Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.27 KB, 27 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì việc nhìn nhận vai trò
sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học là cần thiết, nhất là trong bối cảnh có
nhiều hệ tư tưởng cùng tồn tại đan xen với nhau. Bên cạnh đó, trong thực tiễn xã
hội và trong giáo dục, vấn đề có tính quy luật của sự hình thành và phát triển tư
tưởng triết học trong lịch sử là vấn đề cốt lõi cho sự nối tiếp tư tưởng triết học
trong xã hội hiện nay- đây là 1 trong những mục tiêu nghiên cứu chính của tiểu
luận này.
Nội dung gồm ba phần:
I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
Bài tiểu luận sẽ góp phần nhỏ bé trình bày tương đối về đề tài: “ Những vấn
đề có tính quy luật của sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử”.
Do vấn đề em đề cập đến nội dung lý luận sâu rộng mà thời gian cũng như trình độ
nhận thức có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong
nhận đựoc sự góp ý của giảng viên để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn

2

2


I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm ở một số trung tâm lớn
như Hy Lạp La Mã Cổ đại, Ấn Độ Cổ đại, Trung Quốc Cổ đại...( Từ khoảng thế
kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ V trước công nguyên)


Khái quát lại có thể định nghĩa về triết học như sau: Triết học là một hệ thống
tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới ấy
Lịch sử triết học là một bộ môn hay một khoa học nghiên cứu về quá trình
hình thành và phát triển nhằm rút ra các quy luật trong sự hình thành và phát triển
của các tư tuởng triết học nói riêng và cùng các tư tưởng nhân loại nói chung.
Triết học ra đời từ nhu cầu của thực tiễn và để phục vụ cho nhu cầu sống của
con người. Sự ra đời của triết học bắt nguồn từ hai nguồn gốc là nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc nhận thức là sự hình thành, phát triển của năng lực tư duy trừu
tượng khái quát của con người.
Nguồn gốc xã hội của nó là sự phát triển của phân công lao động – Xã hội
thành lao động chân tay và lao động trí óc trong xã hội có giai cấp. Cho nên
ngay từ khi mới ra đời triết học đã mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của một
giai cấp nhất định
2. Đối tượng của triết học
Đối tượng của triết học được hình thành, biến đổi dần dần qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau
Dưới thời Cổ đại, với nền triết học tự nhiên ở phương Tây, triết học bao
gồm tất cả những tri thức mà con người có được: toán học, vật lý học,
3

3


thiên văn học, siêu hình học, … nên chưa có sự phân biệt đối tượng của triết học
với đối tựợng của khoa học. Đây là cơ sở hình thành nên quan niệm coi triết học
là “khoa học của mọi khoa học”

4


4


II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
2.1 Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội.
Theo nguyên lý chung,
Để làm rõ tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, em đưa ra và luận giải:
a) Thế giới quan triết học với tư cách cơ sở lý luận cho tư duy đúng đắn về
kinh tế;
b) Thế giới quan triết học với tư cách cơ sở phương pháp luận để nhận thức
và vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế;
c) Thế giới quan triết học khoa học với tư cách cơ sở lý luận cho việc hoạch
định đúng đắn các chính sách kinh tế;
d) Thế giới quan triết học khoa học với tư cách cơ sở phương pháp luận cho
việc hình thành văn hóa kinh doanh đúng đắn để trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển.Triết học là hạt nhân lý luận thế giới quan của con người. Thế
giới quan triết học như thế nào sẽ quy định quan điểm kinh tế, chính trị, văn hoá,
nghệ thuật, đạo đức, v.v. như thế ấy.
Do vậy, triết học khoa học, đúng đắn có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát
triển của xã hội nói chung, của kinh tế nói riêng. Điều này thể hiện ở một số điểm
cơ bản sau:
Thế giới quan triết học khoa học- cơ sở lý luận cho tư duy đúng đắn về Triết
học có đối tượng nghiên cứu của mình là mối quan hệ của con người với tự nhiên
và quan hệ của con người với nhau trong xã hội, đặc biệt là quan hệ của con người
với con người trong sản xuất vật chất. Quan hệ của con người với tự nhiên được
biểu thị cô đọng nhất thông qua lực lượng sản xuất. Quan hệ của con người với
nhau trong xã hội được biểu thị cô đọng, cơ bản nhất thông qua quan hệ sản xuất.
Có thể nói, đây là hai mối quan hệ cơ bản nhất của con người.

