Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Chuyên đề nghiên cứu xây dựng thương hiệu cá nhân trên mạng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.05 KB, 48 trang )

Chuyên đề thực tập

GVHD: TS Phan Thanh Hoàn

MỤC LỤC

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 1


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS Phan Thanh Hoàn

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 2


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS Phan Thanh Hoàn

DANH MỤC CÁC HÌNH

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 3




PHẦN I - MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Từ thuở sơ khai, các mối tương tác marketing đầu tiên trong lịch sử đã
diễn ra khi lời nói từ một người đáng tin cậy đến đôi tai của người khác.
Marketing truyền miệng bắt đầu và nó liên tục là dạng thức tốt nhất, hiệu
quả nhất của marketing trong hàng nghìn năm. Sau đó, những năm 1450,
báo in đã đánh dấu sự khởi đầu một kỷ nguyên mới của marketing và truyền
thông đa phương tiện. Thư truyền thống, theo sau là báo in và tạp chí, phát
thanh và truyền hình, cho phép những người làm marketing và quảng cáo
nhắm mục tiêu vào một nhóm đối tượng khổng lồ chỉ trong một lần.
Ngày nay, chúng ta có thể lắng nghe hàng nghìn đài phát thanh – hoặc
những cách nghe nhạc miễn phí. Vậy tại sao lại phải nghe một quảng cáo
trên sóng phát thanh trong khi hoàn toàn có thể đổi kênh? Có hàng nghìn
kênh truyền hình ta có thể đón xem bất cứ lúc nào và hơn thế - công nghệ
cho phép ghi lại chương trình yêu thích và nhanh chóng chuyển tiếp bỏ qua
quảng cáo. Đó là lý do tại sao chúng ta không xem quảng cáo, trừ khi chúng
ta làm trong ngành này, và có mối quan tâm chuyên nghiệp. Mọi người đang
không nghe và xem quảng cáo như trước đây, ngành marketing và truyền
thông đang thay đổi nhanh chóng chưa từng thấy.
Khi lượng người dùng Internet ngày một tăng, mạng xã hội ngày một
phát triển và mở rộng thì truyền thông xã hội đang trở thành một xu thế tất
yếu trong ngành tiếp thị trực tuyến. Tại đây, dường như khoảng cách về
không gian và thời gian gần như không giới hạn, tính tương tác hai chiều
cao. Chính vì lẽ đó, truyền thông mạng xã hội đang trở nên ưu việt hơn hẳn
so với các hình thức truyền thông truyền thống thông thường.
Dù bất cứ là ai, chúng ta đều phải có mua bán sản phẩm – các thương
hiệu sản phẩm – từ quần áo đến đồ đạc, công nghệ và những thứ khác. Là


SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 4


người tiêu dùng, chúng ta tạo thương hiệu cá nhân cho bản thân bằng các
thương hiệu doanh nghiệp mà ta ủng hộ, đó có thể là biểu tượng hình vòm
của McDonald trên giấy gói bánh burger, biểu tượng của Nike trên đôi giày
chúng ta mang, hoặc hình quả táo bị khuyết một miếng trên chiếc điện thoại
di động. Trong suốt cuộc đời mình, giữa những thương hiệu cạnh tranh
nhau, chúng ta phải quyết định chọn một số thương hiệu này thay vì thương
hiệu khác, và trong quá trình đó ta đã tạo nên thái độ, ấn tượng và niềm tin
– mà thậm chí chúng ta không nhận ra. Điều này có nghĩa là, mỗi một cá
nhân đều là một thương hiệu. Và không ai có thể tiếp thị thương hiệu cá
nhân của người đó tốt hơn chính họ. Cũng giống như thương hiệu hàng hóa,
thương hiệu cá nhân là giá trị của một cá nhân giúp phân biệt cá nhân đó
với những người khác. Thương hiệu cá nhân không chỉ đơn thuần là gây
dựng một hình ảnh ra thế giới bên ngoài mà nó còn là sự tự nhận thức về
các điểm mạnh, điểm yếu, kỹ năng, cảm xúc... cũng như cách sử dụng các yếu
tố đó để tạo nên sự khác biệt cho bản thân và định hướng cho các quyết định
của cá nhân đó. Ngày nay, thương hiệu cá nhân đã và đang trở thành một
yếu tố thiết yếu để đạt tới một sự thành công chuyên nghiệp.
Sự hiện diện của các công cụ truyền thông xã hội khiến việc xây dựng
thương hiệu cá nhân mạnh mẽ và hiệu quả hơn bao giờ hết. Xây dựng
thương hiệu cá nhân đã bước vào trực tuyến. Rất nhiều công cụ web 2.0
được thiết kế để xây dựng các cộng đồng và thúc đẩy hoạt động thảo luận
trong cộng đồng – ví dụ như Linkedln, Blogs, Facebook và Twitter – đó là cơ
hội cho những người có tư tưởng sự nghiệp muốn nhấn mạnh các phẩm
chất của họ, chứng tỏ giá trị và làm nổi bật bản thân trong nhóm những

