Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Sự phản hồi của người đọc qua thơ trương đăng dungsự phản hồi của người đọc qua thơ trương đăng dung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

TRẦN MINH THƯ

SỰ PHẢN HỒI CỦA NGƯỜI ĐỌC
QUA THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TÔN THẢO MIÊN

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN

Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Tôn Thảo Miên, người thầy đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình
làm luận văn.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS Trương Đăng Dung,
người đã trang bị cho tôi hệ thống những tri thức lý luận văn học và cho tôi những ý
kiến đóng góp quý giá, cung cấp những tư liệu bổ ích trong quá trình tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy và đặc
biệt là các thầy cô trong Khoa Ngữ Văn, phòng sau Đại học trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, các quý thầy cô của Viện văn học, các học viên lớp Cao học Lí luận văn học
K17,gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi, động viên, khích lệ,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.


Xin cảm ơn các thầy cô giáo và các em học sinh lớp 10C9, 10C7, 10C5 trường
THPT Mạc Đĩnh Chi, Hải Phòng đã giúp đỡ tôi thực hiện các thực nghiệm.
Mặc dù rất cố gắng song bản luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo,
các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp và những người quan tâm đến vấn đề nêu
trong luận văn này để luận văn được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2015.
Tác giả

Trần Minh Thư


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
dẫn chứng và kết quả nêu trong luận văn là chính xác, trung thực. Luận văn này
chưa công bố trong bất kỳ một công trình khoa học nào.

Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Trần Minh Thư


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................... 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5
5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 6
NỘI DUNG ........................................................................................................... 7
Chương 1. VAI TRÒ CỦA LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐỐI VỚI VIỆC NGHIÊN
CỨU VĂN HỌC VÀ THƠ VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI ................................. 7
1.1. Từ mỹ học sáng tạo đến mỹ học tiếp nhận ...................................................... 8
1.2. Từ tác giả đến văn bản văn học ..................................................................... 10
1.3. Từ văn bản đến tác phẩm văn học .................................................................. 13
1.4. Vấn đề người đọc trong lí thuyết tiếp nhận ................................................... 16
1.4.1. Lý thuyết tiếp nhận ..................................................................................... 17
1.4.2. Người đọc trong quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học ........................... 19
1.5. Thơ Việt Nam thời kì đổi mới – cái nhìn toàn cảnh ...................................... 28
1.5.1. Đổi mới quan niệm thơ ............................................................................... 29
1.5.2. Đổi mới về thi pháp nghệ thuật ................................................................... 29
1.5.2.1. Sự biến đổi về thể loại ......................................................................... 29
1.5.2.2. Những động hình ngôn ngữ mới trong thơ ........................................... 31
1.5.3. Sự thay đổi về thị hiếu thẩm mĩ công chúng thời đổi mới. .......................... 31
Chương 2. DIỄN TRÌNH TIẾP NHẬN THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG ............. 35
2.1. Sự xuất hiện thơ Trương Đăng Dung ............................................................ 35
2.2. Sự phản hồi của công chúng – người đọc lý tưởng........................................ 39


2.2.1. Người đọc trước cảm thức về thời gian trong thơ Trương Đăng Dung ........ 43
2.2.2. Người đọc trước cảm thức về phận người trong thơ Trương Đăng Dung.... 53
2.2.3. Người đọc trước cảm thức về sự cô đơn trong thơ trương Đăng Dung ........ 60
2.2.4. Người đọc trước cảm thức về cái chết trong thơ Trương Đăng Dung .......... 68
2.2.5. Người đọc trước cảm thức về tình yêu trong thơ Trương Đăng Dung ......... 77
2.3. Sự phản hồi của công chúng – người đọc phổ thông ...................................... 87
Chương 3. VẤN ĐỀ CHỦ THỂ TIẾP NHẬN TRONG VIỆC TIẾP NHẬN THƠ

TRƯƠNG ĐĂNG DUNG .................................................................................... 91
3.1. Vai trò của chuẩn thẩm mỹ cộng đồng ........................................................... 93
3.2. Từ đặc điểm sáng tạo nghệ thuật đến tiếp nhận văn học ................................ 95
3.2.1. Nhan đề “Những kỷ niệm tưởng tượng” ..................................................... 96
3.2.2. Ngôn ngữ thơ Trương Đăng Dung ............................................................. 99
3.2.1.1. Hệ thống biểu tượng .......................................................................... 100
3.2.2.2. Ngôn ngữ đời thường ......................................................................... 105
3.2.2.3. Ngôn ngữ giàu chất tượng trưng siêu thực ......................................... 106
3.2.3. Ngôn ngữ thân thể .................................................................................... 108
3.2.3. Giọng điệu thơ Trương Đăng Dung .......................................................... 111
3.2.3.1. Giọng giễu nhại ................................................................................. 111
3.2.3.2. Giọng điệu triết lý .............................................................................. 112
3.2.4. Các thủ pháp nghệ thuật............................................................................ 115
3.2.4.1. Thủ pháp áp đặt ................................................................................ 115
3.2.4.2. Thủ pháp phi lý .................................................................................. 116
3.2.4.3. Thủ pháp thành phần phụ ................................................................... 119
3.2.4.4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây .............................................................. 120
3.2.5. Những ý nghĩa “thỏa thuận’’ giữa người đọc với Những kỷ niệm tưởng tượng ...... 120
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 124
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 127

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối tượng cụ thể là tác phẩm văn
học. Cơ sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự đối thoại với các văn bản
văn học thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng. Lí luận văn học hiện đại ý thức rất
rõ về sự phức tạp mang tính chất triết học của vấn đề này. Không có tác phẩm văn

học nào tồn tại khép kín với một vẻ mặt duy nhất dành cho tất cả mọi người đến với
nó. Tác phẩm văn học cũng “không phải là tượng đài kỉ niệm thể hiện tính chất phi
thời gian trong hình thức độc thoại của nó”(H.R.Jauss).
Lý thuyết tiếp nhận, mĩ học tiếp nhận về các vấn đề triết học ngôn ngữ… thực
sự được hệ thống khi những công trình nghiên cứu uy tín của Trương Đăng Dung
xuất hiện. Ông đã có những công trình nghiên cứu về tác phẩm văn học, lý thuyết
tiếp nhận như: Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Tác phẩm văn học như là quá
trình, Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học…cùng với những công trình dịch
thuật đầy tâm huyết, những bài viết, những chuyên luận của ông đã xác lập một
cách hệ thống lí thuyết tiếp nhận ở Việt Nam. Công chúng tiếp nhận văn học là
thành tố quan trọng trong hệ thống văn học. Lý thuyết tiếp nhận đã chỉ ra người đọc
là chủ thể tiếp nhận, có vai trò chủ đạo trong quá trình biến văn bản văn học thành
tác phẩm văn học. Lý thuyết tiếp nhận, mỹ học tiếp nhận đã đặt người đọc - công
chúng văn học vào vị trí là một thành tố trung tâm trong hệ thống văn học. Tiếp
nhận văn học trong cái nhìn tích cực chính là sự tiếp nhận sáng tạo, để từ đó có
được những sản phẩm nghệ thuật mới. Công chúng văn học đã từng bước đặt chân
vào vị thế của một thành tố quan trọng bên cạnh các thành tố khác đã được xác lập
của hệ thống văn học. Tác phẩm văn học là một quá trình của sự tương tác không
ngừng nghỉ của chủ - khách thể với khách - chủ thể. Hay nói cách khác đó chính là
tính chất mở của văn bản văn học, ở đó có “sự tương tác giữa mã của người gửi và
mã của người nhận trong tiếp nhận văn học” (Lê Thị Hồng Vân). Còn theo JeanPaul Sartre “Tác phẩm như là một con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện và vận động.