5

5


Do vậy, để phát triển kinh tế thì phải có tư duy về kinh tế một cách đúng
đắn. Tư duy về kinh tế muốn đúng đắn phải dựa trên một thế giới quan triết học
khoa học. Chẳng hạn, triết học Mác - Lênin nghiên cứu xã hội với tư cách một
chỉnh thể thống nhất hữu cơ với "hạt nhân" của nó là kinh tế. Nhưng kinh tế được
triết học Mác - Lênin nghiên cứu dưới góc độ lịch sử - cụ thể, tức là dưới những
phương thức sản xuất lịch sử - cụ thể. Như chúng ta đã rõ, phương thức sản xuất
lại là sự thống nhất hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong
đó, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
nó. Như vậy, theo triết học Mác - Lênin, muốn phát triển một phương thức sản
xuất thì trước hết phải tập trung vào phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sự kết hợp hữu cơ giữa
người lao động với tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra một
sức sản xuất nhất định. Từ đây cho thấy, để phát triển kinh tế, trước hết phải tập
trung vào phát triển nhân tố người lao động và sau đó là công cụ lao động. Nếu
người lao động không được giải phóng, không có sức khoẻ, không có trình độ học
vấn, không có kinh nghiệm, kỹ năng lao động, v.v. thì dù công cụ lao động có hiện
đại chăng nữa, lực lượng sản xuất cũng không thể phát triển được. Ngược lại, nếu
người lao động có sức khoẻ, có trình độ, có tay nghề, có kinh nghiệm, kỹ năng lao
động, nhưng công cụ lao động thô sơ, lạc hậu thì lực lượng sản xuất cũng không
thể phát triển. Như vậy, kinh tế cũng không thể phát triển. Do đó, muốn phát triển
kinh tế phải có được những chính sách phù hợp để giải phóng người lao động
nhằm giải phóng sức sản xuất.
Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ
năng, kinh nghiệm lao động cho họ. Không những thế mà còn phải có được những
chính sách "lên men" được sự hăng say, tính tích cực, lòng nhiệt tình, sự cần cù,

chịu khó, sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và biết phát huy có hiệu quả công cụ lao
động hiện có của người lao động. Nghĩa là phải tạo được sự kết hợp tối ưu giữa
người lao động có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động với công cụ lao động.
6

6


Chỉ có như vậy mới có thể phát huy tối đa vai trò của lực lượng sản xuất trong
phát triển kinh tế.
Đồng thời phải có chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ hợp lý. Phát triển giáo dục - đào tạo là trực tiếp bồi dưỡng, phát triển nguồn
lực con người, là đào tạo người lao động, là trực tiếp góp phần phát triển lực lượng
sản xuất. Phát triển khoa học, công nghệ là trực tiếp góp phần phát triển công cụ
lao động, cải tiến, nâng cao, hoàn thiện và chuyển giao công nghệ sản xuất,v.v..
Phát triển khoa học - công nghệ còn góp phần phát triển tư liệu sản xuất, như tạo ra
các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu mới, nhân tạo không có sẵn trong tự nhiên cho
sản xuất. Trên cơ sở đó góp phần làm cho tri thức khoa học ngày càng trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ
còn góp phần nâng cao hiệu quả, tính khoa học của quá trình quản lý sản xuất;
trên cơ sở đó, góp phần phát triển kinh tế.
Đương nhiên, những điều này chỉ mới là những điều kiện cần cho sự phát
triển kinh tế. Để những điều này hậu thuẫn tốt cho sự phát triển kinh tế trên thực tế
còn đòi hỏi phải biết tổ chức, quản lý sản xuất một cách hợp lý; giải quyết tốt mối
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm được sản
xuất ra.Rõ ràng là, triết học không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, nhưng triết học
khoa học, đúng đắn sẽ cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học cho cho
sự phát triển tư duy về kinh tế một cách đúng đắn, khoa học; trên cơ sở đó góp
phần phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, kinh tế nói chung.
Đương nhiên, cơ sở lý luận, phương pháp luận triết học đúng đắn còn phải

được nhận thức đúng và vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế sáng tạo, phù
hợp thực tiễn thì mới mang lại hiệu quả thiết thực.Thực tế lịch sử đã chứng minh
những điều này. Chẳng hạn, chính cuộc "cách mạng" trong quản lý kinh tế do các
chủ nô dân chủ, tiến bộ khởi xướng ở Hy Lạp, La Mã vào thế kỷ II, III, nhằm giải
phóng người nô lệ với tư cách người sản xuất chính trong xã hội khi ấy đã hậu
thuẫn cho phương thức sản xuất phong kiến ra đời.
7

7


Bởi lẽ, sự đánh đập nô lệ một cách dã man, sự đối xử hà khắc với họ chỉ như
đối với công cụ lao động biết nói đã làm cho nô lệ đốt, phá hoại mùa màng,
công cụ sản xuất, bỏ trốn, v.v. dẫn tới sức sản xuất bị kìm hãm, kinh tế không
phát triển. Để giải phóng sức sản xuất, một số chủ nô dân chủ, tiến bộ đã thay đổi
tư duy về kinh tế, trước hết là thay đổi cách quản lý nô lệ, không đánh đập mà
"khoán" sản phẩm trên đơn vị đất canh tác. Do được "tự do" canh tác, không bị
giám sát, đánh đập nên người nô lệ đã “phấn khởi” làm việc.
Hơn nữa, nếu chăm chỉ làm việc, sản phẩm vượt mức khoán thì nô lệ được
hưởng. Đây chính là mầm mống của địa tô và đồng thời là chất “men” giải phóng
sức sản xuất, hậu thuẫn cho phương thức sản xuất phong kiến ra đời. Thời kỳ Phục
hưng ở châu Âu cũng cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa nhân đạo lại
ra đời vào thời kỳ này. Đó là do nhu cầu giải phóng con người nhằm giải phóng
sức sản xuất đòi hỏi. Nếu con người không được tự do đi lại, tự do làm giầu, tự do
bán sức lao động, v.v. thì nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa không thể ra đời
và phát triển.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà thuyết Nhật tâm lại ra đời vào thời kỳ này
và sau Côpécníc, Brunô, Galilê lại xuất hiện Lêôna đơ Vanhxi - nhà cơ học, kỹ
thuật, có thể nói như vậy, đầu tiên của nhân loại. Chính sự ra đời của cơ học đã hậu
thuẫn cho sự phát triển của nền sản xuất cơ khí tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, thuyết