người được coi là ngang hàng.
Nghiên cứu về xây dựng thương hiệu cá nhân bằng các công cụ web 2.0
là một phạm trù rất rộng. Nhằm bước đầu giới thiệu về một khái niệm
tương đối mới là “thương hiệu cá nhân” và cách thức một số người thành

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 5


công trong xây dựng thương hiệu cá nhân của mình đã làm như thế nào,
chúng tôi thực hiện chuyên đề “Nghiên cứu xây dựng thương hiệu cá
nhân trên mạng xã hội Facebook”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Phân tích sự phát triển của truyền thông hiện nay với sự phát sinh nhu cầu
tạo dựng thương hiệu cá nhân.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống các yếu tố để xây dựng một thương hiệu cá nhân.
- Nghiên cứu các chiến lược để xây dựng một thương hiệu cá nhân hiệu
quả
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng thương hiệu cá nhân thông qua mạng xã hội Facebook.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu cách thức tạo dựng sức quảng
bá của thương hiệu cá nhân trên mạng xã hội Facebook.
- Về không gian: Nghiên cứu tổng hợp các tài liệu sách, báo, chương trình
truyền hình và một số nguồn từ Internet.
- Về thời gian nghiên cứu: 25/01/2015 – 25/04/2015

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Thu thập dữ liệu thứ cấp từ sách, báo, chương trình truyền hình
và Internet.
4.2 Phương pháp nghiên cứu

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 6


Theo phương pháp Case Study, hệ thống các nhân tố và cách thức để
xây dựng thương hiệu cá nhân, từ đó phân tích thông qua một số trường
hợp cụ thể.

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 7


PHẦN II - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1

Thương hiệu cá nhân và xây dựng thương hiệu cá nhân

1.1.1 Thương hiệu cá nhân
Tác giả Adam Thiên, cố vấn RichdadLoc, đã đưa ra các khái niệm về
thương hiệu cá nhân như sau:

Thương hiệu cá nhân là hình ảnh, giá trị bản thân của một cá nhân giúp
người khác phân biệt được cá nhân đó với mọi người xung quanh.
Thương hiệu cá nhân phản ánh tính cách, năng lực của người đó về học
vấn, các thành tích về kinh tế, xã hội… xây dựng lên. Những giá trị mà người
đó mang đến cho xã hội. Nó có sự ảnh hưởng rất lớn tới những người có thể
giúp chúng ta thành công.
Thương hiệu cá nhân không đơn thuần là những ảnh hưởng ra thế giới
bên ngoài mà nó còn là sự tự nhận thức về các điểm mạnh, điểm yếu, kỹ năng,
cảm xúc… cũng như cách sử dụng các yếu tố đó để tạo nên sự khác biệt cho
bản thân và định hướng cho các quyết định của cá nhân đó.
Thương hiệu cá nhân chính là hình ảnh của một con người trước công
chúng, cộng đồng, có thể đo lường được thông qua các tiêu chí được xếp theo
thứ tự:
- Mức độ được biết đến.
- Những giá trị, thành tích hay phẩm chất.
- Mức độ ảnh hưởng với công chúng.
- Những giá trị mà người đó đóng góp cho cộng đồng.