1


Muốn làm cho nó xuất hiện cần phải có một hoạt động cụ thể gọi là sự đọc. Và tác
phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra,
nó chỉ là những vệt đen trên giấy trắng”.
Như vậy, ta thấy thông qua sự cụ thể hóa (đọc) mà những chỗ trống trong tác
phẩm được bù lấp, bộ xương được đắp thêm da thịt. Ngôn ngữ như đám sương mù

lảng bảng, luôn nhờ tâm hồn người sử dụng nó mà tỏa sáng và sưởi ấm. Người đọc
đến với cái mê cung của mọi sự liên kết, tạo nghĩa không ngừng. Chính vì vậy mà
văn bản tưởng như đã hoàn toàn khép kín vẫn luôn tạo ra khả năng có thể lí giải
bằng nhiều cách khác nhau mà tính độc đáo, không lặp lại của nó vẫn không thay
đổi. Lịch sử tác phẩm văn học sở dĩ có được, một mặt do giá trị của chính tác
phẩm, mặt khác là do sự tiếp nhận sáng tạo và năng động của công chúng.
1.2. Trương Đăng Dung là một cây bút đa năng – có lẽ phải nói như vậy mới đủ
để đánh giá tài năng đa dạng của ông. Ông không chỉ được biết đến là một trong
những nhà khoa học uy tín của Việt Nam với nhiều công trình nghiên cứu khoa học
có giá trị như: Các vấn đề của khoa học văn học (chủ biên, 1990), Từ văn bản đến
tác phẩm văn học (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình (2004). Người đọc
còn biết đến một dịch giả uy tín Trương Đăng Dung với những dịch phẩm như: Lâu
đài (F.Kafka-1998), Đứa trẻ mồ côi (Móricz Zsigmond - 2009), Trên đường đến
với ngôn ngữ (M. Heidegger), Nghệ thuật và chân lí khách quan (G. Lukács)…
Đặc biệt là công trình chuyển ngữ Truyện Kiều sang tiếng Hungary được ông hoàn
thành khi chưa tròn 30 tuổi… Năm 2011 khi tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng
trình làng“bạn đọc từ đây sẽ quen với một Trương - Đăng - Dung - thơ, những
chiều kích khác nhau của một con người” (Đỗ Lai Thúy). Những kỉ niệm tưởng
tượng ngay từ khi ra đời đã gây tiếng vang lớn, được hiệu ứng xã hội cao, nhận
được sự phản hồi tích cực của giới nghiên cứu, phê bình và của công chúng yêu thơ
trong và ngoài nước. Sự xuất hiện của tập thơ đã phần nào làm cho đời sống thi ca
Việt Nam sôi động lên; tập thơ và tác giả của nó đã xứng đáng nhận Giải thưởng
của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2011.

2


Đã ba năm, kể từ khi tập thơ đó được xuất bản, đã có rất nhiều kiến giải thật sự
"thỏa lòng" để người đọc tâm phục khẩu phục những thành tựu và đóng góp của
Trương Đăng Dung trong địa hạt thi ca. Đặc biệt là cuốn Những kỉ niệm tưởng

tượng tác phẩm và dư luận ra đời năm 2014, tập hợp gần bốn mươi bài tiểu luận,
bài nghiên cứu, phê bình của các tác giả trong và ngoài nước về tập thơ được đăng
tải trên các tạp chí trung ương và địa phương không chỉ khẳng định sức hấp dẫn của
tập thơ đối với công chúng yêu thơ mà còn có ý nghĩa thời sự trong đời sống văn học.
Nếu bạn đọc hiện nay thường có thói quen đánh giá "cái tầm" của một người
làm phê bình, lý luận chủ yếu trên các hoạt động bề nổi, những tiêu chuẩn nhãn tiền
thì cá nhân tôi thiết nghĩ, điều cần chú tâm nhất là điểm gặp nhau trong kiến giải
của người làm phê bình với phản hồi thưởng thức của độc giả. Với cuốn Những kỉ
niệm tưởng tượng tác phẩm và dư luận chúng ta nhận thấy người làm phê bình
chân chính không cần những chiêu thức "làm màu", đồng thời độc giả phải kiên
nhẫn hơn trong việc đọc tác phẩm, đọc bài viết phê bình để có sự soi chiếu, hướng
tới có cái nhìn thỏa đáng hơn về người làm phê bình, lý luận Trương Đăng Dung.
Đó là lý do tôi chọn “Sự phản hồi của người đọc qua thơ Trương Đăng Dung” làm
đề tài luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài Sự phản hồi của người đọc qua thơ Trương Đăng Dung, người
viết không chỉ tìm hiểu phẩm chất nổi trội của nhà thơ, tìm hiểu sự cách tân của nhà
thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người viết còn muốn có cái nhìn toàn diện,
thấu đáo, biện chứng về một nhà thơ - nhà khoa học Trương Đăng Dung, để từ đó
khẳng định giá trị nghệ thuật của cây bút giàu khát vọng sáng tạo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong cuộc sống đa diện nhiều chiều hôm nay, khi mà các giá trị sống, chuẩn
mực sống đang không ngừng có xu hướng mở rộng, trong đó có tương tác toàn cầu
một cách toàn diện, thì thơ ca, một nét tiêu biểu của mỗi nền văn hóa sẽ phải đảm
đương những chức phận ngày một lớn. Tư cách nhà thơ, với sự nhập cuộc thường