Nhật tâm ra đời là nhằm đánh đổ thuyết Địa tâm - một học thuyết không khoa học
- cản trở sự phát triển của khoa học và kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà trong
Biện chứng của tự nhiên Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Những ai phỉ báng triết học
nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất
của những học thuyết triết học tồi tệ nhất”
Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở phương pháp luận để nhận thức và
vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tếMỗi hệ thống triết học đều nhằm
trang bị cho chủ thể một cơ sở phương pháp luận cho việc nhận thức và trên cơ sở
đó, vận dụng các quy luật kinh tế. Chẳng hạn, đối với triết học Mác - Lênin, trang
8

8


bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật để giúp con người nhận thức và vận
dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, khoa học hơn.
Nhờ phương pháp tư duy biện chứng duy vật mà chúng ta hiểu được rằng,
các quy luật kinh tế cũng giống như các quy luật khác, chẳng hạn quy luật của tự
nhiên là ở tính khách quan của chúng. Nghĩa là các quy luật kinh tế tồn tại, vận
động, phát triển một cách khách quan, tuân theo những quy luật vốn có của nó,
không phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của con người. Nhưng, khác với các
quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế còn mang tính xã hội. Chúng chỉ tồn tại, vận
động và phát triển trên cơ sở các hoạt động kinh tế của con người. Do đó, con
người không thể "sáng tạo" ra các quy luật kinh tế cũng như tuỳ tiện xoá bỏ
chúng. Nhưng, con người là chủ thể hoạt động kinh tế có ý thức, có lợi ích, v.v..
Vì vậy, thông qua các hoạt động kinh tế của mình, con người có thể tác
động để các quy luật kinh tế có thể nhanh diễn ra, hoặc chậm diễn ra. Điều này có
ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng trong việc lý giải tại sao một số nước có
thể thực hiện chiến lược "đi tắt, đón đầu" trong phát triển kinh tế, cũng như thực
hiện quá độ lên một phương thức sản xuất nào đó trên cơ sở bỏ qua một giai đoạn

phát triển nhất định dưới góc độ kinh tế.
Đương nhiên, để thực hiện được “đi tắt, đón đầu”, hay “rút ngắn” trong quá
trình phát triển thì đòi hỏi phải có nhiều điều kiện khách quan và chủ quan khác
nhau. Nhưng, vai trò của triết học Mác - Lênin làở chỗ, nó trang bị cho chúng ta
phương pháp tư duy biện chứng duy vật - công cụ quan trọng để giúp nhận thức và
vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế.Phương pháp tư duy biện chứng duy vật
cũng cho phép chúng ta cắt nghĩa sự phát triển của phương thức sản xuất là do
những mâu thuẫn bên trong phương thức sản xuất ấy quy định.
Đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu
thuẫn này được giải quyết sẽ thúc đẩy phương thức sản xuất phát triển tiến bộ hơn.
Sự phát triển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất mới tiến bộ
hơn là quá trình lịch sử - tự nhiên. Đặc trưng của sản xuất vật chất là không ngừng
9

9


biến đổi, phát triển và bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của lực lượng
sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất hiện tồn. Khi lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
xuất hiện tồn thì quan hệ sản xuất hiện tồn này sẽ trở thành lực cản đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất nói riêng và kinh tế nói chung. Nghĩa là quan hệ sản
xuất hiện tồn không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đó nữa.
Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, theo quy luật kinh
tế khách quan, quan hệ sản xuất luôn phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nó
sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, nghĩa là kìm hãm kinh tế phát triển.
Quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất cả trong
trường hợp nó lạc hậu hoặc vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất.
Dấu hiệu phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất được

biểu hiện ở năng suất lao động tăng; người lao động được đào tạo và đào tạo lại;
đời sống người lao động được đảm bảo; môi trường sản xuất được cải thiện; công
cụ, máy móc, dây chuyền sản xuất được đầu tư cải tiến v.v..
Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là tất yếu khách quan; sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng hàm chứa những yếu
tố phá vỡ sự phù hợp; khi có dấu hiệu của sự không phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ của lực lượng sản xuất thì phải giải quyết kịp thời. Nếu quan hệ sản
xuất thuộc về giai cấp thống trị đã lỗi thời trong xã hội và lợi ích của giai cấp này
không còn phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội, thì mâu thuẫn này phải
được giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Nếu quan hệ sản xuất thuộc về giai
cấp tiến bộ, đại diện cho sự phát triển xã hội thì giai cấp đó cần phải chủ động
thay đổi, hoàn thiện quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; đổi mới quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất cũng như quan hệ phân phối sản phẩm.