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 8


1.1.2 Xây dựng thương hiệu cá nhân
“Xây dựng thương hiệu cá nhân là quá trình mà cá nhân và doanh nghiệp
khác biệt hóa bản thân và nổi bật lên giữa đám đông bằng cách tìm ra và nêu
bật lời chào hàng có giá trị độc đáo của họ và bẩy lời chào hàng đó lên bằng các
phương tiện truyền đạt chuyển tải thông điệp và hình ảnh nhất quán để đạt
mục tiêu cụ thể. Theo cách này, các cá nhân có thể làm cho họ được công nhận
là chuyên gia trong lĩnh vực của mình, thiết lập danh tiếng và uy tín, phát triển

sự nghiệp và xây dựng sự tự tin”. [1]
Một doanh nghiệp sở hữu một thương hiệu mạnh sẽ có doanh thu, giá
bán, các giá trị thương mại, hình ảnh cao hơn các doanh nghiệp không có
thương hiệu. Với cá nhân hoàn toàn tương tự, hai con người có học thức, có
nhận thức tương đương nhau, nhưng một người có điểm khác biệt sẽ có giá
trị hơn người còn lại. Khi một người có thương hiệu cá nhân, người đó tạo ra
một thương hiệu công ty nào đó, nó phát triển rất tốt. Dù cho người đó muốn
bán doanh nghiệp đó đi hay công ty phá sản thì không sao cả. Khi đó chính là
thương hiệu cá nhân của người đó vẫn còn, người đó hoàn toàn có thể xây
dựng một thương hiệu khác. Nếu người đó không có thương hiệu cá nhân thì
khi bán doanh nghiệp người đó sẽ không còn gì cả, đó chính là điểm khác biệt.
Đối với các ứng viên tuyển dụng cũng vậy, hiện nay các doanh nghiệp khi
tuyển dụng luôn đánh giá cao giá trị bản thân của ứng viên, theo họ những
con người có những điểm khác biệt về cá nhân sẽ có giá trị hơn các ứng viên
khác không có ý thức xây dựng giá trị cá nhân.
Xuất phát từ sự không hài lòng với mức lương hiện có, với học vấn hiện
tại, cá nhân cố gắng hết sức để học tập, làm việc với mong muốn được tăng
lương, nâng cao địa vị xã hội. Rõ ràng người đó đang cố gắng để xây dựng một
thương hiệu cá nhân. Với thương hiệu đó những giá trị gia tăng sẽ cao hơn khi
người đó không có thương hiệu.

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 9


Trong thực tế những nhóm người sau sẽ có xu hướng xây dựng thương
hiệu cá nhân cao hơn các nhóm khác:
- Những người làm kinh doanh
- Những người hoạt động chính trị, nghệ thuật, thể thao

- Những nhà nghiên cứu
Cả ba nhóm người trên đều có mục tiêu, chiến lược xây dựng cho mình
một thương hiệu, họ đều cố gắng làm việc, phấn đấu để có một thương hiệu
với khách hàng, với cộng đồng trong các lĩnh vực họ đang hoạt động. Họ đã
đầu tư chất xám, tiền bạc, các hoạt động thật sự để xây dựng hình ảnh, việc
đầu tư này sẽ tương đối tốn kém, nhưng khi thương hiệu đã được khẳng định
họ dễ dàng thành công với các mục tiêu đã đặt ra.
“Một người chỉ là số nhỏ nhất trong hàng tỷ người trên thế giới, để
những người xung quanh phân biệt ra bạn là đã rất khó, để họ nhớ được, biết
được giá trị của bản thân bạn còn khó hơn nữa. Vì vậy chúng ta hãy bắt đầu
suy nghĩ về thương hiệu cá nhân và có những chiến lược, hành động thật sự
xây dựng cho mình một thương hiệu.”[5]

