Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường bán lẻ Việt Nam trong xu thế hôi nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.24 KB, 29 trang )

Đồ án môn học

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ WTO VÀ
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I. Giới thiệu chung về WTO:
Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization, viết tắt WTO) là một tổ chức quốc tế
đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám
sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành
viên với nhau theo các quy tắc thương mại.
Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản
thương mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 1 tháng 9 năm 2005 ông Pascal
Lamy được bầu làm Tổng giám đốc.
Tính đến ngày 23 tháng 7 năm 2008, WTO có 153 thành viên. Mọi thành
viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi
nhất định trong thương mại.
1.

Cơ cấu tổ chức của WTO:

Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban
của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh
chấp và các ủy ban đặc thù.
Hội nghị Bộ trưởng (Cấp cao nhất):Cơ quan quyền lực cao nhất của
WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự
tham gia của tất cả các thành viên WTO. Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết
định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
Đại Hội đồng (Cấp thứ hai): gồm 3 cơ quan


Đại Hội đồng: là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại



Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường
là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm
quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một
lần) đối với tất cả các công việc của WTO.


Hội đồng Giải quyết Tranh chấp: được nhóm họp để xem xét và

phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ
quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành
viên (cấp đại sứ hoặc tương đương).
Trang 1


Đồ án môn học



Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại: được nhóm họp để

thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ
chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế
lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành
viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn.
Các Hội đồng Thương mại (Cấp thứ ba)
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng.
Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội
đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ
liên quan đến Thương mại. Các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước

thành viên WTO.
Các Ủy ban và Cơ quan (Cấp thứ tư):
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực
chuyên môn riêng biệt.


Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công

tác, và 1 ủy ban đặc thù.


Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác,

và 2 ủy ban đặc thù.


Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm

và Cơ quan Phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành
lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo
điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc
liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
2.

Chức năng của WTO:

• Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO.
• Diễn đàn đàm phán về thương mại.
• Giải quyết các tranh chấp về thương mại.

• Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia.
• Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển .
• Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.

Trang 2


Đồ án môn học

3.

Nguyên tắc hoạt động: WTO hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ

a.

Đãi ngộ tối huệ quốc MFN (NGUYÊN TẮC KHÔNG PHÂN

bản.
BIỆT ĐỐI XỬ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN – MOST_FAVORED_NATION
TREATMENT): Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một thành
viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO.
• Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán.
• Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: các quy định và quy
chế thương mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định.
• Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: giành những thuận lợi và ưu
đãi hơn cho các thành viên là các quốc gia đang phát triển trong khuôn khổ các
chỉ định của WTO.
• Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các
nước thành viên.
• Không phân biệt đối xử: về nguyên tắc, mọi ưu đãi thương mại mà một

quốc gia thành viên của WTO dành cho hàng hoá của một nước khác sẽ được áp
dụng đối với hàng hoá tương tự của mọi thành viên khác của WTO một cách
“tức thì” và “vô điều kiện”.
MFN chính là yếu tố quan trọng tạo nên sức hút của hệ thống
GATT/WTO. Đối với các thành viên mới, nhờ vào MFN họ có thể ngay lập tức
được hưởng những chính sách ưu đãi về thương mại từ các thị trường quan
trọng, từ đó mở ra những cơ hội lớn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị
trường. Do đó, để có thể tận dụng thời cơ khi gia nhập WTO, các thành viên mới
cần tập trung tối đa nguồn lực để phát triển các ngành nghề hướng đến xuất
khẩu, đồng thời giảm thiểu việc sản xuất tại các ngành nghề thay thế nhập khẩu.
b. Đãi ngộ quốc gia NT (NGUYÊN TẮC KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI
XỬ VỀ XUẤT XỨ HÀNG HOÁ - NATIONAL TREATMENT): Không được
đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh
các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng
tương tự trong nước.

Trang 3


Đồ án môn học

Nguyên tắc này được hiểu như sau: Hàng hoá nhập khẩu vào một nước
phải được đối xử ở mức ưu đãi không thấp hơn so với hàng hoá nội địa tương tự
trên thị trường nước đó. Cụ thể gồm 3 nội dung chính:


Hàng hoá nhập khẩu không phải chịu mức thuế hoặc các loại phí cao

hơn so với hàng nội địa cùng loại



Hàng nhập khẩu không phải chịu mức ưu đãi thấp hơn so với hàng nội

địa cùng loại đối với các luật lệ, yêu cầu liên quan đến bán hàng, mua hàng, vận
chuyển, phân phối và sử dụng các hàng hoá đó.


Các quốc gia thành viên không được đặt ra các yêu cầu về việc sử dụng

một lượng hay một tỷ lệ nhất định từ nguồn cung cấp nội địa đối với sản phẩm.
Như vậy, nếu như MFN đề cập về việc không phân biệt đối xử giữa các
quốc gia thành viên thì nguyên tắc này nhấn mạnh đến chống phân biệt đối xử
giữa hàng nội địa và hàng nhập khẩu.
II. Việt Nam gia nhập WTO:
1. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam:
Bước 1: Việt Nam nộp đơn gia nhập vào tháng 1-1995, Đại hội đồng
WTO đã thành lập Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO do ông Seung
Ho (Hàn Quốc) làm chủ tịch.
Bước 2: Thành lập nhóm thẩm định đơn Việt Nam gồm 38 quốc gia
thành viên (Mỹ, Nhật, Canada, Ấn Độ, Singapore,…)
Bước 3: Việt Nam đã nộp Bị vong lục về Chế độ Ngoại thương (9/1996)
giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch
định và thực thi chính sách, thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương
mại hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Bước 4: Việt Nam đã chuẩn bị và trả lời nhiều câu hỏi của nhằm làm rõ
nội dung chính sách, bộ máy quản lý và thực thi chính sách của Việt Nam đồng
thời cung cấp nhiều thông tin khác theo các biểu mẫu do WTO quy định về hỗ
trợ, trợ cấp trong công-nông nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các biện
pháp đầu tư không phù hợp với quy định của WTO, thủ tục hải quan, hệ thống
tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ...

