hệ
“không gian- thời gian-trật tự thang bậc” sẽ bị phá vỡ.
Áp dụng công nghệ, đặc biệt CNTTTTM để đổi mới việc dạy học ĐH là đòi
hỏi quan trọng để nâng cao hiệu quả của việc dạy học. Tuy nhiên việc chọn lựa và
áp dụng công nghệ nào ở mức độ nào phải xuất phát từ khoa học về nhận thức, tức
phải dựa vào các nguyên tắc sư phạm để lựa chọn công nghệ. Không được coi

thường công nghệ cổ điển: Công nghệ phấn - bảng vẫn có chỗ đứng vững chắc của
nó, công nghệ sử dụng overhead là công nghệ rất đa năng, rẻ tiền và hiệu quả cao.
Đa phương tiện là công cụ cực kỳ mạnh mẽ hỗ trợ cho việc dạy học. Mạng
Internet là công cụ để tìm kiếm khai thác thông tin và học tập từ xa.


Những thành tựu của CN thông tin, các ngành khoa học: các phần mềm
chuyên dụng, phần mềm tính toán, các thí nghiệm mô phỏng,…là công cụ quan
trọng phục vụ dạy học.
Nhà giáo phải từng bước tiếp cận, làm chủ môi trường công nghệ thông tin
và truyền thông mới, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý cho một sự thay đổi
căn bản vai trò của bản thân trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và đổi mới PPDH.
Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

Sơ lược về ứng dụng CNTT trong dạy học
Ngày nay CNTT đang được ứng dụng hết sức rộng rãi và hiệu quả vào các
lĩnh vực hoạt động của con người, tạo nên những thay đổi to lớn trong xã hội, trong
đó có nhà trường. Để đi đến việc ứng dụng CNTT vào QTDH trước tiên cần tìm
hiểu sơ bộ về CNTT.
Công nghệ được hiểu tổng quát là sự áp dụng của khoa học vào các hoạt
động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội.
Trước xu hướng toàn cầu hóa và việc hình thành một nền kinh tế “mạng”, đã
dẫn đến mối quan hệ khắng khít không thể tách rời giữa máy vi tính (MVT) với
mạng viễn thông và tạo nên một khái niệm mới là CNTT và truyền thông (tiếng
Anh là Information and Communication Technology viết tắt là ICT). Đây là một
ngành công nghệ mới đang phát triển với tốc độ cao. Đó là tổng thể các phương
tiện xử lý dữ liệu, giữ, truyền và phản ánh các sản phẩm thông tin, được cấu trúc
thành ba bộ phận:
- Bộ phận công nghiệp truyền thông: mạng điện thoại, mạng cáp, mạng vệ
tinh, mạng di động, mạng phát thanh truyền hình,…

- Bộ phận công nghiệp máy tính: máy tính, thiết bị điện tử, CN phần cứng
(chủ yếu là tạo ra phương tiện, công cụ để phục vụ trực tiếp CN truyền thông), CN


phần mềm (nhằm nâng cao, mở rộng, phát triển hiệu quả của CN phần cứng, của
máy tính điện tử,…) và các dịch vụ khác (thương mại điện tử, thư điện tử,…)
- Công nghiệp nội dung thông tin: gồm các dữ liệu, số liệu, hình ảnh, các
hoạt động, của xã hội về mọi mặt: văn hóa, thể thao, nghệ thuật, KH-CN, giáo dụcđào tạo, vui chơi-giải trí,… ở trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Nói chung, đó
là kho tư liệu khổng lồ của nhân loại.
Ba bộ phận trên liên kết lại với nhau tạo thành một tiềm năng vô cùng to lớn.
Đó là mạng thiết bị kỹ thuật đa năng, tạo thành xương sống của cơ sở hạ tầng
thông tin quốc gia và toàn cầu.
Thực chất của quá trình ứng dụng CNTT trong dạy học là sử dụng các
phương tiện để khuyếch đại, mở rộng khả năng nghe nhìn và trao cho máy các thao
tác truyền đạt, xử lý thông tin. Các phương tiện đó được xem như các công cụ lao
động trí tuệ mới bao gồm: MVT, video, máy chiếu qua đầu (over head), máy chiếu
tinh thể lỏng (LCD-Projector), máy quay kỹ thuật số, các phần mềm cơ bản: xây
dựng thí nghiệm ảo, thí nghiệm mô phỏng, CD-ROM,… đặc biệt là mạng Internet.
Trong đó MVT đóng vai trò là trung tâm phối hợp, xử lý mọi hình thức thể hiện và
thao tác truyền đạt thông tin. MVT kết hợp với một số phần mềm tạo nên một công
cụ hỗ trợ có nhiều chức năng to lớn như: có thể tạo nên, lưu giữ, sắp xếp, sửa đổi,
hiển thị lại,… một khối lượng thông tin vô cùng lớn một cách nhanh chóng, dễ
thực hiện. Do vậy, MVT được xem như là một công cụ dạy học không thể thiếu
trong một xã hội hiện đại.
Ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp dạy học
Trong những năm gần đây, công nghệ thông tin được coi là một trong những
ngành khoa học phát triển với tốc độ nhanh nhất. Được như vậy vì đây là một
ngành khoa học phục vụ và mang lại hiệu quả rõ rệt cho hầu hết các ngành nghề