1.2 Quy luật xây dựng thương hiệu cá nhân
Thương hiệu cá nhân là hình ảnh, giá trị bản thân của một cá nhân giúp
người khác phân biệt được cá nhân đó với mọi người xung quanh. Thương
hiệu cá nhân phản ánh tính cách, năng lực, giá trị cốt lõi và các thành tích… mà
một cá nhân tạo dựng được trong quá trình học tập, làm việc với những người
xung quanh.
Xây dựng thương hiệu cá nhân là cái cách cá nhân làm cho người khác
chấp nhận tính cách của họ, có thể thông qua môi trường cá nhân hoặc môi
trường công việc. Một thương hiệu cá nhân không phải là chính cá nhân đó,

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 10


nó là sự phản ánh tính cách, năng lực và giá trị cốt lõi của họ. Nhưng điều đó
không có nghĩa là cá nhân đánh mất chính mình, nó là việc định hình tính cách

riêng vốn có của cá nhân thích ứng với sự chấp nhận của một nhóm người mà
cá nhân đang ảnh hưởng.[17]
Vấn đề then chốt trong xây dựng thương hiệu cá nhân là chỉ rõ chính
mình thay vì để người khác làm công việc đó. Người đó phải có khả năng ảnh
hưởng đến mọi người để họ chấp nhận người đó là ai theo cách mà người đó
mong muốn dựa trên những giá trị, điểm mạnh, mục tiêu và cá tính riêng.[17]
8 quy luật xây dựng thương hiệu cá nhân [5]
Quy luật của sự chi tiết hóa: một thương hiệu lớn phải tập trung thật
chính xác và chi tiết vào hoặc một điểm mạnh nhất, hoặc một tài năng nổi bật
nhất, hoặc một thành tựu quan trọng nhất. Có thể chi tiết hóa theo một trong
những cách như sau: năng lực, hành vi, phong cách sống, tầm nhìn…
Quy luật của lãnh đạo: cá nhân phải có quyền lực hoặc sự tín nhiệm của
nhóm người quan hệ của riêng mình, có ảnh hưởng không nhỏ đến nhóm
người ấy. Khả năng lãnh đạo xuất phát từ những tài năng, vị trí hiện tại và sự
công nhận của nhóm người quan hệ đối với cá nhân.
Quy luật của cá tính riêng: một thương hiệu lớn phải được tạo dựng
trên nền tảng của những cá tính riêng và những thói xấu của cá nhân. Quy luật
này phần nào tháo bỏ áp lực cho quy luật của sự lãnh đạo rằng: cá nhân là
người luôn luôn tốt nhưng cá nhân không phải là người hoàn hảo.
Quy luật của sự khác biệt hóa: một thương hiệu cá nhân hiệu quả luôn
cần phải khẳng định là khác biệt đối với những người khác.
Quy luật của sự dễ nhận dạng: một thương hiệu cá nhân phải được gợi
nhắc lặp đi lặp lại liên tục, cho đến khi nó tự ghi dấu một cách có ý thức vào
trong đầu của một nhóm cộng đồng. Sự dễ nhận dạng tạo ra khả năng thừa

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 11



nhận về mặt chất lượng. Người ta cho rằng bởi vì họ phải liên tục thấy một
người và hiển nhiên người ấy sẽ trở nên nổi bật hơn, đáng tin tưởng hơn so
với những người khác.
Quy luật của sự thống nhất: một cá nhân ẩn sau một thương hiệu phải
thống nhất thực hiện theo đạo đức và hành vi đã được xây dựng từ trước cho
thương hiệu cá nhân đó. Lúc đó, tính cách cá nhân phải phản ánh được bản
chất thương hiệu trong cộng đồng.
Quy luật của sự bền bỉ: bất cứ một thương hiệu cá nhân nào cũng cần
thời gian để phát triển.
Quy luật của sự thiện chí: một thương hiệu cá nhân sẽ được kéo dài hơn
nếu cá nhân ẩn đằng sau thương hiệu ấy biết cách củng cố tốt thương hiệu. Cá
nhân phải biết tạo ra một ý tưởng đầy thiện chí đối với cộng đồng của mình,
để từ đó được sự ủng hộ tích cực hơn từ họ.