3


trực của mình sẽ phải có những đóng góp để góp phần thể hiện bản lĩnh, bản sắc

dân tộc mình trong biến động ngày một phức tạp…
Ta nhận thấy, các tác phẩm văn học nghệ thuật trong đó có thơ, khi đạt những
tầm vóc khác nhau về giá trị nội dung, nghệ thuật, dù khiêm tốn hay có đóng góp
nhất định với đời sống xã hội thì cũng dường như với người đọc ngoài việc thưởng
thức những giá trị nội dung nghệ thuật mà tác phẩm mang lại, mấy ai hiểu biết sâu
sắc và thấu đáo về hoàn cảnh ra đời, đời sống của người sáng tạo ra nó, hoặc những
đoạn trường uẩn khúc, những thăng hoa nhất thời trong quá trình tác phẩm ấy được
sinh ra. Chính những điều dường như thường bị thờ ơ đó lại là những yếu tố thể hiện
thái độ, sự nhập cuộc quyết liệt của nhà thơ với thời cuộc.
Đời sống nhà văn nhà thơ, số phận mỗi tác phẩm, những thuận nghịch, tác
động, những tâm tư, sự ràng buộc nhiều mặt trong xã hội nhiều biến động, hay tâm
thế thời đại, sức mạnh dân tộc, sức mạnh nhân dân, cá tính sáng tạo, sự hy sinh, và
ngay cả những uẩn khúc của các nhà thơ, các tác phẩm thơ là một vấn đề rất đáng
được quan tâm, tìm hiểu, chia sẻ cũng luôn gắn chặt, bắt nguồn từ sự nhập cuộc của
mỗi cá nhân. Những trăn trở sáng tạo, những quan điểm thuận nghịch, những tâm
tư của nhà thơ là những gì rất cần được cảm thông, chia sẻ. Và điều đó sẽ được thể
hiện rõ nét qua sự phản hồi của người đọc qua tác phẩm. Đó chính là tình cảm và
sự đồng điệu sáng tạo lên trên những tác phẩm của nhà văn với mục đích góp phần
để cho độc giả có cái nhìn mới hơn, đầy đủ hơn, gần gũi hơn về sự nhập cuộc của
nhà thơ.
Từ sau năm 1975, thơ ca nói chung và thơ Trương Đăng Dung nói riêng đã vận
động ra sao khi công cuộc đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng sâu,
rộng. Với đề tài sự phản hồi của người đọc qua thơ Trương Đăng Dung người viết
muốn nghiên cứu nhằm tổng kết những quan điểm tiếp nhận của giới nghiên cứu,
phê bình về những tác phẩm đã khẳng định tài năng và tên tuổi của Trương Đăng
Dung trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua đấy thấy chân dung của một nhà
khoa học làm thơ – con người nghệ sĩ Trương Đăng Dung. Nhìn lại các công trình

4



nghiên cứu của các nhà nghiên cứu phê bình tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu phê
bình đã có những phát hiện đáng quý về thơ Trương Đăng Dung nhưng chưa có ai
tập trung bàn về sự phản hồi của người đọc qua tập thơ Những kỉ niệm tượng tượng
của ông. Do đó việc hệ thống hóa những phản hồi của người đọc qua cuốn sách
Những kỉ niệm tượng tượng tác phẩm và dư luận là vấn đề mới mẻ, cần được khảo
sát, nghiên cứu để thấy được vai trò của công chúng trong việc tiếp nhận tác phẩm
văn chương và tài năng thơ của Trương Đăng Dung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự phản hồi của người đọc qua thơ
Trương Đăng Dung (tập Những kỉ niệm tưởng tượng tác phẩm và dư luận) và sự
phản hồi của người đọc là học sinh phổ thông khi đọc tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn tập trung nghiên cứu sự phản hồi của người đọc
qua cuốn Những kỉ niệm tưởng tượng tác phẩm và dư luận (2014). Ngoài ra luận
văn còn tìm hiểu sự phản hồi của những người đọc không chuyên khác; cũng như
một số tác phẩm của một số tác giả khác như một sự so sánh cần thiết để làm nổi
bật vấn đề trọng tâm của luận văn.
5. Giả thuyết khoa học
Luận văn sẽ hướng đến những đóng góp có ý nghĩa sau:
- Luận văn nghiên cứu có hệ thống các ý kiến và khuynh hướng tiếp cận thơ
Trương Đăng Dung trên phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện.
- Thấy được quan điểm nghệ thuật của Trương Đăng Dung trong hành trình
khám phá thế giới nghệ thuật.
- Có cái nhìn mang tính hệ thống về một hồn thơ thông tuệ, triết lí, nhiều suy tư,
trăn trở, khắc khoải, hoài niệm về thời gian, phận người và thế giới nhân sinh.

5



6. Phương pháp nghiên cứu
Để luận văn có thể triển khai một cách khoa học, người viết sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp liên ngành

6


NỘI DUNG
Chương 1
VAI TRÒ CỦA LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐỐI VỚI VIỆC
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ THƠ VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Tất cả mọi tác phẩm, dù được sáng tạo theo thi pháp tất yếu nào cũng mở theo
các kiểu đọc, mỗi kiểu đọc mang tới cho tác phẩm một đời sống mới từ một triển
vọng nào đó theo thị hiếu cá nhân của người đọc”. Umberto’ Eco [22,23]
Thế kỉ XX là cột mốc quan trọng đánh dấu sự vận động, phát triển có tính bước
ngoặt của lý luận văn học. Mối quan hệ nhà văn, tác phẩm, người đọc là một vấn đề
lí thuyết mà mọi nền lí luận phê bình văn học đều quan tâm và được coi là mối
quan hệ biện chứng của quá trình sáng tạo văn học. Tuy nhiên nhận thức về mối
quan hệ này luôn biến đổi theo sự vận động và phát triển của tư duy lí luận văn học
từ truyền thống đến hiện đại. Nếu tư duy lí luận văn học tiền hiện đại chú ý đến vai
trò của khâu sáng tác hoặc xem xét sáng tác tách rời với các quy luật tiếp nhận, hầu
như không chú ý đến khâu tiếp nhận văn học, đồng thời đề cao vai trò của nhà văn,
xem sáng tạo văn học là độc quyền của người nghệ sĩ, khi nhà văn viết xong tác
phẩm coi như đã hoàn thành quá trình sáng tạo nên không quan tâm đến sự tiếp

nhận của người đọc. Tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại đã thấy được
sự khác biệt giữa văn bản và tác phẩm văn học, thấy được vai trò của người đọc
trong quá trình hình thành các giá trị văn học. Rất coi trọng vai trò người đọc, tư
duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại xem người đọc là người đồng sáng tạo
với nhà văn. Chính nhờ sự tiếp nhận của người đọc, văn bản văn học mới trở thành
tác phẩm. Không có sự tiếp nhận của người đọc, những gì nhà văn viết ra không
tồn tại như là một bức thư mà chỉ như một dấu tích, một bản thảo. Tác phẩm chỉ có
được đời sống khi được tiếp nhận. Như Mác nói: “Chỉ có sử dụng mới hoàn tất
hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm một sự trọn vẹn với tư cách là sản
phẩm”. Vì vậy có thể xem tiếp nhận là một giai đoạn tồn tại của hình tượng nghệ