10

10


2.2 Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự
phát triển của khoa học thự nhiên và khoa khọc xã hội
Sự cần thiết của mối liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên. Những
thành tựu mà khoa học đạt được tất yếu phải đựoc chuyển sang và tiến tới kết luận
chung về lý luận….; Một quan niệm vừa biện chứng vừa duy vật về tự nhiên đòi
hỏi phải thông thạo toán học và khoa học tự nhiên. Mối quan hệ giữa triết học và
khoa học không phải là vấn đề mới. Trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu
dài, mối quan hệ ấy đã trở thành một trong những “vấn đề triết học” được bàn
luận sâu rộng với nhiều quan điểm khác nhau. Sự phát triển nhanh chóng của khoa
học và sự ứng dụng rộng rãi của chúng trong thực tiễn đem lại cho “mối quan hệ

giữa triết học và khoa học” những nội dung mới. Bài viết nhằm chỉ ra sự tác động
và ảnh hưởng qua lại giữa triết học và khoa học trong tiến trình vận động của lịch
sử triết học thế giới, trong đó có quan điểm của triết học tự nhiên và chủ nghĩa
thực chứng. Cả hai quan điểm này thực chất chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu
hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa học. Cách tiếp cận như thế
về mối quan hệ giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang làm thay đổi sâu sắc
mọi lĩnh vực của đời sống, đồng thời cũng cho thấy những giới hạn của tư duy
siêu hình. Con đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, những khuôn sáo,
sự trì trệ trong nhận thức và hành động là nắm chắc và vận dụng đúng đắn phương
pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học là mối quan hệ hai chiều, nghĩa là,
triết học và các khoa học đều có tác động biện chứng lẫn nhau. Nếu như sự tác
động của triết học đến khoa học có thể chia thành những giai đoạn và mỗi giai
đoạn có những hình thức nhất định, thì ngược lại, sự tác động của khoa học đến
sự phát triển của triết học không phải khi nào cũng rõ ràng và có khuynh hướng rõ
rệt. Từ chỗ lúc đầu là một sự hòa trộn đan xen giữa tri thức khoa học và triết học,

11

11


dần dần là sự tách ra của khoa học và sau đó, khoa học bắt đầu ảnh hưởng đến sự
phát triển của triết học.
Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học
Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được phản
ánh trong ý thức nguyên thủy của loài người dưới hình thức thần thoại.(*)Trong
thần thoại bên cạnh niềm tin vào các lực lượng thần thánh, siêu tự nhiên, thì các
vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới có một vị trí đáng kể. Triết học và thần

thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích thế giới. Thực chất triết học cũng tìm
cách trả lời cho các vấn đề mà trước đó đã được đặt ra trong thần thoại, nhưng
bằng một phương thức khác.
Triết học là sự phân tích lý luận các vấn đề ấy dựa trên lôgíc, các tri thức
khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch sử, sự ra đời của triết học trùng
hợp với sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên của tri thức khoa học, với sự hình
thành nhu cầu nghiên cứu lý luận. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở Hy Lạp cổ
đại. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình thành không độc lập với các tri thức
khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành nên môn khoa học
tổng hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học,
như Thalets, Pithagore,... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên,
xem xét thế giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói
chung bị đẩy xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học.
Triết học tự nhiên thịnh hành ở phương Tây vào lúc khoa học thực nghiệm
chưa phát triển, không đủ để tìm ra quy luật của các hiện tượng tự nhiên. Chính vì
vậy mà trên thực tế, triết học tự nhiên là dòng triết học mang tính tư biện
(speculation): Những giải thích của nó về thế giới chủ yếu là dựa trên những
phỏng đoán và giả định. Nhưng bắt đầu từ thời Phục hưng và đặc biệt là trong các
thế kỷ XVII - XVIII, sự phát triển của khoa học, nhất là các khoa học tự nhiên
ngày càng diễn ra nhanh chóng.