Bước 5: Chủ tịch nhóm thẩm định đã tổ chức các phiên họp (7/1998,
12/1998, 7/1999, 11/2000, 4/2002, 5/2003, 10/2003, 6/2004, 12/2004, 1/2006)
Trang 4


Đồ án môn học

tại Genevơ, Thụy Sỹ để đánh giá tình hình chuẩn bị của Việt Nam và để Việt
Nam có thể trực tiếp giải thích chính sách. Hai phía đã cơ bản kết thúc giai đoạn
làm rõ chính sách chuyển sang đàm phán đa phương các điều kiện và điều khoản
gia nhập của Việt Nam (gồm các cam kết tuân thủ các luật lệ và nguyên tắc của
WTO khi gia nhập và các giai đoạn quá độ để tiến hành các cải cách về thể chế
và luật pháp theo các cam kết này). Ngày 7/11/2007, Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
2.

Thực trạng nền kinh tế Việt Nam:

Tiến bộ nhanh trong phát triển và cải cách kinh tế: Việt Nam thực sự
đã có một tiến bộ quan trọng trong phát triển và cải cách kinh tế. Trong đó, đầu
tư và tiêu dùng mạnh mẽ đã tạo đà cho tăng trưởng kinh tế mạnh. Sự gia tăng
nhập khẩu, một phần liên quan đến đầu tư, đã nới rộng mức thâm hụt mậu dịch
hơn dự kiến, nhưng đó chưa phải là một vấn đề quan ngại. Mặc dù lạm phát gia
tăng sẽ đòi hỏi Chính phủ phải cẩn trọng, lạm phát vẫn ở trong tầm kiểm soát.
Điều quan trọng nhất đối với Việt Nam vẫn là đẩy nhanh cải cách và thực hiện
khẩn trương hơn các dự án phát triển thông qua việc đơn giản hóa các thủ tục.
Có sự đóng góp to lớn từ công nghiệp và dịch vụ: Tăng trưởng kinh tế
Việt Nam hầu như hoàn toàn từ ngành công nghiệp, dịch vụ và sự năng động của
khu vực tư nhân được ghi nhận với mức tăng 20,5%, hơn gấp đôi tốc độ tăng
trưởng của các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, ngành sản xuất công nghiệp

tăng mạnh 12,4% nhưng khai thác mỏ lại có mức tăng trưởng rất nhỏ vì có sự sụt
giảm 7,4% trong khai thác dầu thô do sản lượng khai thác tại mỏ dầu Bạch Hổ,
mỏ dầu lớn nhất Việt Nam, giảm sút. Về dịch vụ, thương mại và tài chính tăng
10,4% và khách sạn, nhà hàng do được lợi từ sự tăng mạnh tiêu dùng và du lịch,
đã tăng 12,7%.
Thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu: Đây là những thành tựu nổi
bật nhất sau 1 năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Năm 2007, Việt Nam
đã thu hút trên 20 tỷ USD vốn FDI, bằng cả số vốn của 5 năm trước cộng lại.
Kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 48,4 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm 2006.
Năm 2008 lợi ích về mậu dịch có từ việc gia nhập WTO giữ mức tăng trưởng
xuất khẩu nhanh là 22%.

Trang 5


Đồ án môn học

Việt Nam gia nhập WTO và sẽ tiếp tục hội nhập nền kinh tế đất nước vào
các mạng lưới kinh doanh toàn cầu, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và
giúp duy trì động lực cho cải cách trong nước, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự
kiến tăng đến 8,5% trong năm 2008. Dịch vụ được khích lệ bởi tiêu dùng và du
lịch, cũng như việc mở cửa dần dần của một số khu vực cho sự tham gia của
nước ngoài, dự kiến sẽ tăng 8,6% vào cuối năm 2009.

Trang 6


Đồ án môn học

PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ

TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM.
I. Giới thiệu chung:
Hệ thống bán lẻ ở Việt Nam bao gồm nhiều loại hình:
Hệ thống phân phối tổng hợp hàng hóa tiêu dùng qua chợ và các loại hình
cửa hàng bán lẻ nhỏ, độc lập của hộ kinh doanh: các chợ được phân bố chủ yếu
ở khu vực nông thôn với 6.401 chợ, chiếm 78,3% và là loại hình tổ chức thương
mại trong nước chủ yếu ở địa bàn này; ở khu vực thành thị có 1.772 chợ, chiếm
21,7%. Tỷ trọng phân phối hàng tiêu dùng qua chợ chiếm khoảng 40%. Bên
cạnh đó, số lượng 900.000 cửa hàng, loại hình cửa hàng bán lẻ nhỏ, độc lập của
hộ kinh doanh cũng đang chiếm thị phần bán lẻ hàng tiêu dùng tương đương với
chợ.
Hệ thống phân phối tổng hợp hàng hóa tiêu dùng qua các loại hình tổ
chức bán lẻ hiện đại. Loại này có khoảng 70 trung tâm thương mại - trung tâm
mua sắm, 200 siêu thị tổng hợp, 200 siêu thị chuyên ngành, 8 cửa hàng hội viên
dạng nhà kho và hàng trăm cửa hàng tiện lợi hiện đại. Các cơ sở bán lẻ hàng hóa
hiện đại kiểu này đã có mặt ở 42/64 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập
trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (chiếm
khoảng 70%). Hiện tỷ trọng phân phối hàng tiêu dùng qua các loại hình tổ chức
bán lẻ hiện đại chiếm khoảng 14% - 15% thị phần (nếu tính riêng ở các đô thị
lớn thì tỷ trọng này khoảng 20% - 30%).
Hệ thống phân phối tổng hợp hàng hóa tiêu dùng qua một số doanh
nghiệp phân phối lớn: cùng với sự phát triển của các loại hình tổ chức bán lẻ
hiện đại, ở Việt Nam đã xuất hiện một số doanh nghiệp phân phối tổng hợp hàng
hóa tiêu dùng lớn, tiêu biểu như:


Liên hiệp Hợp tác xã thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon

Co.op);



Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) và Tổng Công ty

Thương mại Hà Nội (Hapro) hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
và kinh doanh đa ngành;
Trang 7


Đồ án môn học



Công ty Kinh doanh hàng thời trang Việt Nam (thuộc Tập đoàn

Dệt may Việt Nam) quản lý chuỗi khoảng 50 cơ sở bán lẻ hiện đại (gồm cửa
hàng thời trang, siêu thị tổng hợp, trung tâm thương mại và gian hàng đặt tại các
cơ sở bán lẻ của doanh nghiệp khác) mang thương hiệu VinatexMart..., song
song đó là các tập đoàn lớn của nước ngoài như Metro, Tesco, Wal-Mart,
Carrefour…

Một số ảnh minh họa về các doanh nghiệp bán lẻ nổi tiếng hiện nay

Trang 8


Đồ án môn học

II. Phân tích thực trạng hoạt động của thị trường bán lẻ ở nước ta:
1. Tốc độ tăng trưởng:
Như vậy, qua các năm cùng với những biến đổi của nền kinh tế, thị

trường bán lẻ nước ta có những chuyển biến lớn. Để làm rõ điều này, phân tích
bảng số liệu (Nguồn: Tổng cục thống kê) cụ thể như sau:

Biểu đBiểu đồ tốc độ tăng bán lẻ so với tăng trưởng kinh tế GDP và
chỉ số giá tiêu dùng CPI
a.