7


thuật, là một khâu không thể thiếu của sáng tạo nghệ thuật như “là một hoạt động
sản xuất tinh thần”.
1.1. Từ mỹ học sáng tạo đến mỹ học tiếp nhận
Giữa thế kỉ XX, với việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và tác
phẩm văn học, lí luận văn học hiện đại đã vượt lên tư duy lí luận văn học tiền hiện
đại. Nếu như trước đó trong một thời gian dài tư duy lí luận văn học tiền hiện đại
chỉ nhấn mạnh đến mối quan hệ nhân quả, đề cao yếu tố môi trường, tác giả … thì
lí luận văn học hiện đại đã nhận ra những yếu tố đặc thù của văn bản văn học và
phương thức tồn tại của tác phẩm thông qua người đọc . Từ chỗ lấy mỹ học sáng
tạo làm cơ sở, tư duy lí luận văn học hậu hiện đại đã đưa vấn đề đọc lên tầm triết học.
Những thành tựu của lí luận văn học hiện đại đã có những bước tiến quan trọng
trong việc khám phá văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động. Nhưng rồi tư
duy lí luận văn học hậu hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản
thể của văn bản văn học trong quan hệ với các yếu tố khác, với người tiếp nhận.
Các lí thuyết hậu hiện đại cho rằng nghĩa của văn bản văn học không ổn định, nó
mang tính quan hệ và được tạo nên do một quá trình. Tiếp theo khái niệm nghĩa

đang tồn tại của lí luận văn học hiện đại là khái niệm nghĩa được thiết lập của lí
luận văn học hậu hiện đại. Câu hỏi phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì?
Đã nêu lên hai vấn đề phải đề cập đến. Một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định
đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập một đời sống cụ thể của văn
bản văn học. Cả hai đều liên quan đến quá trình xâm nhập đời sống của văn bản
văn học, nói chính xác hơn nó là quá trình tự tạo ra đời sống của văn bản văn học.
“Như vậy là sau khi lí luận văn học hiện đại xác định được vai trò trung tâm tạo
nghĩa của văn bản văn học độc lập với tác giả và môi trường ra đời của nó, lí luận
văn học hậu hiện đại đã khám phá ra quá trình tạo lập đời sống của văn bản văn
học trong quan hệ với sự tiếp nhận của người đọc. Đây là cơ sở để lí luận văn học
hậu hiện đại thể hiện tham vọng lấy mỹ học tiếp nhận thay cho mỹ học sáng tạo”. [17,55]

8


Có thể nói, chỗ dựa lớn nhất của tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại
là những tư tưởng triết học. Trong lí luận văn học hiện đại, Roman Ingarden một
triết gia theo trường phái hiện tượng học trong cuốn sách “Tác phẩm văn học” của
mình đã đưa triết học vào lí luận văn học. Theo cách phân tích đối tượng của hiện
tượng học, Roman Ingarden đã nhìn nhận tác phẩm văn học như là khách thể mang
tính chủ ý, vì thế đời sống của tác phẩm văn học cũng phụ thuộc vào những hoạt
động cụ thể hóa (đọc) văn bản có chủ ý của người đọc hướng tới nó.
Sự xuất hiện của mỹ học tiếp nhận làm cho văn bản văn học mang thông điệp
đối thoại có được vị thế mới đó là làm đối tác đối thoại - tức là không phải sự giải
mã thông điệp có trong văn bản làm xuất hiện nghĩa mà chính các hoạt động liên
kết được thực hiện trong quá trình đọc tạo nên cấu trúc nghĩa có phương thức tồn
tại. Đây là đóng góp có ý nghĩa lí luận của mỹ học tiếp nhận nói riêng và lí luận
văn học hậu hiện đại nói chung. Mỹ học tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của
văn bản văn học mà mỹ học sáng tạo trước đây vẫn bảo vệ, thay vào đó là tính chất
mở và dấu ấn cá nhân. Mĩ học tiếp nhận nêu lên những giá trị dễ thay đổi, trực tiếp

gắn liền với cá nhân người đọc thông qua quá trình cụ thể hóa văn bản. Tính chất
của sự cụ thể hóa phụ thuộc vào người đọc (người đọc tiềm ẩn trong văn bản).
Người tiếp nhận đối thoại và tái tạo tác phẩm và tác phẩm tái tạo người đọc. Nhà
văn khi viết đã có ý tạo ra khoảng trống từ những chi tiết, hình ảnh được miêu
tả…người đọc sẽ thỏa sức dùng vốn tri thức, sự liên tưởng, tưởng tượng của cá
nhân mình một lớp ý nghĩa riêng, điều đó nhà văn không kiểm soát được. Hay nói
cách khác nhà văn tạo cho văn bản văn học có tính chất mơ hồ để người đọc phải là
người đồng sáng tạo, bằng cách cụ thể hóa văn bản để lấp đầy sự mơ hồ không
chính xác đó. Điều đó đã làm nên sức hút, sự mời gọi đầy quyến rũ của một tác
phẩm văn học.
H.R.Jauss, trong công trình“Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với
khoa văn học” (1967) cho rằng tác phẩm văn học như là một quá trình chứ không
phải sản phẩm cố định. Nghĩa là dòng sông ngữ nghĩa không ngừng trôi, nghĩa của

9


tác phẩm không phụ thuộc vào chủ ý của tác giả, ý nghĩa của tác phẩm văn học có
được trong tinh thần tiếp nhận của người đọc, vì thế nó vẫn là quá trình. Đồng thời
Jauss cũng nhấn mạnh khái niệm “tầm đón đợi”, rằng mỗi người đọc sẽ có một
“tầm đón đợi” khác nhau trước tác phẩm. Công trình này của ông được coi như là
tuyên ngôn của trường phái mỹ học tiếp nhận Đức.
Như vậy “từ đây, lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác
giả và tác phẩm mà còn được hiểu các tác phẩm và người tiếp nhận trong những
biến chuyển của lịch sử của nó. Và lí thuyết cộng đồng diễn giải xuất hiện trên cơ
sở mĩ học tiếp nhận đã kêu gọi người đọc suy nghĩ về văn học như nghĩ về cái thiết
chế tập hợp các loại diễn giải khác nhau”. [22,58]
1.2. Từ tác giả đến văn bản văn học
Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần theo phương
thức cá thể, không thể có một quy trình công nghệ như sản xuất công nghiệp mà

được diễn ra muôn màu muôn vẻ. Tố Hữu nói “Mỗi người có cách làm của mình,
cách sáng tạo của mình, không bắt chước của ai được”. [61,209] Quả vậy, nói đến
thói quen trong sáng tác không ai giống ai…tuy nhiên trong sự đa dạng này ta có
thể rút ra trạng thái tâm lí, cùng những khâu chung nhất trong quá trình sáng tác
của nhà văn hay nói cách khác là mối quan hệ giữa tác giả với văn bản.
Theo quan niệm của tư duy lí luận truyền thống (thuật ngữ truyền thống được
hiểu là những quan niệm văn học trở nên quen thuộc, ăn sâu vào ý thức văn học,
từng chi phối văn học qua nhiều thế hệ - tính từ thời cổ đại đến hết thế kỉ XIX), tác
phẩm văn học là nơi để chuyển tải tư tưởng, kí thác tâm sự của tác giả, sự ý thức về
mối quan hệ tác giả và tác phẩm dù chưa hiện diện như một hệ thống lí thuyết,
nhưng cũng đủ để trở thành một truyền thống kiên cố và đầy tự giác trong tư duy
văn học phương Đông, không chỉ ở thời trung đại mà thậm chí còn tồn tại dai dẳng
cho đến tận ngày nay. Khi đó, tác giả đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình
thành tác phẩm văn học.