12

12


Mối quan hệ triết học - khoa học có sự đổi chiều. Khoa học tự nhiên từ chỗ
phụ thuộc, bị dẫn dắt bởi triết học, thì giờ đây, nó độc lập trong lĩnh vực nghiên
cứu của mình, hơn nữa còn tác động quyết định đến khuynh hướng phát triển của
triết học và phương pháp tư duy. Chính sự thay đổi này đã tạo ra tiền đề cho sự ra

đời của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng (posistivism) tuyên bố rằng,
chỉ có các khoa học cụ thể mới cần thiết, đem lại các tri thức tích cực (positive),
còn triết học thì không. Chính xác hơn, chủ nghĩa thực chứng thừa nhận trong quá
khứ, khi mà các khoa học còn chưa phát triển đầy đủ, thì triết học từng đóng vai
trò tích cực là khoa học bao trùm, tổng hợp mọi tri thức, thậm chí là “khoa học
của các khoa học”. Nhưng khi các khoa học lần lượt xuất hiện và trưởng thành,
đem lại một khối lượng tri thức khổng lồ thì triết học dần đánh mất vai trò lịch sử
của mình.
Số phận của triết học thật trớ trêu, chẳng khác gì King Lear - nhân vật văn
học của Shakespeare, người chia toàn bộ vương quốc và tài sản to lớn của mình
cho các con đã trưởng thành để rồi trở thành trắng tay và bị đuổi ra đường.
Không nghi ngờ gì nữa, kể từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa
học đến triết học càng ngày càng rõ rệt. Theo dõi sự phát triển của khoa học trong
thời kỳ này, chúng ta thấy rằng quá trình phân ngành diễn ra nhanh chóng: Cơ
học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý, thiên văn học,... lần lượt trở thành
các khoa học độc lập. Mỗi một khoa học tự xác định cho mình đối tượng nghiên
cứu riêng. Giới tự nhiên được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở thành
đối tượng của những nghiên cứu độc lập. Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai
đoạn phát triển đầu tiên của khoa học, khi mà nhiệm vụ chủ yếu là phải sưu tập,
tích lũy các tài liệu. Nhưng phương pháp được coi là cần thiết và chính đáng ấy
của khoa học tự nhiên cũng đã ảnh hưởng đến và in dấu lên tư duy triết học đương
thời - phương pháp tư duy siêu hình. Mặt khác, trong các khoa học tự nhiên thời
bấy giờ, chỉ có cơ học là môn khoa học được coi là đạt đến mức độ hoàn thiện
nhất định và vì thế, tư duy cơ học máy móc cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến
13

13


triết học. Chúng ta có thể nói rằng, trong thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa học

tự nhiên đã có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của triết học. Mỗi bước tiến
mới của khoa học đều bằng cách này hay cách khác tác động lên xu hướng phát
triển và tư duy của triết học.
Như đã biết, một trong các tiền đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
trạng thái và các thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Khác với các thế kỷ
trước đó, khoa học tự nhiên trong thế kỷ XIX đã không còn là khoa học sưu tập
nữa. Những gì nó tích lũy được trong thời kỳ trước đã cho phép nó có thể sắp xếp,
tổng hợp lại. Và nhiệm vụ này đến lượt nó, khiến người ta phải chú ý nhiều hơn
tới những mối liên hệ vốn có của bản thân giới tự nhiên: Sự thống nhất của thế
giới tự nhiên, sự vận động và phát triển nội tại của nó. Các phát minh vĩ đại của
khoa học tự nhiên thế kỷ XIX trong các lĩnh vực vật lý và sinh vật, như định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết cấu tạo tế bào và thuyết tiến hóa của
các loài, đã chứng minh trên những nét cơ bản và đem lại một cái nhìn duy vật
biện chứng về thế giới tự nhiên. “Nhờ ba phát hiện vĩ đại đó và nhờ các thành tựu
khác của khoa học tự nhiên...”([1]), mà giờ đây đã có thể có được “một bức tranh
bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới một hình thức gần như có hệ
thống”([2]). Trước kia việc cung cấp một bức tranh bao quát như vậy là nhiệm vụ
của triết học tự nhiên. Triết học tự nhiên, như chúng ta đã đề cập trên, là khuynh
hướng triết học có từ thời kỳ cổ đại và tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau
đó, khi mà các khoa học tự nhiên còn chưa phát triển. Vì vậy, triết học tự nhiên đã
thay thế những những mối liên hệ hiện thực, chưa biết bằng những mối liên hệ
tưởng tượng, hư ảo, thay những sự kiện còn thiếu bằng những giả định, phỏng
đoán, thậm chí gán ghép cho tự nhiên nhiều sự tưởng tượng hư ảo kỳ quái. Khi
làm như thế triết học tự nhiên đã có nhiều tư tưởng thiên tài, dự đoán trước được
nhiều phát hiện sau này đồng thời cũng đưa ra nhiều điều vô lý, nhưng không thể
nào khác được. Ngày nay thì khác. Những thành tựu quan trọng của khoa học tự
nhiên đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng chứng minh rằng giới tự nhiên
là thống nhất. Ngày nay, một bức tranh bao quát về những mối liên hệ không
14