Tiền WTO:

Thị trường bán lẻ sau quá trình tụt dốc rất nhanh những năm đầu thập kỷ
90 là do “cơn khát” tiêu dùng kéo dài hàng chục năm trước đó đã rất nhanh
chóng được thỏa mãn nhờ kinh tế tăng tốc nhanh chưa từng có, tốc độ tăng của
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ (dưới đây gọi tắt là thị trường
bán lẻ) đã rơi tự do và hầu như liên tục nằm ở mức đáy trong nhiều năm liền do
những tác động rất mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.
Cụ thể: Năm 1997, việc tốc độ tăng của thị trường bán lẻ đột ngột rơi tự
do xuống còn 10,99% là do “cơn khát” tiêu dùng đã được thỏa mãn trong nhiều
năm trước đó cộng hưởng với những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu
vực mà nước ta phải đối mặt.
Năm 1998 đạt tốc độ tăng vượt trội 14,64% chủ yếu do lạm phát đột ngột
tăng cao trở lại vì giá gạo thế giới sốt nóng bắt nguồn từ “El Nino thế kỷ”, các
năm còn lại chỉ dao động xung quanh ngưỡng 10%.
Năm 1999 tổng mức bán lẻ “chạm đáy” chỉ với 8,26% và tốc độ tăng
GDP cũng “chạm đáy” chỉ với 4,77%.
Trang 9


Đồ án môn học

Có thể nói, việc thị trường bán lẻ trong những năm này rơi vào tình trạng

trầm lắng như vậy là do hai yếu tố chủ yếu sau đây cộng hưởng với nhau:
Thứ nhất, sau một chu kỳ phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế rơi tự do
đồng nghĩa với tốc độ tăng thu nhập của quảng đại các tầng lớp dân cư tăng
chậm lại và sức mua xã hội cũng tăng chậm lại.
Các số liệu thống kê cho thấy, nếu như trong năm đầu tiên (từ năm 1993
đến năm 1997) mặc dù phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực thì
tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta giảm nhưng không nhiều (giảm từ 9,34%
xuống còn 8,15%), nhưng năm 1998, khi khủng hoảng lên tới cao trào, thì tốc độ
tăng này chỉ còn 5,76%.
Hơn thế, một điểm hết sức độc đáo nữa chính là, cho dù cuộc khủng
hoảng kinh tế khu vực đã đi qua, nhưng năm 1999 nền kinh tế nước ta mới bắt
đầu “chạm đáy” chỉ với tốc độ tăng 4,77%, tức là giảm đúng một nửa so với tốc
độ tăng kỷ lục 9,54% của năm 1995 và cho đến nay đây dường như vẫn còn là
điểm chưa thực sự được làm sáng tỏ một cách thấu đáo.
Thứ hai, sau cơn sốc khủng hoảng kinh tế khu vực, cho dù tốc độ tăng
trưởng kinh tế đã phục hồi mạnh, nhưng thị trường bán lẻ vẫn hết sức trầm lắng,
cho nên hiện tượng không mong muốn này chỉ có thể là do tâm lý “thắt lưng
buộc bụng quá kỹ” của người tiêu dùng.
Sau khi “chạm đáy”, nền kinh tế đã phát triển với tốc độ khá ngoạn mục:
6,79% trong năm 2000, năm 2001 tốc độ này vẫn tiếp tục nhích lên 6,89% (do
phải đối mặt với tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu và sự kiện “ngày 11 tháng
9 đen tối của nước Mỹ”) nhưng tốc độ tăng của thị trường bán lẻ trong hai năm
này cũng chỉ nhích lên rất không đáng kể.
b. Hậu WTO:
Ở thời điểm giữa năm 2007, trong khi tốc độ tăng của thị trường bán lẻ
tính theo giá thực tế là 22,9%, loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn đạt 15%.
Ở thì ở thời điểm giữa năm 2008, cặp số liệu này bị biến dạng quá mạnh
thành 30% và 8%, còn chỉ tính chung cả năm 2008 là 31% và 6,5%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,18% năm 2008 cũng đã có thể coi là thành
công do chúng ta đã bắt đầu phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế trăm


Trang 10


Đồ án môn học

năm mới có một lần hiện nay, nhưng đây cũng chính là năm mà kinh tế nước ta
đã rơi tự do không kém năm 1998 bao xa.
Điều trên có nghĩa là, trong điều kiện tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm
mạnh như vậy, tốc độ tăng thu nhập của đại bộ phận các tầng lớp dân cư đương
nhiên cũng tăng chậm lại tương ứng, cho nên việc tốc độ tăng của thị trường bán
lẻ rơi tự do như những năm cuối thập kỷ trước là hợp quy luật, còn việc tăng kỷ
lục 31% năm 2008 là rất không bình thường.
Nghịch lý ở hai yếu tố trên đã dẫn đến trong khi thu nhập tăng chậm một
cách đáng kể thì tốc độ chi tiêu dùng hằng ngày lại tăng đột biến. Có thể khẳng
định một cách chắc chắn rằng, cho dù điều đó không ảnh hưởng nhiều đến “túi
tiền” của một bộ phận nhỏ dân cư có thu nhập cao trong xã hội, nhưng đối với
bộ phận dân cư có thu nhập thấp, thậm chí có thu nhập trung bình, thì sức mua
chắc chắn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là, những “di chứng”
mà lạm phát cao và kinh tế tăng trưởng thấp năm 2008 để lại cho thị trường bán
lẻ hiện nay là nặng nề chưa từng có.
Nhìn chung, thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm qua phát triển
khá mạnh, đặc biệt trong 3 năm gần đây mức tăng trưởng của thị trường bán lẻ
thường xuyên đạt trên 20% và đặc biệt trong năm nay theo ước tính sẽ đạt tới
25%. Dự báo mới đây của Tổng cục Thống kê khẳng định: Thị trường bán lẻ sẽ
tăng khoảng 15 - 18% trong năm 2009. Doanh thu từ bán lẻ dự báo đến năm
2010 sẽ là 53 tỷ USD. Các nhà doanh nghiệp nước ngoài coi đây là cơ hội kinh
doanh lớn và đang chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào thị trường này.
2. Các chính sách áp dụng trong thị trường bán lẻ Việt Nam sau khi
gia nhập WTO:

2.1. Việt Nam cam kết cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia
thành lập các liên doanh phân phối bán lẻ với các doanh nghiệp trong nước từ
tháng 1-1-2009.
2.2. DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được quyền phân phối tại VN kể
từ ngày 1-1-2009. Trong đó, có một danh mục hàng hóa loại trừ mà vĩnh viễn
các DN này không được tham gia phân phối trên lãnh thổ VN, đó là: thuốc lá, xì
gà, sách, báo, tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại quý, đá quý, dược phẩm,
thuốc nổ, xăng dầu, dầu thô, đường và gạo. Bên cạnh đó là một danh mục loại
Trang 11


Đồ án môn học

trừ có thời hạn đến ngày 11-1-2010 như xi măng, clinke, lốp (trừ lốp máy bay),
giấy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón…
2.3. Chính cách ENT (kiểm tra nhu cầu kinh tế) về việc cho phép nhà bán
lẻ nước ngoài mở điểm bán lẻ thứ hai tại Việt Nam theo cam kết WTO. Các nhà
bán lẻ nước ngoài được xét điều kiện ENT trong từng trường hợp cụ thể dựa trên
3 tiêu chí khách quan: Số lượng các nhà bán lẻ trên một địa bàn cụ thể; sự ổn
định của thị trường và quy mô địa lý của khu vực dân cư. Tuy nhiên, nếu thị
trường cần thêm một điểm bán thì địa phương sẽ cấp phép còn nếu cho rằng
chưa cần, nhà quản lý có quyền từ chối cấp phép.
2.4. Vì thị trường bán lẻ là nơi tập trung các kênh phân phối từ nhiều
nguồn khác nhau, bao gồm các nhà cung cấp trong và ngoài nước, điều này ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình thành giá thông qua biểu thuế sau:
Biểu 1: Diễn giải mức thuế bình quân cam kết của Việt Nam
Bình quân Thuế suất

Thuế suất


Thuế suất Mức giảm Mức cắt giảm thuế

chung và MFN hiện cam kết khi cam kết vào so với thuế chung tại Vòng
theo ngành

hành
(%)

gia nhập cuối lộ trình MFN hiện
WTO (%)

(%)

Uruguay

hành
(%)

Nông sản
Hàng công

23,5
16,6

25,2
16,1

21,0
12,6


10,6
23,9

nghiệp
Chung màn

17,4

17,2

13,4

23,0

biểu

Trang 12

Giảm 30%
Giảm 24%


Đồ án môn học

Biểu 2: Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong đàm phán gia nhập
WTO đối với một số nhóm hàng quan trọng đối với hàng bán lẻ thông dụng
TT

Ngành hàng/Mức thuế Thuế suất
suất


MFN

Cam kết với WTO
Thuế suất Thuế suất Thời gian
khi gia

cuối cùng

thực hiện

nhập
1 Một số sản phẩm nông
nghiệp
Thịt bò
Thịt lợn
Sữa nguyên liệu
Sữa thành phẩm
Thịt chế biến
Bánh kẹo (thuế suất

20
30
20
30
50
39,3

20
30

20
30
40
34,4

14
15
18
25
22
25,3

5 năm
5 năm
2 năm
5 năm
5 năm
3-5 năm

80
65
100

65
65
150

35
45-50
100


5 năm
5-6 năm
5 năm

nghiệp
Giấy (thuế suất bình

22,3

20,7

15,1

quân)
Tivi
Máy điều hoà
Máy giặt
Hàng dệt may (thuế

50
50
40
37,3

40
40
38
13,7


25
5 năm
25
3 năm
25
4 năm
13,7 Thực hiện

bình quân)
Bia
Rượu
Xì gà
2. Một số sản phẩm công

3.

5 năm

suất bình quân)

ngay khi gia

Giày dép

nhập
5 năm

50

40


30

Thuận lợi của thị trường bán lẻ khi Việt Nam gia nhập WTO:

Trở thành thành viên của WTO, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ có
cơ hội tận dụng được nhiều điều kiện thuận lợi do những nguyên tắc và quy định
của tổ chức này đem lại để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường
Trang 13


Đồ án môn học

bán lẻ và từng bước tham gia vào các chuỗi giá trị, dây chuyền cung cấp toàn
cầu, mở rộng ra nước ngoài.
Việt Nam gia nhập WTO có cả tác động tích cực cũng như tiêu cực
nhưng tác động tổng thể đến nền kinh tế Việt Nam là tích cực, cụ thể là:
Tiềm năng của thị trường bán lẻ Việt Nam là rất lớn, nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng liên tục cao, ổn định chính trị, đông dân, cơ cấu dân số trẻ (hiện có
57% dân số có độ tuổi dưới 30).
Việt Nam liên tục được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh
bán lẻ (GRDI). Theo A.T.Kearney (hãng tư vấn Mỹ), năm 2007, Việt Nam xếp
thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới; năm 2008 vượt lên dẫn
đầu (tiếp theo là Ấn Độ, Trung Quốc, Ai Cập, Moroco, Ả rập Xê út…), có khả
năng thu hút nhiều nhà đầu tư vào khai thác thị trường này.
Các mặt hàng như lúa gạo, đường, thuốc lá và xì gà, dầu thô và dầu đã
qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ, sách, báo, tạp chí, kim loại quý và đá quý,
vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu (đĩa, băng, các phương tiện đã lưu trữ
thông tin…) là những loại hàng hóa nhà đầu tư nước ngoài không được quyền
phân phối tại Việt Nam do nhà nước quy định.