khác nhau trong xã hội. Tuy vậy, tại Việt Nam, tiềm năng to lớn mà công nghệ
thông tin có thể mang lại cho giáo dục chưa được khai thác một cách thoả đáng.
Xét cho quá trình giáo dục, với sự đa dạng và phong phú của các phần mềm dạy
học, công nghệ thông tin hoàn toàn có thể trợ giúp cho quá trình dạy học bởi những
lý do dưới đây:
Thứ nhất, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học sẽ khiến máy
tính trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình dạy học, cụ thể là:
Khả năng biểu diễn thông tin: Máy tính có thể cung cấp thông tin dưới dạng
văn bản, đồ thị, hình ảnh, âm thanh... Sự tích hợp này của máy tính cho phép mở
rộng khả năng biểu diễn thông tin, nâng cao việc trực quan hoá tài liệu dạy học.
Khả năng giải quyết trong một khối thống nhất các quá trình thông tin, giao
lưu và điều khiển trong dạy học: Dưới góc độ điều khiển học thì quá trình dạy học
là một quá trình điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Với một chương
trình phù hợp, máy tính có thể điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh
trong việc cung cấp thông tin, thu nhận thông tin ngược, xử lý thông tin và đưa ra
các giải pháp cần thiết giúp hoạt động nhận thức của học sinh đạt kết quả cao.
Tính lặp lại trong dạy học: Khác với giáo viên, máy tính có thể lưu trữ một
thông tin nào đó, cung cấp và lặp lại nó cho học sinh đến mức đạt được mục đích
sư phạm cần thiết. Trên cơ sở này, sự phát triển của từng cá thể học sinh trong quá
trình dạy học trở thành hiện thực. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc cá thể
hoá trong quá trình dạy học.
Khả năng mô hình hoá các đối tượng: Đây chính là khả năng lớn nhất của
máy tính. Nó có thể mô hình hoá các đối tượng, xây dựng các phương án khác
nhau, so sánh chúng từ đó tạo ra phương án tối ưu. Thật vậy, có nhiều vấn đề, hiện
tượng không thể truyền tải được bởi các mô hình thông thường, ví như các quá


trình xảy ra trong lò phản ứng hạt nhân, hiện tượng diễn ra trong xilanh của động
cơ đốt trong, từ trường quay trong động cơ không đồng bộ ba pha, chuyển động
của điện tử xung quanh hạt nhân... trong khi đó máy tính hoàn toàn có thể mô

phỏng chúng.
Khả năng lưu trữ và khai thác thông tin: Với bộ nhớ ngoài có dung lượng
như hiện nay, máy tính có thể lưu trữ một lượng lớn dữ liệu. Điều này cho phép
thành lập các ngân hàng dữ liệu. Các máy tính còn có thể kết nối với nhau tạo
thành các mạng cục bộ hay kết nối với mạng thông tin toàn cầu Internet. Đó chính
là những tiền đề giúp giáo viên và học sinh dễ dàng chia sẻ và khai thác thông tin
cũng như xử lý chúng có hiệu quả.
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể hỗ trợ cho nhiều
hình thức dạy học khác nhau như dạy học giáp mặt (face to face); dạy học từ xa
(distance learning); phòng đào tạo trực tuyến (online training lab); học dựa trên
công nghệ web (web based training); học điện tử (e-learning)...đáp ứng được nhu
cầu học tập ngày càng cao của các thành phần khác nhau trong xã hội.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dẫn đến việc giao cho
máy tính thực hiện một số chức năng của người thầy giáo ở những khâu khác nhau
của quá trình dạy học. Nhờ đó, có thể xây dựng những chương trình dạy học mà ở
đó máy thay thế một số công việc của người giáo viên... Cách dạy này đã thể hiện
nhiều ưu điểm về mặt sư phạm như khuyến khích sự làm việc độc lập của học sinh,
đảm bảo mối liên hệ ngược và cá biệt hoá quá trình học tập.
Một số ứng dụng về CNTT để thiết kế tài nguyên bài dạy
Phần mềm Microsoft PowerPoint (MS-PP)