10


Nếu giai đoạn trước tác giả được xem như người thư kí trung thành của thời
đại, là một thợ thủ công, thì càng về sau nó được quan niệm như chủ thể sáng tạo
quan trọng của tác phẩm. Vào đầu thế kỉ XIX, khi khoa học văn học thực sự hình
thành ở phương Tây thì tác giả được chính thức “phát hiện”. Người ta cho rằng tác
phẩm chính là sản phẩm của tác giả. Từ đây, câu hỏi tác giả là ai và quan hệ với tác
phẩm như thế nào, đã được nhà phê bình văn học Pháp nổi tiếng trả lời bằng việc
khởi xướng phương pháp phê bình tiểu sử, lấy việc nghiên cứu con người tác giả để
tìm hiểu tác phẩm. Đây cũng là phương pháp đầu tiên xuất hiện trong nghiên cứu
văn học, khi khoa học văn học chính thức ra đời. Mối quan hệ “cha” – “con” trong
quan niệm này đã chi phối đến công việc nghiên cứu văn học trong một thời gian
dài. Quan niệm này đã dẫn đến những hệ quả tất yếu là tác phẩm văn học gần như
đã “yên phận” vì nó là sản phẩm tinh thần do nhà văn sáng tạo, đương nhiên, sự tồn

tại và ý nghĩa của nó phải phụ thuộc vào nhà văn, do nhà văn quyết định. Ý nghĩa
của tác phẩm không nằm ngoài ý đồ mà nhà văn đã định sẵn từ trước, và “nghĩa của
tác phẩm không thay đổi vì luôn luôn có một hoạt động ý thức cá thể nhất định chi
phối nó trong một thời gian cụ thể nhất định nào đó”. [13,172] Tư tưởng tác phẩm
vì thế cũng chính là tư tưởng của tác giả. Với quan niệm này, tác phẩm đã và chỉ
được nhìn trong mối quan hệ chi phối, ràng buộc bởi chính hành vi sáng tạo ra nó;
tác phẩm là con đẻ của nhà văn, là “vật phụ thuộc”của tác giả, nó bị đồng nhất với
quá trình sáng tạo, với ý đồ tư tưởng, với sự chủ ý của nhà văn. Việc phân tích,
đánh giá tác phẩm, vì vậy cần phải căn cứ vào tác giả, phải đi tìm và lĩnh hội cho
được tư tưởng, tình cảm của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
Như một lẽ dĩ nhiên, trước vai trò tuyệt đối của tác giả, người đọc không có vai
trò gì lớn đối với tác phẩm, bởi trước người đọc, mọi việc xem như đã “an bài”,
“xong xuôi”. Nói khác đi, người đọc dường như không có mối liên hệ tất yếu nào
với tác phẩm. Như vậy, lí luận văn học và mỹ học truyền thống, lí luận văn học
mác xít đã tiếp cận tác phẩm văn học trước hết bằng con đường tìm hiểu tác giả,

11


nhìn tác phẩm như một sản phẩm đã được hoàn tất, hầu như tách rời quy luật tiếp
nhận, không xuất phát từ phía bạn đọc, từ chủ thể tiếp nhận.
Đặt tác phẩm trong mối quan hệ với tác giả, lí luận tiền hiện đại đã xác lập
quyền uy tuyệt đối của tác giả đối với tác phẩm, trao cho nhà văn quyền quyết định
ý nghĩa, tạo giá trị và đem lại đời sồng cho tác phẩm của mình. Tác phẩm lúc này
giống như một “phiên bản”, một “tồn tại khác” của tác giả. Việc quá đề cao, thậm
chí tuyệt đối hóa vai trò của tác giả đã dẫn đến việc không tôn trọng đúng mức tính
độc lập tương đối của tác phẩm.
Tóm lại, tác phẩm văn học trong quan niệm truyền thống như là một vật phụ
thuộc trong quan hệ với hiện thực, với tác giả. Tác phẩm bị cào bằng, thậm chí bị
chìm đi trong những mối liên kết phi văn bản như hiện thực lịch sử, tiểu sử cá nhân,

giai thoại văn học…Tìm hiểu tác phẩm vì thế mà căn cứ vào yếu tố ngoại văn như
hiện thực, thời đại, tác giả - các yếu tố tham gia vào quá trình đánh giá giá trị của
tác phẩm văn học. Tác phẩm như vậy đã được lý giải từ quan hệ nhân quả thông
qua những dữ kiện ngoài văn học. Thậm chí, tác phẩm đôi khi không còn là mục
đích nghiên cứu mà chỉ là phương tiện để tìm hiểu hiện thực xã hội hoặc con người
tác giả. Văn bản lúc này không phải là đối tượng để khám phá tác phẩm ở phương
diện chất liệu, hình thức ngôn ngữ mà chỉ là cái vỏ ngoài để chuyển tải nội dung có
sẵn trong ý đồ tác giả. Ý nghĩa của tác phẩm vì vậy, là cái ổn định, bất biến mà
người đọc hoàn toàn có thể nắm bắt được; và người đọc do đó cũng sắm một vai trò
rất khiêm tốn, thụ động, là người khám phá ra cái ý nghĩa đã có sẵn trong tác phẩm.
Như vậy, đối với tư duy lí luận truyền thống, điều quan trọng không phải là tồn tại
của tác phẩm văn học là gì, mà vấn đề là tác phẩm ra đời như thế nào. Mỹ học sáng
tạo đã hoàn toàn chi phối lý luận truyền thống.
Thực chất, chúng ta không thể phủ nhận hoàn toàn sự chi phối của hiện thực và
tác giả đến tác phẩm văn học. Nó cũng đã góp phần tạo nên một cách lí giải về tác
phẩm văn học, tồn tại trong thời gian dài và có những thành công nhất định. Tuy
nhiên, nghiên cứu, lí giải tác phẩm chỉ bằng vào mối quan hệ nhân – quả, bằng vào