14


những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà còn giữa các lĩnh vực hầu như của toàn bộ
giới tự nhiên, được rút ra chủ yếu từ những kết quả nghiên cứu do các khoa học tự
nhiên đem lại. Trong những điều kiện như vậy, thì một thứ triết học tự nhiên đứng
ngoài và đứng trên các khoa học là hoàn toàn không cần thiết. Mọi ý định khôi
phục triết học tự nhiên của các triết gia không còn phù hợp nữa, thậm chí, theo
Ph.Ăngghen, phải coi ý định đó là “những bước thụt lùi”(3).
Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là trực tiếp
và theo đường thẳng, mà là gián tiếp tạo ra bầu không khí tinh thần cho phép hình
thành một kiểu tư duy, một cái nhìn tương ứng với trạng thái đạt được của khoa
học về thế giới. Thông qua những tri thức và phát minh khoa học, các khái niệm,
các phạm trù triết học có thêm những nội dung mới. Chẳng hạn, thuyết nhật tâm
của Copernicus khẳng định rằng, trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ, thì rõ
ràng nó đã giáng một đòn chí mạng vào Kitô giáo, mở đầu cho thời kỳ mới của
khoa học tách khỏi tôn giáo và thần học. Thuyết tiến hóa của Darwin đưa đến kết
luận rằng, các loài động vật, thực vật không phải ngẫu nhiên, được sự sáng tạo bởi
những lực lượng thần thánh siêu tự nhiên, mà là kết quả của một quá trình hoàn
toàn do các lực lượng tự nhiên chi phối. Kết luận đó là một quan điểm của triết
học duy vật. Thuyết tương đối của Einstein một phát minh vạch thời đại. Tư tưởng
về sự thống nhất giữa vật chất với không gian và thời gian làm cho làm cho thuyết
tương đối mang ý nghĩa duy vật sâu sắc.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết luận
triết học chung như là một sự tổng kết lý luận. Những kết luận triết học rút ra từ
các phát minh của khoa học tự nhiên thường do chính các nhà khoa học tự nhiên
thực hiện. Ảnh hưởng của khoa học đến sự phát triển của triết học có thể đưa đến
những kết luận tích cực, nhưng cũng có thể đưa đến những kết luận tiêu cực, phản
khoa học. Những phát minh khoa học những năm cuối thế kỷ XIX về sóng, về
phóng xạ, về điện tử... đã khiến không ít nhà khoa học hoài nghi về khái niệm “vật


15

15


chất” - nền tảng của chủ nghĩa duy vật; rằng, cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và thay
thế chủ nghĩa duy vật bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.([3])
Kết luận triết học được các nhà khoa học rút ra từ những kết quả của mình
đa phần mang tính tự phát. Chỉ khi được xem xét trên một nền tảng thế giới quan
nhất định, chúng mới thực sự trở thành định hướng tích cực cho sự phát triển khoa
học.
Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển
khoa học
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con
người về thế giới (bao gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa
con người với thế giới. Thế giới quan phản ánh hiện thực bên ngoài gián tiếp qua
các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng mang tính cá nhân hay xã hội. Tùy thuộc vào
tính chất và phương thức biểu hiện có thể có nhiều loại thế giới quan khác nhau,
như: Thần thoại, tôn giáo, khoa học, đạo đức, mỹ thuật, chính trị, triết học... Xét
về phương thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận, là hệ thống các tư
tưởng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tính chất,
triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng tư duy tổng hợp.
Những quan điểm, tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ tích
cực tham gia vào định hướng thái độ của con người đối với các hiện tượng, các sự
kiện quan trọng trong hiện thực và trong đời sống, xác định “chỗ đứng của con
người trong thế giới”. Đối với triết học, những quan điểm tư tưởng ấy còn giúp
hình thành nên các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo con người trong các hoạt động của
mình để đạt được mục đích; hay nói cách khác, là chúng thực hiện chức năng
phương pháp luận. Phương pháp luận triết học, do xuất phát từ những quan điểm,

quan niệm chung nhất về thế giới, con người và xã hội, nên cũng là phương pháp
luận chung nhất. Nó nêu lên những điều kiện chung cần thiết để giải quyết các vấn
đề, các nhiệm vụ cụ thể, chứ không phải trực tiếp giải quyết chúng.

16

16


Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát
triển khoa học
Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học đối với
khoa học, được hầu hết các nhà khoa học thừa nhận. Vấn đề ở chỗ, nếu có ai đó
cho rằng, mình không cần đến một quan điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là
có một quan điểm triết học rồi, song là một quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng
chính là tư tưởng của Ph.Ăgghen khi ông nói: “Những ai phỉ báng triết học nhiều
nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của
triết học”([4]). Albert Einstein - một trong những nhà khoa học xuất sắc nhất của
thể kỷ XX không ít lần chỉ rõ các khái quát triết học cần dựa trên các kết quả khoa
học. Max Planck - nhà vật lý, cha đẻ của cơ học lượng tử đã khẳng định rằng, thế
giới quan của người nghiên cứu luôn tham gia vào việc xác định hướng nghiên
cứu của người đó.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa
học trước hết là ở vai trò nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân
tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các
hiện tượng ở mức độ khái quát chung và sâu sắc hơn. Hàng loạt các phạm trù nền
tảng của nhận thức được hình thành và phát triển như là các phạm trù của triết học
và các khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật chất”, “không gian”, “thời gian”,
“vận động”, “nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học không đi sâu giải quyết
các vấn đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề thuộc về lý luận nhận

thức phổ quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ thể, triết học vạch ra
lôgíc của các quá trình nhận thức, trở thành phương pháp luận của nhận thức khoa
học.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa
học là ở sự tổng kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các
nguyên lý chung của chúng. Tất nhiên, trong mỗi khoa học đều có sự tổng kết,
khái quát các tri thức thành các nguyên lý, các quy luật nhất định. Nhưng những
17