Để có được một bài giảng tốt, việc thiết kế và xây dựng trình diễn phải được
lập kế hoạch cụ thể và thực hiện theo từng bước nhất định như sau:


Bước 1: Hình thành ý tưởng bài dạy, lựa chọn nội dung thông tin cần thể
hiện trong bài dạy
Bước 2: Chia nhỏ nội dung thông tin thành các mô đun. Mỗi mô đun thông
tin sẽ được hiển thị trong một slide
Bước 3: Lựa chọn tối đa các đối tượng Multimedia có thể có dùng để tổ

chức hoạt động hay minh hoạ cho nội dung học tập
Bước 4: Chuẩn bị tài nguyên (văn bản; hình ảnh tĩnh, động; mô hình mô
phỏng; âm thanh; phim..) bằng các công cụ phần mềm khác nhau.
Bước 5: Sử dụng MS PowerPoint để tích hợp nội dung trên vào các slide
Bước 6: Qui định cách thức hiển thị thông tin trong mỗi slide
Bước 7: Qui định hình thức chuyển đổi giữa các slide
Bước 8: Viết các thông tin giải thích cho mỗi slide
Bước 9: In các nội dung liên quan tới bài giảng
Bước 10: Trình diễn thử và sửa đổi
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả khi thiết kế và sử dụng bài dạy bằng MSPP, bài giảng cần thỏa mãn yêu cầu chung như:
- Thiết kế bài dạy bằng PowerPoint phải dựa trên lí luận dạy học, đặc biệt là
lí luận dạy học hiện đại. Do vậy, PP chỉ là phần mềm có tính chất hỗ trợ cho giáo
viên thể hiện ý tưởng sư phạm của mình một cách thuận lợi và hiệu quả hơn.
- Cấu trúc bài dạy phải chặt chẽ, lôgic. Thông tin ngắn gọn, cô đọng, được
bố trí và trình bày một cách khoa học phù hợp với tiến trình lên lớp
- Thể hiện đồng bộ và hợp lí các đối tượng đa phương tiện để hỗ trợ các hoạt
động nhận thức.


- Bài dạy cần khuyến khích sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh; tăng
cường trao đổi, hợp tác giữa các học sinh; khích lệ tư duy, hoạt động độc lập, sáng
tạo...
- Nội dung bài dạy phải cuốn hút, đảm bảo học sinh tập trung vào nội dung,
lôgic của kiến thức.
- Sử dụng bài dạy đúng kế hoạch, tiến trình với tư thế, cử chỉ, điệu bộ, giọng
nói, ánh mắt của giáo viên hợp lý.
Nhóm các phần mềm đồ hoạ

Các phần mềm đồ hoạ là những phần mềm ứng dụng trong máy tính với
mục đích trợ giúp vẽ, thiết kế, chỉnh sửa và lưu trữ dữ liệu đồ hoạ (dưới dạng số).

Có thể khai thác một số phần mềm đồ hoạ dưới đây để xây dựng tài nguyên dạng
ảnh cho bài dạy:
STT
1

2

3

4

Phần mềm
AutoCAD
(phần mềm bản quyền)
Paint
(kèm hệ điều hành)
3D Studio Max
(phần mềm bản quyền)
Photoshop
(phần mềm bản quyền)

Mô tả tóm tắt
Dùng để vẽ các bản vẽ kỹ thuật, cho phép thể
hiện mô hình 3 chiều của vật thể. ưu điểm của
phần mềm này là vẽ nhanh và chính xác.
Đây là phần mềm đi kèm với hệ điều hành
windows. Cho phép vẽ những hình đơn giản,
có độ chính xác vừa phải.
Cho phép thiết kế những mô hình 3 chiều và
xuất ra ảnh, phim...với nhiều định dạng khác

nhau.
Là phần mềm xử lí và hiệu chỉnh ảnh rất hiệu
quả.