12


hệ quy chiếu giản đơn, bằng vào những mối liên hệ bề mặt có thể cảm nhận được
của thế giới, lí luận văn học truyền thống đã không tránh khỏi quan niệm sơ lược,
một chiều về tác phẩm văn học, thiếu nhiều điểm nhìn, bỏ qua nhiều tiềm năng to
lớn của tác phẩm, chỉ thấy mặt ổn định, chưa thấy mặt biến đổi, thấy cái trực tiếp,
chưa thấy cái gián tiếp…cách tiếp cận này chỉ là cách ta tìm ra điều nhà văn muốn
nói chứ không phải là điều mà tác phẩm thực sự nói được với người đọc, và nhiều
hơn, với các thế hệ người đọc… Nói khác đi, sẽ không thể hiểu hết được tác phẩm
văn học nếu chỉ dựa vào hành vi sáng tạo ra nó. Tuy nhiên, cho đến nay, việc
nghiên cứu tác phẩm một chiều trên đây đã tạo thành lối mòn trong suy nghĩ của

nhiều người, ngay cả với những nhà nghiên cứu. Vai trò tác giả luôn ngự trị trong
các công trình nghiên cứu về tác phẩm văn học, đã làm mất ý nghĩa khách quan của
tác phẩm được tiếp nhận từ phía bạn đọc. Quan niệm truyền thống về tác phẩm văn
học đã bộc lộ ngày càng rõ những hạn chế nhất định của nó. Tiếp nối những quan
điểm truyền thống là những quan niệm của tư duy lí luận văn học hiện đại, đã khám
phá mới về đặc trưng bản thể của văn học nghệ thuật trong mối quan hệ với những
yếu tố khác, với văn bản và người đọc.
1.3. Từ văn bản đến tác phẩm văn học
Văn bản văn học tưởng như đã hoàn thành khi nhà văn đã hoàn thành và đặt
dấu chấm hết và nhà xuất bản in thành sách, nhưng thực ra đó mới chỉ là bước đầu
tiên quan trọng để nó trở thành tác phẩm văn học. “Với lớp lớp câu chữ phi vật thể
ẩn chứa nhiều nghĩa khác nhau, luôn biến động và không thể khoanh vùng, tác
phẩm văn học có phương thức tồn tại riêng thông qua người đọc. Một sáng tác văn
học được gọi là tác phẩm văn học với điều kiện nó có giá trị văn học. Nhưng giá trị
văn học (nếu có) chỉ hình thành trong quá trình đọc và sau khi đọc mà thôi.”
[22,24]. Vấn đề đặt ra là quá trình từ văn bản đến tác phẩm văn học diễn ra như thế
nào? Thực chất giá trị của tác phẩm là gì? Việc nghiên cứu văn bản văn học trong
mối liên hệ với chủ thể tiếp nhận sẽ cho ta câu trả lời một cách khoa học cho những
câu hỏi đó.

13


Đã gần một thế kỉ, vấn đề tác phẩm văn học được nhiều nhà lí luận đại diện cho
các trường phái khoa học khác nhau nghiên cứu. Trong số họ, nổi bật nhất là học
trò của Edmund Husserl – triết gia và nhà mỹ học Balan, ông Roman Ingarden với
công trình tác phẩm văn học(1927). Theo Roman Ingarden, cùng một tác phẩm mà
có nhiều sự đọc khác nhau ông gọi đó là sự cụ thể hóa: “Một mặt, tồn tại một văn
bản văn học như là sản phẩm sơ lược với những chỗ trống và những sự việc chưa
xác định giống như một bộ xương. Mặt khác thông qua sự cụ thể hóa (đọc) mà

những chỗ trống trong tác phẩm đó được bù lấp, bộ xương được đắp thêm da thịt.”
[22,25] Tính chất của sự cụ thể hóa này phụ thuộc vào trình độ người đọc, và bản
thân tác phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hóa lí
tưởng. Sự cụ thể hóa này ở mỗi người mỗi vẻ không ai giống ai. Cũng theo Roman
Ingarden khi phân tích đối tượng học của Hiện tượng học ông cho rằng tác phẩm
văn học là vật có chủ ý. Nguồn gốc sự tồn tại của nó có trong các hoạt động của ý
thức sáng tạo nơi tác giả, còn cơ sở của sự tồn tại chất thể thì ở trong văn bản viết…
Vấn đề mối quan hệ giữa văn bản và tác phẩm cũng được nhiều nhà lí luận
khác nghiên cứu. Có người xem mối quan hệ này cũng giống như mối quan hệ giữa
tác phẩm âm nhạc và nốt nhạc. Jauss – nhà mỹ học tiếp nhận Đức đã phân biệt hai
tầm đón nhận của tác phẩm: Một là ảnh hưởng được xác định thông qua văn bản,
hai là sự tiếp nhận được xác định thông qua người đọc. J.M.Lotman cũng nhấn
mạnh sự khác nhau giữa văn bản và tác phẩm. Theo ông , một trong những yếu tố
cấu thành nên tác phẩm là văn bản, nhưng văn bản chỉ có được trong mối liên hệ
với thực tại nằm ngoài văn bản, mối liên hệ này cũng có trong tác phẩm văn học.
Cùng một tập hợp các yếu tố của văn bản sẽ có mối liên hệ với thực tại nằm ngoài
văn bản của những người đọc khác nhau. “Để hoạt động giao tiếp của nghệ thuật
được thực hiện, cần phải tạo ra nhiều yếu tố cấu trúc giống nhau của mã tác giả
và mã người đọc, vì như vậy thì người đọc mới hiểu được cái ngôn ngữ tự nhiên mà
người ta viết ra văn bản.” [22,28]

14


Theo Jan Mukaropxky thì tác phẩm văn học vừa là kí hiệu, vừa là sự việc. Ông
lưu ý đến yếu tố chủ ý của nhà văn trong sáng tác, nó làm cho nhà văn biết xử lí
văn bản như một tác phẩm. Sự chủ ý này Mukaropxky gọi là động thái ngữ nghĩa.
Ông còn lưu ý rằng tác phẩm văn học luôn có một tác động ngược chiều với sự chủ
ý, đó là sự vô tình, các yếu tố chủ ý và vô tình gặp nhau trong tác phẩm trên cơ sở
đề xuất và mong muốn chủ quan của người đọc. Đây là cơ sở để chúng ta hiểu tại