Tuy các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới đã hội nhập vào thị trường Việt
Nam nhưng kênh bán lẻ truyền thống nước ta hiện vẫn đang chiếm khoảng trên
85% lưu chuyển hàng hóa. Đây là dư địa cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh
Việt Nam vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu vào khai thác
thị trường thông qua kênh bán lẻ hiện đại (trung tâm thương mại, đại siêu thị,
siêu thị…).
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam gắn bó về văn hóa, hiểu biết về tập quán,
nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam và có cơ hội để học tập kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại cũng như có thêm động lực
trong việc đổi mới và phát triển kinh doanh.
Trong cam kết, để có thời gian cho doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị,
Chính phủ đã thực hiện việc mở cửa theo lộ trình, áp dụng kiểm tra nhu cầu kinh
tế - ENT khi cấp phép từ cơ sở bán lẻ thứ hai trở lên đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, không mở cửa hoặc mở cửa theo lộ trình đối với một số
hàng hóa.
Trang 14


Đồ án môn học

Kích thích cạnh tranh và chất lượng sản phẩm: Lợi ích cụ thể trước nhất
là giảm giá thành đầu vào. Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ cho phép hàng hoá
nhập khẩu có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường trong nước. Người tiêu
dùng sẽ được mua hàng với giá thấp hơn (do hạ thấp hàng rào thuế quan), mẫu
mã đa dạng hơn. Đồng thời các doanh nghiệp bán lẻ sẽ có nhiều cơ hội hơn để
lựa chọn đầu vào đa dạng hơn, ở mức chi phí và chất lượng hợp lý.
Chính phủ đã từng bước thực hiện những điều chỉnh cần thiết đối với các
quy định, luật lệ và chính sách kinh tế vĩ mô cho phù hợp luật chơi quốc tế phổ
biến. Điều này tạo môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thuận lợi và
thông thoáng cho hoạt động của tất cả các doanh nghiệp, họ sẽ có tiếng nói mạnh

hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn với các cường quốc
thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ chung.
4. Khó khăn cho thị trường bán lẻ khi Việt Nam gia nhập WTO:
Việt Nam gia nhập WTO cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối
với nền kinh tế Việt Nam. Những quy tắc, luật lệ của WTO (về sở hữu trí tuệ,
đầu tư, dịch vụ...) gây nhiều thiệt thòi cho các doanh nghiệp bán lẻ (bộ phận cơ
bản cấu thành nên thị trường bán lẻ) trong nền kinh tế đang phát triển. Dưới đây
là số khó khăn mà các doanh nghiệp bán lẻ đang gặp phải hiện nay:
Diện tích mặt bằng bán lẻ còn “thiếu trước hụt sau” do nhu cầu ngày càng
gia tăng, và giá thuê mặt bằng luôn là thách thức đối với nhiều doanh nghiệp bán
lẻ. Đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ quản lý lạc hậu,
phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại,
chiến lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Các siêu thị, các trung tâm ồ ạt ra đời mà chưa nắm rõ đặc điểm văn hóa,
tâm lý tiêu dùng, đặc điểm xã hội của nước ta rằng nhiều người vẫn thích mua
hàng theo kênh không chính thức, bất kể chi phí hay độ rủi ro và người ta vẫn
thích chạy ra đầu ngõ mua các vật dụng linh tinh ở tiệm tạp hóa hơn là vào các
siêu thị. Doanh nghiệp nước ta thua các doanh nghiệp nước ngoài là chính ở
khoản điều tra người tiêu dùng.
Các tập đoàn siêu thị lớn của nước ngoài như Wal-Mart hay Tesco tuy
chưa vào Việt Nam nhưng người tiêu dùng Việt Nam đã không còn xa lạ với
những tên tuổi bán lẻ như:
Trang 15


Đồ án môn học



Parkson của tập đoàn Lion, Malaysia;




Big C của Tập đoàn Casino (Pháp) đầu tư;



Hệ thống Metro của Tập đoàn Metro Cash&Carry
(Đức);



Dairy Farm (Hồng Kông) đang kinh doanh một siêu
thị tại tòa nhà

Citi Mart trên đường Nguyễn Trãi, Tp.HCM;


Zen Plaza của Nhật Bản;



Diamond Plaza của Hàn Quốc…

Những tập đoàn bán lẻ trên của nước ngoài cũng cảnh báo những thách
thức to lớn sẽ xảy ra trong tương lai không xa. Họ có tầm chiến lược rất sát đáng
và khoa học hơn chúng ta, hiện tại các tập đoàn nước ngoài này tập trung mở
siêu thị bán buôn và bán lẻ, sau đó dần chuyển sang các hình thức bán lẻ không
có cửa hàng, bán hàng qua catalogue, điện thoại, Internet... nhằm thâu tóm thị
trường bán lẻ Việt Nam.

Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp như: liên kết dọc giữa nhà
sản xuất-nhà bán buôn-nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán
buôn, nhà bán lẻ với nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung
ứng dịch vụ ngân hàng… cần diễn ra mạnh mẽ để đủ lực cạnh tranh với sức ép
từ các nhà phân phối nước ngoài đến giờ phút này vẫn còn rất yếu và hời hợt.
Một ví dụ minh chứng cho thấy mấy năm qua, chủ trương liên kết giữa Co.op
Mart và Satra vẫn giậm chân tại chỗ, dù rằng mặt bằng, kinh nghiệm, nguồn vốn,
con người để kinh doanh siêu thị không thiếu.
Các chính sách kinh tế của Nhà nước còn nhiều bất cập, lỏng lẻo, mập
mờ, chưa rõ ràng, cụ thể, thường xuyên thay đổi khiến các doanh nghiệp bán lẻ
nước ta không thích ứng kịp, dẫn đến việc sai phạm quy tắc Nhà nước làm mất
lòng tin vốn không đáng đối với khách hàng.
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn yếu hơn doanh nghiệp bán lẻ nước
ngoài tại Việt Nam trong việc sử dụng công cụ pháp lý. Trong khi các doanh
nghiệp bán lẻ nước ngoài hiểu rất rõ về pháp luật thì doanh nghiệp bán lẻ trong
nước chưa dành sự quan tâm thích đáng tới hệ thống luật pháp để bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của chính mình. Ngay cả việc chưa nhận dạng được các
Trang 16


Đồ án môn học

hoạt động cạnh tranh trong thị trường bán lẻ nên chính doanh nghiệp bán lẻ
trong nước đang rất khó khăn trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh theo
tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Sản phẩm, thương hiệu, chất lượng, chủng loại..., mà nếu điểm lại thì chỉ
có một vài doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có khả năng cạnh tranh về mặt này.
Chất lượng sản phẩm, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, trách nhiệm xã
hội là vấn đề mà mọi người quan tâm nhưng đa phần nhà bán lẻ chưa có khả
năng đáp ứng đúng.