Nhóm các phần mềm thiết kế hoạt hình

Việc sử dụng các hoạt hình trong bài giảng sẽ làm tăng hiệu quả trình diễn
thông tin, giúp học sinh hình dung rõ hơn đối tượng cần truyền tải. Có rất nhiều
phần mềm khác nhau hỗ trợ thiết kế hoạt hình, một vài trong số đó là:


STT
1
2

Phần mềm
Microsoft Gif Animator
(miễn phí)
GIF Movie Gear
(phần mềm bản quyền)

3
Flash
(phần mềm bản quyền)
4

SolidWorks
(phần mềm bản quyền)

Mô tả tóm tắt

Phần mềm của hãng microsoft cho phép thiết kế hoạt
hình dưới dạng ảnh gif động rất nhanh và đơn giản.
Có tính năng giống với Microsoft Gif Animator và
thêm một số tính năng mới như khả năng biên tập
các frame, tối ưu hoá hoạt hình...
Sản phẩn của flash là một chuẩn đồ hoạ trên Internet.
Phần mềm cho phép thiêt kế những hoạt hình phức
tạp, đẹp mắt, cho phép tương tác với người dùng với
một dung lượng khá nhỏ.
Có thể dùng để tạo các chi tiết cơ khí, lắp ráp thành
vật thể lắp và mô phỏng hoạt động của hệ thống đó.
Phần mềm hỗ trợ kết xuất ra định dạng phim.

Mô hình đào tạo e-learning

Thuật ngữ e-learning đã trở nên quen thuộc trong một vài thập kỷ gần đây.
e-learning tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh "electronic learning".
E-learning thường bao gồm bốn thành phần chức năng (Hình.2), mỗi thành
phần đều được tách riêng biệt và cung cấp các dịch vụ khác nhau, tuy nhiên tất cả
các thành phần đó đều được tập trung vào một hệ thống với mục đích cùng cung
cấp dịch vụ đào tạo tốt nhất cho người sử dụng. Mô hình tổng quát khái niệm elearning gồm 4 thành phần, toàn bộ hoặc một phần của những thành phần này được
chuyền tải tới người học thông qua phương tiện truyền thông điện tử.

Hình 2. Mô hình khái niệm e-learning


Một cách tổng thể một hệ thống e-learning bao gồm 3 thành phần chính: hạ
tầng thông tin; hạ tầng phần mềm; hạ tầng truyền thông và mạng như (Hình 3):
Chúng ta đều biết rằng thời đại CNTT phát triển như hiện nay thì việc học
tập thông qua hệ thống CNTT và truyền thông là điều tất yếu. Qua hệ thống này

con người sẽ được học tập một cách thoải mái, không bị bó buộc như cách học
truyền thồng hiện nay, chúng ta có thể học mọi lúc, mọi nơi, có thể ở nhà, ở công
sở học lúc nào tùy thích. Như vậy e-learning đem giáo dục đến với con người, chứ
không phải con người đến với giáo dục.
Tuy nhiên bất cứ hình thức đào tạo nào đó đều có những thuận lợi, hạn chế
riêng và e-learning cũng không ngoại lệ. Nhưng bằng sự chuẩn bị chu đáo, người
học và cơ sở đào tạo có thể khắc phục được những hạn chế của e-learning. Nếu
chuẩn bị không tốt và việc tổ chức đào tạo bằng e-learning của cơ sở đào tạo chưa
được kĩ càng thì người học sẽ không thấy được những thuận lợi của khoá học này.
HẠ TẦNG THÔNG TIN (NỘI DUNG ĐÀO TẠO)
Nội dung đào tạo

Courseware

HẠ TẦNG PHẦN MỀM
Hệ thống quản lí học tập
(LMS)

Hệ thống xây dựng nội dung bài
giảng (CAS)

HẠ TẦNG TRUYỀN THÔNG VÀ MẠNG
Chỉ dẫn
Mạng Internet

Hệ thống cung cấp dịch vụ bảo mật và xác thực
Mạng LAN

Mạng PSTN/ISDN


Email

Hệ thống máy chủ


Hình 3. Mô hình cấu trúc hệ thống e-learning

Kết luận
Từ bối cảnh quốc tế và bối cảnh trong nước đã dẫn đến việc đổi mới PPDH
là một vấn đề bức xúc hiện nay của ngành giáo dục nước ta. Mặt khác, sự phát
triển mạnh mẽ của KH-CN đặc biệt là CNTT- với nhiều vai trò tích cực đối với
QTDH - đã cho thấy việc đưa CNTT vào trong dạy học ở các cấp, nhất là ở ĐH và
CĐ là một đòi hỏi, một xu thế tất yếu để phát triển giáo dục và đạt được mục đích
tích cực hóa hoạt động học tập của người học, nâng cao hiệu quả và chất lượng đào
tạo. Không ngoài mục đích trên, vấn đề: “Sử dụng thiết bị kỹ thuật và ứng dụng
CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy Đại học và Cao đẳng” cũng nhằm
mục đích góp phần từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp
tích cực hiện nay.



×