1.3 Lợi ích của việc xây dựng thương hiệu cá nhân
Xây dựng thương hiệu cá nhân thường nhắm đến một số ích lợi như
sau:

- Làm tăng khả năng nhận dạng (visibility) của bản thân cá nhân đó
trước nhóm công chúng mục tiêu.
- Giúp cá nhân đạt được vị trí hàng đầu trong tâm trí của những
người xung quanh.
- Tạo sự khác biệt rõ giữa cá nhân và những đối thủ cạnh tranh của
mình.
- Thu hút thêm các nhóm công chúng mới, đồng thời duy trì quan hệ
tốt với nhóm công chúng hiện tại.
- Dễ dàng được công chúng ủng hộ khi mở rộng sang những lĩnh vực
kinh doanh khác.
- Thuận lợi hơn trong việc đạt được mục tiêu của cá nhân và mục tiêu
công việc.


SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 12


- Gia tăng sự tự tin của chính cá nhân đó.
- Làm tăng giá trị những gì cá nhân đó đã làm.
- Dễ thu hút và duy trì mối quan hệ tốt với những đối tượng tiếp xúc
xung quanh mình.
- Gia tăng sự ủng hộ của mọi người đối với mỗi quyết định của cá
nhân.
Xây dựng thương hiệu cá nhân thật sự rất cần thiết cho bất kỳ ai, cho dù
người đó là lãnh đạo, nhà quản lý hay nhân viên bình thường. Nếu cá nhân có
một nghề nghiệp, một công việc yêu thích để làm cũng như những mục tiêu
phấn đấu trong cuộc sống thì việc xây dựng một thương hiệu cá nhân sẽ giúp
người đó dễ dàng có được thành công hơn.

1.4 Xây dựng thương hiệu cá nhân trên mạng xã hội
1.4.1 Giới thiệu các trang mạng xã hội phổ biến hiện nay
1.4.1.1 Facebook
Mark Zuckerberg- một sinh viên đang học tại Đại học Harvard đã tạo ra
mạng xã hội Facebook vào năm 2004. Phiên bản đầu tiên của Facebook ra
đời trong phòng ký túc xá của anh ấy. Zuckerberg nhớ lại, "Tôi chỉ nghĩ rằng
việc có thể truy cập được trang hồ sơ cá nhân của những người khác sẽ rất
thú vị . Rõ ràng, bạn không có cách nào để truy cập vào công cụ đó trừ khi
mọi người công khai hồ sơ. Vì vậy, tôi muốn làm một ứng dụng sẽ cho phép
mọi người làm điều đó để chia sẻ những thông tin được kiểm soát bởi chính
họ”. Ngay từ đầu, Facebook đã giữ hồ sơ của mình và các công cụ điều
hướng tương đối đơn giản để thống nhất trang giao diện cho mỗi cá nhân.

Chỉ trong vòng 24 giờ đầu tiên khi Facebook được đưa lên, khoảng từ 1.200
đến 1.500 sinh viên đại học Harvard đã đăng ký và trở thành thành viên của
cộng đồng Facebook. Trong tháng đầu tiên, một nửa sinh viên của trường đã
đăng ký trang mạng xã hội này.

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 13


Ban đầu, chỉ các sinh viên Harvard mới có thể xem và sử dụng được
Facebook. Mặc dù vậy, ngay sau đó Facebook đã nhanh chóng mở rộng ra
cho sinh viên trong nhóm Ivy League (một nhóm gồm tám trường đại học
danh tiếng hàng đầu của Mỹ) và nhiều trường đại học khác. Quy định chỉ
dành riêng cho sinh viên đại học sử dụng trong giai đoạn ban đầu đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo nên sự thành công của Facebook. Chính điều
này đã tạo ra cho các trang mạng xã hội quyền riêng tư, thống nhất và độc
quyền mà phương tiện truyền thông cạnh tranh khác lúc bấy giờ như
MySpace không làm được. Đến năm 2006, Facebook đã mở rộng ra cho tất
cả mọi người.
Hiện nay, Facebook là mạng xã hội phổ biến nhất trên thế giới với số
người dùng hơn 1,35 tỉ người dùng thường xuyên truy cập mỗi tháng, tăng
14% cùng kỳ và 864 triệu người dùng hằng ngày [4]. Facebook cho phép
người dùng tạo trang hồ sơ cá nhân của mình với các thông tin như nơi sinh
sống, công việc, trình độ học vấn, sở thích và tôn giáo. Nó khuyến khích mọi
người mở rộng mối quan hệ bằng cách thêm người dùng khác như bạn bè,
và nhiều người cố gắng để xem có bao nhiêu “bạn bè” mà họ có thể “kết bạn
được”. Để tương tác với bạn bè trên Facebook, người dùng có thể gửi tin
nhắn, “chọc phá" nhau; tải lên và xem những album ảnh, video, trò chơi; và
"tag" bạn bè trong các hình ảnh của họ. Người dùng có thể gửi ý kiến bình