sao có sự suy luận, quy chụp nhiều khi rất tùy tiện của người đọc đối với một tác
phẩm văn học nào đó. Nếu lịch sử văn học là lịch sử của hệ thống quy ước khác
nhau thì sự phát triển của văn học là sự thay đổi các hệ thống .Tác phẩm văn học là
hệ thống và bản thân văn học cũng là hệ thống.
Trong cái nhìn của lý luận văn học hiện đại, nhà văn là người sáng tạo nên
văn bản, nhưng bản thân văn bản chưa là tác phẩm văn học với đúng nghĩa của nó.
Nó chỉ là một “sơ đồ mời gọi”, một “kết cấu vẫy gọi”. Về điều này, J.M.Lôtman
khẳng định: “Định nghĩa được văn bản là một việc khó. Trước hết cần loại bỏ quan
niệm đồng nhất văn bản với toàn bộ tác phẩm”. Nhà nghiên cứu Trương Đăng
Dung bằng một niềm tin và một tình yêu mãnh liệt đã nhọc lòng chuyên tâm dấn
thân quyết liệt trên con đường khoa học đầy thử thách chông gai dám làm cái việc
khó ấy. Trương Đăng Dung đã xác lập được hệ thống luận điểm khoa học của riêng
mình, đồng thời ông đã đưa ra những kiến giải mới để làm cho lý luận văn học thực
sự trở thành khoa học với đúng nghĩa của nó. Những ý tưởng học thuật về phương
thức tồn tại của tác phẩm văn học đã được khai triển, đào sâu và làm phong phú
thêm trong công trình Tác phẩm văn học như là quá trình xuất bản năm 2004. Đọc
công trình lý luận Tác phẩm văn học như là quá trình của Trương Đăng Dung, dễ
nhận thấy ông không chỉ tiếp thu, giới thiệu mà còn tiến hành đối thoại trên tinh
thần khoa học. Chính tinh thần đối thoại đã giúp cho Trương Đăng Dung đưa ra các
kiến giải riêng của mình, trong đó, đáng chú ý là những kiến giải về tác phẩm văn
học và tiếp nhận văn học. Theo Trương Đăng Dung, mỗi một lần đọc văn bản là
một lần người đọc lại “vấp ngã”. Tính đa nghĩa và độ mở của văn bản khiến cho

15


những cách lý giải về nó đều có cơ hội tồn tại và trên thực tế, không thể có kết luận
cuối cùng về giá trị tác phẩm. Đây là cái nhìn thể hiện cảm quan hậu hiện đại khi
nói về đời sống tác phẩm trong tương quan với chủ thể tiếp nhận. Khi chỉ ra sự
khác biệt giữa văn bản và tác phẩm, Trương Đăng Dung có cái nhìn mới về bản

chất của tác phẩm văn học. Nêu lên phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, ông
đề cập đến hai vấn đề: một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng văn học
của văn bản; hai là khả năng tạo lập một đời sống cụ thể của văn bản văn học thông
qua người đọc. Đây là những đóng góp đáng quý của Trương Đăng Dung vào ý
thức đổi mới và hiện đại nền lý luận văn học nước nhà. Những luận điểm này đã đi
vào đời sống và được nhiều người vận dụng, nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước đánh giá cao hướng tìm tòi mới mẻ và hiện đại của ông:
- Văn bản là sản phẩm cuối cùng của sự sáng tạo nghệ thuật khi mà nhà văn đặt
dấu chấm hết và in thành sách.
- Văn bản là một hệ thống kí hiệu, nhưng chưa phải là tác phẩm, mà chỉ là bước
đầu tiên quan trọng để nó trở thành tác phẩm văn học.
- Văn bản tuy vậy không phải là một sản phẩm cố định, chết cứng bởi vì nó có
khả năng sinh tạo nghĩa.
- Tác phẩm là sự cụ thể hóa văn bản trong người đọc. Chính người đọc, bằng
toàn bộ kinh nghiệm thẩm mĩ của mình, khi chạm vào tác phẩm đã đánh thức
“nàng công chúa ngủ trong rừng”, và lúc đó, sinh thể nghệ thuật mới hiện lên toàn
vẹn và tác phẩm mới trở nên đầy đặn. Như vậy, tác phẩm chỉ được hình thành
thông qua sự đọc và chỉ thực sự trọn vẹn trong cảm nhận của người đọc mà thôi.
Từ những khái niệm trên đây chúng ta nhận thấy giữa văn bản và tác phẩm có sự
khác nhau về nguyên tắc: Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi người đọc xuất hiện.
1.4. Vấn đề người đọc trong lí thuyết tiếp nhận
Từ cuối thế kỉ XX tư duy lí luận văn học đã có những khám phá quan trọng về
bản chất, đặc trưng và phương thức tồn tại của tác phẩm. Việc tiếp cận văn học từ
tác giả, từ cấu trúc nội tại của văn bản dần dần đã bộc lộ những nhược điểm của nó.

16


Nhiều vấn đề của tác phẩm văn học sẽ không giải thích được nếu chỉ dựa vào hai
nhân tố tác giả và văn bản. Tác phẩm văn học trong cách hiểu mới hơn không còn

là hiện tượng ngôn ngữ thuần túy, là cái văn bản cố định trong sáng tác của nhà văn
như một thế giới khép kín nữa mà là một thế giới mở hướng về người tiếp nhận.
Tác phẩm văn học là quá trình đồng hành cùng thế giới người đọc sinh động. Vấn
đề trung tâm của tác phẩm lúc này không còn là văn bản mà chính là người đọc.
Những phát hiện mới mẻ của lí luận về tác phẩm văn học có ý nghĩa khai mở một
đường hướng mới để khám phá bản chất tác phẩm văn học: Nghiên cứu tác phẩm
văn học trong mối quan hệ với người đọc, với hoạt động tiếp nhận.
1.4.1. Lý thuyết tiếp nhận
Đề cập đến hành động tiếp nhận, xuất phát từ đặc trưng thẩm mỹ của nghệ
thuật ngôn từ, các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Tiếp nhận
văn học là hoạt động chiễm lĩnh các gía trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn
học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm
hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách
hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch,
chuyển thể …” [10, 325].
Các tác giả cuốn giáo trình Lí luận văn học ( Phương Lựu chủ biên – NXB GD
2006), tập 1, Bản chất và đặc trưng văn học) cũng cho rằng: “Tiếp nhận văn học là
hoạt động tiêu dùng, thưởng thức, phê bình văn học của độc giả thuộc nhiều loại
hình, nhiều trình độ khác nhau”.
Tiếp nhận là hoạt động nắm bắt thông tin trong quá trình giao tiếp. Trong giao
tiếp văn học từ trước đến nay, quan hệ giữa người đọc với tác phẩm thường được
gọi bằng các từ “đọc”, “cảm thụ”, “thưởng thức”, “phê bình”… Lí thuyết tiếp
nhận đề xuất khái niệm “tiếp nhận văn học” nhằm chỉ phương diện chủ động của
người đọc trong việc lựa chọn thông tin, sáng tạo ý nghĩa của tác phẩm. Với khái
niệm này, vai trò của người đọc được đặt lên hàng đầu.

17


Tiếp nhận văn học là một khâu quan trọng trong toàn bộ hoạt động văn học.