Hệ thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm còn non kém. Các nhà phân tích
cho rằng việc phân phối tiêu thụ các loại hàng hoá được coi là thế mạnh của Việt
Nam (dệt may, da giày) vẫn bị các công ty đa quốc gia và người nước ngoài nắm
giữ vì chúng ta chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu, đa phần phải phụ thuộc
nguồn cung cấp nguyên liệu của họ. Từ đó, giá hàng sản xuất bị đẩy lên cao nên
đây cũng là điểm yếu của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
Tiếp thị, quảng cáo, dịch vụ kém hẳn so với các doanh nghiệp bán lẻ
nước ngoài tại Việt Nam. Chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
sang kinh tế thị trường nhưng tính chuyên nghiệp của các DN bán lẻ Việt Nam
rất thấp. Nguồn nhân lực hầu như chưa qua đào tạo chuyên ngành. Trong bán
hàng, hiện có 2/3 số DN chưa sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Việc
quản lý đầu vào đầu ra của hàng hóa, việc quảng bá hình ảnh cho DN chưa được
chú trọng và chưa có hệ thống đào tạo chuyên ngành về việc này.

PHẦN III. ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM.
I. Nhận xét:
Trang 17


Đồ án môn học

Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô không lớn (55 tỷ USD trong năm
2008), nhưng rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài do mức lưu chuyển
hàng hóa liên tục tăng trong những năm gần đây. Việt Nam có tiềm năng lớn về
sức mua với tốc độ tăng trưởng cao và dân số trẻ. Đặc biệt, năm 2007 khi mới
chập chững bước vào ngưỡng cửa hội nhập WTO, Việt Nam được hãng tư vấn
Mỹ A.T. Kearney xếp hạng 4 trên 7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế
giới.
Do đó, Việt Nam luôn là một mảnh đất màu mỡ với các tập đoàn bán lẻ

lớn trên thế giới. Một minh chứng cụ thể là hiện nay thị trường bán lẻ đã thu hút
một số tập đoàn nổi tiếng trên thế giới về lĩnh vực này: tập đoàn Metro đăng ký
kinh doanh theo hình thức bán buôn nhưng thực ra hoạt động phần lớn là bán lẻ
(bán cho người mua cuối cùng). Big C hoạt động theo hình thức bách hóa tổng
hợp. Parkson có mô hình bán hàng bách hóa chuyên về hàng công nghiệp. Lotte
kinh doanh cả siêu thị lẫn gian hàng. Còn Louis Vuiton chỉ bán sản phẩm mang
thương hiệu của họ.
Hai năm là khoảng thời gian khá ngắn ngủi trong cả quá trình phát triển
kinh tế xã hội của một quốc gia - nhiều khi quá trình này thường kéo dài cả vài
thập kỷ để có thể đạt được những thành tựu như của Việt Nam. Các doanh
nghiệp nước ngoài có quy mô lớn và cách làm việc chuyên nghiệp. Nhưng chính
quy mô vừa phải của các doanh nghiệp nội địa phù hợp hơn với cách tiêu dùng
truyền thống, vốn chiếm 85% lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong nước.
Hơn nữa những tập đoàn đến từ nước ngoài không thể am hiểu văn hóa,
tập quán mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam bằng chính các nhà bán lẻ Việt
Nam. Tuy nhiên, cũng thừa nhận rằng có một số bộ phận người Việt chuộng
dùng hàng ngoại, thích mua sắm ở các trung tâm mua sắm hiện đại. Do đó, các
doanh nghiệp Việt Nam phải có những kế hoạch phù hợp để khai thác tối đa mặt
mạnh và loại bỏ mặt yếu của mình. Điều mà các doanh nghiệp bán lẻ nội địa ở
Nhật Bản và Hàn Quốc đã làm rất tốt.
Hiểu được vấn đề là một chuyện nhưng để có thể cạnh tranh với các tập
đoàn xuyên quốc gia mạnh về tài chính cũng như chuyên môn này là rất khó, đòi
hỏi sự nổ lực của cả hệ thống.

Trang 18


Đồ án môn học

II. Xu hướng mở rộng thị trường bán lẻ và nâng cao hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam:
WTO có thể nói là một sân chơi đầy thách thức, đòi hỏi người tham gia
vào nó phải có một sức mạnh về thể chất lẫn tinh thần để có thể vượt qua rào cản
quốc gia và tiến tới hội nhập với thế giới. Vì Việt Nam là một thị trường đầy
tiềm năng, có khả năng thu hút một làn sóng đầu tư mạnh từ các nước trên thế
giới, đó vừa là một thuận lợi vừa là thách thức vô cùng to lớn, đòi hỏi phải có
một sự chuẩn bị từ mọi mặt, sự hợp tác của mọi người từ một người bình thường
nhất.
Nắm bắt được xu thế đó, cần phải kiên định mục tiêu chung là đẩy mạnh
phát triển và tăng cường quản lý Nhà nước đối với các kênh bán lẻ trên thị
trường trong nước hiện nay và trong những năm tới nhằm đạt các mục tiêu thúc
đẩy sản xuất phát triển, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, tích
cực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế bền vững của đất nước, tạo tiền đề tổ chức
và cơ sở kinh tế cho quá trình chủ động thực hiện thành công các cam kết gia
nhập WTO về mở cửa lĩnh vực dịch vụ phân phối hàng hóa.
Để đạt được các mục tiêu trên, quan điểm là hài hòa và đa dạng hóa các
kênh phân phối, loại hình tổ chức và phương thức hoạt động, các thành phần
kinh tế, chế độ sở hữu, địa bàn thị trường và những nguồn lực tham gia đầu tư
phát triển. Kết hợp thương mại truyền thống với thương mại hiện đại. Xây dựng
và củng cố các hệ thống phân phối lớn trên phạm vi cả nước đi đôi với tổ chức
và phát triển mạng lưới phân phối nhỏ của địa phương.
1. Giải pháp nhằm mở rộng thị trường bán lẻ Việt Nam:
Thị trường Việt Nam sẽ có những thay đổi rất lớn trong thói quen mua
sắm của người tiêu dùng ngày nay, chuyển từ mua sắm truyền thống (tại các cửa
hàng tạp hóa, nhỏ lẻ, chợ) sang mua sắm-giải trí. Người tiêu dùng sẽ dần đến các
siêu thị, cửa hàng tiện ích để xem hàng và so sánh, chọn lựa khi các mặt hàng
của nước ngoài tràn vào ngày càng phong phú và cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước
cần phải:
Một là, tăng cường đối thoại công – tư về chính sách phát triển hệ thống
phân phối và các biện pháp mở cửa thị trường phân phối;