17


tổng kết, khái quát trong mỗi khoa học cụ thể chỉ được giới hạn trong lĩnh vực mà
nó nghiên cứu. Đặc điểm của khái quát triết học là những khái quát chung nhất, có
liên quan đến các hiện tượng và các quá trình của tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển
của tri thức hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu
là xu hướng ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ
thống thống nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ
thể hiện ở sự kết hợp của các ngành khoa học truyền thống thành các khoa học
mới như lý hóa, hóa lý, sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà còn là sự
xích lại gần nhau của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học
nhân văn. Chính xu hướng liên kết này của các khoa học cho phép các nhà nghiên
cứu đưa ra một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm kiếm một cơ sở phương
pháp luận chung thống nhất, khắc phục tính chất phân tán manh mún của các khoa
học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở
đây, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận kết nối các ngành khoa học, là trung
tâm phương pháp luận đem lại khả năng thâm nhập vào các quá trình này một
cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trò ngày càng

tăng của nó trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều
kiện phát triển xã hội và con người khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định
hướng giá trị của nó trở nên cần thiết hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa học
ở đây không phải là quản lý sự sáng tạo khoa học, mà là quản lý các thiết chế
khoa học, kế hoạch chương trình phát triển khoa học; ứng dụng các kết quả
nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống. Việc quản lý và định hướng ấy
chắc chắn không thể không liên quan đến một thế giới quan nói chung, đến những
quan điểm triết học nhất định.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một quá trình phát triển lâu dài.
Mối quan hệ ấy không đơn giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành một
18

18


trong những “vấn đề triết học”, nghĩa là xung quanh nó luôn tồn tại những quan
điểm khác nhau. Có thể thấy hai quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất, tuyệt đối
hóa vai trò của triết học, hạ thấp, coi thường vai trò của các khoa học. Quan điểm
thứ hai, tuyệt đối hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết
học. Cả hai quan điểm này thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối
hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa học mà chúng
tôi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy về mối quan hệ giữa triết
học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình – lối tư duy, mà xét trong
những điều kiện nhất định có thể được coi là chính đáng, cần thiết, nhưng xét
trong phạm vi phổ quát thì nó bộc lộ những hạn chế nhất định.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã
và đang làm thay đổi sâu sắc đời sống con người, góp phần làm bộc lộ những hạn
chế của tư duy siêu hình. Con đường duy nhất để khắc phục những giáo điều,
những khuôn sáo, trì trệ trong nhận thức và hành động là nắm chắc và vận dụng

đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện chứng duy vật là phương pháp luận
chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
2.3 Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm.
Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học
Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt là lịch sử triết học Cổ điển Đức,
Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”; giữa ý thức và vật chất, giữa tinh
thần và giới tự nhiên.

19

19


Vấn đề cơ bản của triết học được phân tích trên hai mặt. Thứ nhất, giữa ý
thức và vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức chân thực thế giới hay không?
Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của
các trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri luận và bất
khả tri luận. Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận. Về thực
chất, chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy tâm, còn hoài nghi
luận thuộc về bất khả tri luận; mặt khác, bất khả tri luận thường có mối liên hệ
mật thiết với chủ nghĩa duy tâm, còn khả tri luận thường gắn với chủ nghĩa duy
vật.
Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất
của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có
trước quyết định ý thức. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học

xuất phát từ quan điểm: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật
chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của nó, đó
là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của quá trình nhận thức và đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng
tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách
quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện
tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác” của cá nhân. Chủ nghĩa duy tâm khách
quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần ý thức ấy
được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và tồn tại
20

20


độc lập với giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh thần, ý thức khách quan này
thường được mang những tên gọi khác nhau như: “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần
tuyệt đối”, “lý tính thế giới”…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển
của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường
gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết quả của
quá trình đúc kết, khái quát kinh nghiệm để vừa phản ánh những thành tựu mà con
người đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng
xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy. Trên cơ sở phát
triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua các hình thức

của nó, trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất
của chủ nghĩa duy vật.
2.4 Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào cuộc đấu
tranh giữa hai phương pháp nhận thức trong lịch sử - Phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình.
Đó là phương pháp đối lập tư duy. Lịch sử đấu tranh giữa hai phương pháp
biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng
triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chính cuộc đấu tranh
lâu dài của hai phương pháp này thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn
thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật. Thông qua sự đối lập của
hai phương pháp biện chứng và siêu hình hình thành nên tư tưởng triết học, cụ
thể:
- Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ
thống những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong
lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình


phương

pháp

biện

chứng.

Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ phận
21

21



quan trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là học
thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối tượng
đằng sau các sự vật hữu hình.
Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn coi siêu hình học đồng nghĩa
với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi
phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Chính
cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa học một thói quen, xét sự vật và
quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên hệ, vận động và phát triển của
chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật đưa vào triết học thì nó đã tạo
ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ “phương pháp siêu hình” được
dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIIXVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn
nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển
theo chu kỳ khép kín.
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một
nghệ thuật trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ
quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết
học Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến
thế kỷ XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành
hệ thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ
điển Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp
triết học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện
thực xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây
dựng lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương
pháp biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong
mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát
triển.

22


22


- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra
trong cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung
chính

sau

đây:

Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các
sự vật hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa
chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy tính
cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm
được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất,
cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại,
phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các
yếu tố của nó và với cái khác.
Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật toàn diện hơn, thấy được
cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện tượng, nắm được cả cải bộ
phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái riêng và cái chung.
Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự
vật hiện tượng chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát
triển của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình nắm được
tính xác định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến
những sai lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển
của thế giới; là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại,
mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái
cũ, cái lạc hậu. Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất

thật sự của mọi sự vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy
luật và xu hướng vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng
xem xét thế giới trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện
tượng, không vạch ra được nguồn gốc , động lực, quy luật và xu hướng vận động,
chuyển hóa không ngừng

23

23


Tóm lại, không đựoc tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò
của phép siêu hình, Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những
lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.
2.5 Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học nhân loại phụ tuộc vào
sự kế thừa và phát triển các tư tưởng triết học trong tiến trình lịch sử.
Những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất
trống không mà đựoc tạo nên trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của thời đại
trước. Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích đựợc
một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý
đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Những giai đoạn hưng thịnh hoặc
suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật, … nhiều khi không phù hợp hoàn toàn
với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế. Tính chất kế thừa trong
sự phát triển của tư tưởng là một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước
có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát
triển cao. Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư
tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, So với Pháp và Anh thì nước Đức ở nửa đầu thế
kỉ XĨ lạc hậu về kinh tế nhưng lại đứng ở trình độ cao hơn về triết học. Trong xã
hội có giai cấp, tính chất thừa kế của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của
nó. Những giai cấp khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp

nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Khi làm cách mạng tư sản
chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục
những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi
thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý
thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trong nước. Giai cấp phong
kiến các nước Tây âu, trung cổ ở thời kỳ suy thoái đã ra sức khai thác triết học của
Platon và những yếu tố duy tâm trong hệ thống triết học của Arixtốt thời kỳ cổ Hy
Lạp, biến chúng thành cơ sở triết học của các giáo lý đạo thiên chúa; hoặc vào nửa
sau thế kỷ XX các thế lực tư sản phản động đã phục hồi và phát triển những trào
24

24


lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Catto mới,
chủ nghĩa Tomat mới…. để chống lại phong trào của các giai cấp công nhân và hệ
tư tưởng của nó là chủ nghĩa Mác. Tư tưởng triết học này đã giữ lại và loại bỏ
những yếu tố nào từ các tư tửong triết học trước nó, và cải tạo đi cho phù hợp với
điều kiện mới, nội dung mới. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái cũ à cái mới, giữa cái
lực lượng trong triết học , tạo ra các động lực thúc đẩy sự tiến bộ của động lực
trong triết học
Trong thực tế, theo yêu cầu nhận thức và định hướng hoạt động, đã xuất
hiện nhiều trường phái triết học. Theo điều kiện cụ thể, các thế hệ sẽ đánh giá, vận
dụng các tư tưởng triết học đã có một cách tương ứng, đồng tình, ủng hộ, phát
triển hay bài xích gạt bỏ. Coi triết học phương đông là thần bí, sai lầm, triết học
phương tây là tiến bộ hay ngược lại. Bên cạnh sự đánh giá và vận dụng các tư
tưởng triết học đã có là sự tiếp biến Các tư tưởng triết học trong sự tiếp biến văn
hóa nói chung giữa các vùng miền dù tự giác hay không tự giác. Thực trạng đó
cũng góp phần tạo nên động lực cho sự phát triển triết học. Cũng qua đó mà thể
hiện mối quan hệ dân tộc và quốc tế trong sự phát triển triết học.

2.6 Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào mối
quan hệ với các hình thái tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật…
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học chịu sự tác động trực
tiếp từ hình thái chính trị, pháp quyền. Chính vì vậy, triết học đã xuất hiện chủ
nghĩa duy tâm từ nguồn gốc xã hội này. Triết học thường phụ thuộc vào tác động
gián tiếp tới hình thức tôn giáo, nghệ thuật….
Tổng thể sự thác động thẩm thấu đó, làm cho triết học được phân chia thành
các dạng thức chuyên sâu, triết học xã hội, triết học chính trị, nhà nước, chính
quyền, chính trị, tự do, công bằng, tài sản, quyền, luật và thực thi pháp luật bởi
các cơ quan thẩm quyền, nhằm trả lời các câu hỏi những yếu tố kể trên là gì? Tại
25

25


×