Hoạt động văn học không đơn thuần chỉ là hoạt động sáng tạo nên văn bản văn học
- tức là hoạt động sáng tác của nhà văn, mà còn bao gồm hoạt động tiếp nhận văn
bản văn học của người đọc - tức là hoạt động đọc. Hai hoạt động này liên quan đến
nhau, quy định lẫn nhau, không thể thiếu một trong hai bởi chỉ có thể thông qua
hoạt động tiếp nhận của người đọc - chủ thể cảm thụ, tiếp nhận văn học, văn bản
văn học mới có thể chuyển hóa thành tác phẩm văn học.
Lí thuyết tiếp nhận ra đời vào giữa thế kỉ XX đã khẳng định sự tiếp nhận của
người đọc có vai trò vô cùng to lớn, quyết định sự sống còn, tồn tại hay không tồn
tại của tác phẩm. Khoa học nghiên cứu văn học thời kì này đã chứng kiến sự
chuyển dịch trung tâm từ tác giả sang văn bản rồi đến người đọc. Với quan niệm
này, tác phẩm văn học vừa là sáng tạo của nhà văn, vừa là nơi hoạt động của ngôn
ngữ, nhưng đồng thời vừa là nơi tiếp nhận những sáng tạo từ phía người đọc để tạo
nên những nét nghĩa mới cho tác phẩm văn học như là hình thức đọc đặc trưng mà
lí luận văn học truyền thống không giải thích được. Và như vậy, xét từ cách tiếp
nhận này, việc nghiên cứu bản chất của tác phẩm văn học cũng chính là nghiên cứu
mối quan hệ giữa tác phẩm và người đọc. Do đó, hoạt động tiếp nhận văn học là
một hoạt động mang tính sáng tạo, tác phẩm văn học là một thành tố trong quá
trình tiếp nhận.
Nhà nghiên cứu Roman Ingarden trong công trình nghiên cứu “Tác phẩm văn
học” đã chỉ ra rằng: “Tác phẩm văn học như là khách thể mang tính chủ ý thì đời
sống của tác phẩm văn học cũng phụ thuộc vào những hoạt động cụ thể hoá (đọc)
văn bản có chủ ý của người đọc hướng tới nó…, mặt khác thông qua sự cụ thể hóa
như là một hoạt động của ý thức hướng về nó mà bộ xương được đắp thêm da thịt
và tác phẩm hình thành”.
Nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung cũng khẳng định “Tác phẩm văn học như
là quá trình” mà hành trình của nó đi từ hoạt động viết của nhà văn để tạo nên văn
bản văn học và khi được người đọc tiếp nhận, mới trở thành tác phẩm văn học. Cho

18



nên, có thể nói “lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác giả tác
phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những chuyển
biến lịch sử của nó” [22,167]. Giá trị và ý nghĩa của tác phẩm văn học có đời sống
đa dạng, phong phú trong sự lĩnh hội và tiếp nhận của người đọc qua các thế hệ.
Tiếp nhận văn học khác với các hoạt động tiếp thu văn học với mục đích để
thưởng thức, khảo cứu, giải trí … Tiếp nhận văn học chính là quá trình người đọc
hòa mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được
dựng lên bằng ngôn từ, lắng nghe tiếng nói cuả tác giả, thưởng thức cái hay, cái
đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống,
vốn văn hóa và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu
chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, dõi theo diễn biến của câu
chuyện, làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống
động, đầy sức cuốn hút. Có thể nói, tiếp nhận văn học là một hoạt động tích cực
của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong
tâm trí mình.
Như vậy, trong đời sống văn học, tiếp nhận văn học có ý nghĩa hết sức quan
trọng, nó là “giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác – giao tế của văn hoc”. Hans
Robert Jauss nói: “Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận” để khẳng định tầm quan
trọng của tiếp nhận văn học bởi chỉ khi đến với độc giả, văn bản văn học mới trở
thành yếu tố tinh thần, biến tác phẩm thành một yếu tố của đời sống ý thức xã hội.
1.4.2. Người đọc trong quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học
Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối tượng cụ thể là tác phẩm văn học.
Cơ sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự đối thoại với các văn bản văn
học thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng. Lí luận văn học hiện đại ý thức rất rõ
về sự phức tạp mang tính chất triết học của vấn đề này. Tác phẩm văn học ẩn chứa
những thông điệp mang nhiều nghĩa khác nhau, luôn biến động và không thể
khoanh vùng; khi chúng ta muốn đối thoại với nó nhưng có cái gì đó thường xuyên
tạo ra khoảng cách và sự hiểu lầm, không cho ta ý nghĩa chung mong đợi. Bởi vì


19


luôn luôn có cái gì đó thay đổi trong phương thức tồn tại của tác phẩm văn học liên
quan đến người đọc, chính sự thay đổi này là nguồn gốc của những tranh luận về
phương thức chiếm lĩnh thẩm mĩ tác phẩm văn học về nghĩa và ý nghĩa của nó. Các
tác phẩm văn học luôn luôn đòi hỏi hình thức lí giải mới. Trước tác động và ảnh
hưởng của những tác phẩm này, không chỉ chúng mà những tác phẩm khác trong
quá khứ cũng có thể đọc lại một cách khác trước. Không có tác phẩm văn học nào
tồn tại khép kín, với một vẻ mặt duy nhất dành cho tất cả mọi người đến với nó.
“Tác phẩm văn học cũng không phải là tượng đài kỉ niệm thể hiện tính chất phi
thời gian trong hình thức độc thoại của nó.” H.R.Jauss [20,65] Nhưng mỗi cách lí
giải tác phẩm đều phản ánh những yếu tố chủ quan trong việc đọc và hiểu tác
phẩm. Hoạt động đọc của chủ thể tiếp nhận là hoạt động của ý thức chủ quan
hướng tới khách thể là văn bản học. [20,65]
Lí luận tiếp nhận hiện đại nêu lên những nhận thức mới đối với văn bản tác
phẩm. Văn bản không phải là một sản phẩm bất biến và đơn giản, mà là có nội
dung vô tận, đa nghĩa. Tiếp nhận văn học chắc chắn không phải là sự tiếp nhận tiêu
cực, bị động đối với tác phẩm văn học, mà là sự sáng tạo tích cực chủ động. Nhà
văn muốn tạo ra tác phẩm phải sáng tạo, người đọc thưởng thức tác phẩm cũng phải
sáng tạo. Jauss đã nói: “Một tác phẩm văn học hoàn toàn không phải là một khách
thể độc lập tự thân mà tất cả các thời đại, tất cả mọi người đọc đều có một cảm
nhận giống nhau về nó. Tác phẩm văn học cũng không phải là một tấm bia vĩnh
cửu thách thức thời gian mà là một bản nhạc quản huyền, không ngừng làm rung
lên những tiếng vọng mới trong lòng người đọc, đồng thời không ngừng giải phóng
khỏi chất liệu ngôn từ để có được một sự tồn tại hiện thực”.
Sự sáng tạo của người đọc xuyên suốt toàn bộ quá trình thưởng thức văn học.
Một biểu hiện nổi bật của nó là sự bổ sung và làm phong phú thêm hình tượng
trong tác phẩm. Gorki nói: “Chỉ khi người đọc dường như được tận mắt nhìn thấy
tất cả những gì mà nhà văn muốn biểu đạt, khi nhà văn khiến cho người đọc thông

qua kinh nghiệm của bản thân họ, thông qua vốn tri thức và vốn sống của họ mà

20


×