Trang 19


Đồ án môn học

Hai là, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận đất đai, tín
dụng để phát triển các cơ sở kinh doanh hiện đại;
Ba là, khẩn trương ban hành tiêu chí mở điểm bán lẻ thứ 2 dựa trên cơ sở
kiểm tra nhu cầu kinh tế - ENT (số lượng các cơ sở bán lẻ cùng quy mô hoạt
động, cùng chủng loại mặt hàng trong phạm vi địa phương; sự ổn định của thị
trường địa phương; mật độ dân cư trên địa bàn dự kiến đặt cơ sở bán lẻ; sự phù
hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh, thành phố).
Bốn là, các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại cần kết hợp với
Hiệp hội các nhà bán lẻ thường xuyên thông báo xu thế phát triển của tiêu dùng
để các doanh nghiệp phân phối biết, có đối sách nâng cao khả năng cạnh trạnh;
Năm là, hỗ trợ hiệp hội trong việc tổ chức đào tạo các nhà phân phối nội
địa, nhất là đào tạo các nhà phân phối nhỏ lẻ;
Sáu là, tăng cường liên kết hợp tác giữa các nhà phân phối trong nước;
liên kết giữa nhà sản xuất, nhà phân phối để ổn định nguồn hàng và thị trường
tiêu thụ.
2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp bán lẻ Việt Nam:
Thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào thị trường bán lẻ là một
vấn đề nan giải hiện nay. Nhà đầu tư trong nước cho rằng mình không có thế
mạnh, nhà đầu tư nước ngoài thì mắc phải rào cản hành chính của các cơ chế
chính sách rề rà vốn không còn phù hợp.
Muốn vững mạnh thì nhà nước cần phải loại bỏ ngay những thủ tục rườm
rà đó và thay vào đó là những chính sách thật phù hợp sát với hoàn cảnh cụ thể
của nước ta và những cam kết với WTO. Sau đây là một số biện pháp nâng cao

hiệu quả hoạt động của thị trường bán lẻ Việt Nam:
VỀ PHÍA CHÍNH PHỦ:
Thứ nhất là khẩn trương bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể
chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của Tổ chức Thương mại thế
giới; hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Cụ thể như sau:

Trang 20


Đồ án môn học

Khẩn trương rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành,
loại bỏ những văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; sửa đổi, bổ
sung những quy định mới phù hợp với các cam kết quốc tế. Tập trung xây dựng
và bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực quan trọng,
như về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, Luật Trọng tài và tài phán trong
tranh chấp thương mại..., các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh
an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường để bảo vệ thị trường trong nước và
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường phù hợp với cam kết và điều kiện cụ thể
nước ta.
Hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Xây
dựng và thực hiện lộ trình loại bỏ các hình thức bao cấp qua giá, thực hiện giá
thị trường cho mọi hàng hóa, dịch vụ; loại bỏ các hình thức trợ cấp theo lộ trình
cam kết; bổ sung những hình thức trợ cấp phù hợp với các quy định của Tổ chức
Thương mại thế giới.
Hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng các sắc thuế công bằng, thống nhất,
đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh, từng bước giảm đối tượng nộp
thuế theo mức khoán. Tiếp tục đổi mới chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các

công cụ lãi suất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, có các biện pháp hữu hiệu để bảo đảm
an toàn hệ thống ngân hàng trước những biến động lớn bên ngoài.
Phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Tập trung phát triển công nghệ
ở các lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, đi ngay vào các công nghệ hiện
đại, mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...
Ðổi mới để nâng cao hiệu quả đầu tư. Rà soát, điều chỉnh chiến lược và
quy hoạch tổng thể phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, các nguyên
liệu, sản phẩm trung gian cạnh tranh được với nguyên liệu và sản phẩm nhập
khẩu; lựa chọn phát triển một số điểm bán lẻ, các siêu thị then chốt có lợi thế và
khả năng cạnh tranh. Xem xét để có thể mở cửa nhanh hơn một số cơ sở kinh
doanh bán lẻ phù hợp với chủ trương phát triển.
Thứ hai là đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực
của bộ máy nhà nước.
Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy
mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; đẩy nhanh
Trang 21


Đồ án môn học

tiến độ ra quyết định của các cơ quan nhà nước; thực hiện công khai, minh bạch
mọi chính sách, cơ chế quản lý, quy trình tác nghiệp, chống phiền hà, nhũng
nhiễu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong và ngoài nước xúc tiến mở rộng cơ
sở kinh doanh của mình.
Thứ ba là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản
phẩm.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia:
Ða dạng hóa các nguồn vốn và hình thức đầu tư, xây dựng kết cấu hạ
tầng. Tập trung nguồn lực đầu tư nâng cấp các tuyến giao thông kết nối các vùng
có lượng hàng hóa lưu chuyển lớn, các vùng lãnh thổ trên các tuyến hành lang

kinh tế. Mở rộng, nâng cấp và đầu tư mới tập trung hơn, tăng nhanh năng lực các
cảng biển chính, đầu tư xây dựng một số cảng trung chuyển lớn.
Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông để
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng và thực hiện chế độ thông tin
hai chiều giữa Bộ Công Thương với các hệ thống phân phối. Thường xuyên
kiểm tra, theo dõi để nắm bắt và phát hiện kịp thời diễn biến tình hình thị trường
- giá cả và hoạt động của các hệ thống phân phối.
Gấp rút đào tạo đội ngũ luật sư am hiểu luật pháp quốc tế, giỏi ngoại ngữ,
có đủ khả năng tham gia tranh tụng quốc tế; đào tạo đội ngũ chuyên gia tư vấn,
kế toán, kiểm toán, quản trị doanh nghiệp đạt trình độ quốc tế trong lĩnh vực bán
lẻ.
Triển khai nhanh chương trình quốc gia về đào tạo tiếng Anh và các
ngoại ngữ thông dụng khác. Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng mức để thu
hút những chuyên gia giỏi ở trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
và người nước ngoài vào công cuộc phát triển thị trường bán lẻ của ta.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp bán lẻ điều chỉnh cơ cấu và quy mô kinh doanh của
mình trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; tăng
nhanh năng lực tài chính, ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, kinh
doanh nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng ngày càng cao, vươn lên
chiếm lĩnh những khâu quan trọng trong dây chuyền phân công lao động quốc
tế.
Trang 22


Đồ án môn học

Nâng cao trình độ quản trị kinh doanh; củng cố chế độ hạch toán, kiểm
toán nội bộ; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thiết lập nhanh mạng lưới kinh
doanh, tăng cường liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp và với các cơ quan

nghiên cứu khoa học - công nghệ; coi trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu,
văn hóa của doanh nghiệp.
Hoàn thiện tổ chức và cơ chế hoạt động của các hiệp hội ngành hàng,
phát huy vai trò làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà
nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường, thông tin, đào tạo
nguồn nhân lực, đại diện doanh nghiệp trong các vụ kiện bán phá giá và chống
bán phá giá.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm:
Ðiều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức
cạnh tranh của một số sản phẩm bị ảnh hưởng mạnh khi Việt Nam là thành viên
Tổ chức Thương mại thế giới như mía đường, bông, rau quả, thịt, sữa... và một
số sản phẩm công nghiệp được bảo hộ cao của Nhà nước như xi-măng, sắt thép,
hóa chất, ô-tô, xe máy...; quy hoạch lại địa bàn phát triển các ngành hiện đang sử
dụng nhiều lao động, có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng giá trị gia tăng thấp như
da giày, dệt-may, chế biến nông phẩm...
Lựa chọn công nghệ sản xuất tập trung hơn, đi liền với đẩy mạnh phát
triển các ngành công nghiệp phụ trợ; cung cấp nguồn nguyên liệu tại chỗ, các
sản phẩm khác có lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh cao. Phát triển nhanh các
dịch vụ có giá trị gia tăng cao và các dịch vụ cơ bản phục vụ phát triển của các
lĩnh vực liên quan trong nền kinh tế như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn
thông, vận tải, du lịch, dịch vụ tư vấn chất lượng cao...
Thứ tư là giải quyết tốt các vấn đề về môi trường trong quá trình phát
triển của hàng loạt các cơ sở kinh doanh trong hoạt động bán lẻ hiện nay.
Hoàn hiện và nâng cao hiệu lực hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường;
thúc đẩy nhanh việc áp dụng các công cụ kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường,
tăng cường năng lực của các cơ quan chức năng trong công tác bảo vệ môi
trường, phòng ngừa và khắc phục hậu quả do sự cố môi trường.

Trang 23



Đồ án môn học

Lập các quy định quốc tế về tiêu chuẩn môi trường để vận dụng phù hợp
vào điều kiện Việt Nam, nâng cao năng lực quan trắc môi trường, phát triển
công nghệ môi trường.
Ðẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, thành lập các hiệp hội
về môi trường, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông môi trường.
VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP:
Thay vì tìm cách chống đỡ sự tấn công của các đối thủ cạnh tranh nhằm
làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp hãy “tự làm mới
mình để làm cũ đối thủ”. Sau đây là một số cách để thực hiện mục tiêu trên:
Tìm hiểu về khách hàng: Sử dụng những kênh thông tin mới thiết lập để
tìm hiểu về khách hàng - không chỉ là tên và địa chỉ của khách hàng mà còn:
o

Họ là ai?

o

Gia đình họ gồm những ai?

o

Họ kiếm sống bằng cách nào?

o

Họ mong muốn điều gì?


o

Điều họ thích và không thích?

Doanh nghiệp chỉ có thể có những thông tin này khi trực tiếp hỏi khách
hàng thông qua khảo sát thị trường.
Sử dụng dữ liệu khách hàng hiện tại: Doanh nghiệp cần xem xét những
thông tin về khách hàng mà doanh nghiệp đang có như:
o

Họ có thường xuyên mua hàng không?

o

Họ thường chi bao nhiêu khi mua hàng?

o

Lần cuối họ mua hàng là lúc nào?

o

Hỏi khách hàng điều họ muốn ở doanh nghiệp:

o

Họ sẽ mua thứ gì từ doanh nghiệp nếu doanh nghiệp là người cung

cấp duy nhất?
o


Điều mà họ không thích ở thương hiệu?

o

Điều mà họ thích ở thương hiệu?
Khơi gợi các tiềm năng: Bao gồm các thông tin như:

o

Họ là khách hàng của những thương hiệu đối thủ nào?

o

Tại sao họ không mua mọi thứ từ doanh nghiệp nếu doanh nghiệp là

người cung cấp?
Trang 24


Đồ án môn học

o

Doanh nghiệp phải làm gì để thuyết phục khách hàng mua nhiều

hơn?
Quản trị chất lượng sản phẩm:
Cần thường xuyên quan sát, theo dõi nắm bắt những thông tin về chất
lượng sản phẩm của các nhà cung cấp, để có những phản ứng kịp thời trước

những sản phẩm bị nghi ngờ không đảm bảo chất lượng. Để làm được như vậy,
các doanh nghiệp bán lẻ cần nâng cao nghiệp vụ của bộ phận quản trị chất lượng
(bằng cách liên kết đào tạo hoặc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, khen
thưởng cho nhân viên tìm được nguồn hàng tốt…), thường xuyên kiểm tra sản
phẩm, hạn sử dụng để kịp thời xử lý. Các nhà bán lẻ trong nước cần đổi mới
công nghệ kinh doanh, bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, làm
tốt các dịch vụ sau bán hàng để thu hút người tiêu dùng, chiếm lĩnh thị trường,
mở rộng thị phần.
Bên cạnh việc chữ tín đặt lên hàng đầu, thì sản phẩm Việt Nam phải có sự
khác biệt về kiểu dáng, mẫu mã, bắt mắt so với hàng ngoại để thuyết phục người
tiêu dùng Việt Nam mua. Bên cạnh đó, phải cải tiến sản phẩm và có những
nhóm hàng khác nhau, nhất là có nhiều phân khúc hàng hoá cho người tiêu dùng
đô thị, nông thôn, người tiêu dùng cao cấp, bình dân… lựa chọn.
Quản trị nhân sự của doanh nghiệp:
Tiến hành đào tạo lại nhân viên, bồi dưỡng các nghiệp vụ kỹ năng như kỹ
năng giao tiếp, ứng xử với khách hàng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật. Cụ
thể là doanh nghiệp cần liên kết với các cơ sở đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo
kỹ năng chuyên đề, tuyên dương các cá nhân có thành tích tốt, thường xuyên tiến
hành tập huấn.
Tiến hành kiểm tra, giám sát để phát hiện nhân viên sai phạm và nhắc nhở
(vì không phải tất cả các nhân viên đều có thái độ phục vụ không tốt). Tổ chức
các tình huống sát với thực tế cho nhân viên luyện tập khả năng ứng phó, qua đó
điều chỉnh hành vi, thái độ cho phù hợp khi tiếp xúc với khách hàng.
Hoạt động truyền miệng - cách thu hút khách hàng:
Doanh nghiệp cần chú ý đến công tác quản lý hoạt động truyền miệng
bằng cách tạo cho nhân viên một phản xạ tuyên truyền về các mặt tốt của thương

Trang 25



×