luận lên "tường" của bạn bè và có thể cập nhật thông tin hằng ngày của tất
cả mọi người (hiện nay, “tường” được thay thế bởi “dòng thời gian”
timeline- người dịch). Tóm lại, Facebook đang hoàn thành sứ mệnh của mình
để "cung cấp cho mọi người sức mạnh để chia sẻ và làm cho thế giới cởi mở
và kết nối với nhau hơn.”
Facebook đã trở thành một phần quan trọng trong hoạt động
marketing của bất kỳ thương hiệu nào hiện nay vì nhiều lý do. Đầu tiên, các
công ty, các nhóm thể thao, nhạc sĩ và chính trị gia có thể tạo ra Facebook để

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 14


giao tiếp với người hâm mộ của họ. Trang Facebook cung cấp cho các nhóm
và thương hiệu một cách để tương tác cá nhân, nâng cao nhận thức và cung
cấp thông tin cho bất kỳ ai quan tâm. Các công ty sử dụng Facebook để giới
thiệu sản phẩm mới, tung ra các video và chương trình khuyến mãi, tải lên
hình ảnh, giao tiếp với người tiêu dùng, lắng nghe phản hồi và tạo ra một cái
nhìn tổng thể về cảm nhận cá nhân. Thậm chí các chính trị gia từ khắp nơi
trên thế giới từ Hoa Kỳ đến Philippines sử dụng Facebook để thúc đẩy chiến
dịch tranh cử của họ và giao tiếp với những người ủng hộ.
Facebook cũng cung cấp các cơ hội quảng cáo có chủ đích. Banner
quảng cáo - nguồn thu nhập chính của công ty - có thể nhắm vào mục tiêu
các cá nhân mục tiêu bằng cách sử dụng các biến nhân khẩu học hoặc các từ
khóa dựa trên các thông tin cụ thể mà người dùng đã khai trong hồ sơ cá
nhân trên Facebook. Ví dụ, Adidas sử dụng Facebook để quảng bá nhãn hiệu
cụ thể, hướng đến khách hàng mục tiêu trong từng khu vực và tạo cho
thương hiệu một phong cách cá nhân. Người đứng đầu nhóm marketing kỹ
thuật số của Adidas giải thích “Bất cứ nơi nào người hâm mộ có mặt, chúng

tôi sẽ sử dụng Facebook để nói chuyện với họ theo hướng phù hợp với từng
địa phương.”
Sự tăng trưởng và tầm ảnh hưởng của Facebook là không thể tin được.
Trong một cuộc khảo sát, những sinh viên đại học nói rằng Facebook là thứ
quan trọng thứ hai trong đời sống sinh viên của họ, đứng sau bia. Và không
chỉ sinh viên đại học sử dụng Facebook. Trong số 150 triệu người sử dụng tại
Hoa Kỳ, 29% ở độ tuổi 35- 54, trong khi 25% có độ tuổi từ 18- 24. Nhìn
chung, phân đoạn phụ nữ có sự phát triển nhanh chóng. Những người sử
dụng Facebook có xu hướng khả giả và trình độ học vấn cao hơn. Do đó, chi
phí cho quảng cáo cũng cao hơn. [25]
Vào năm 2010, Facebook đã vượt qua Google để trở thành trang web
hàng đầu thế giới dựa trên lượt truy cập mỗi tháng, đồng thời được xếp

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 15


hạng nhất cho các trang được xem mỗi tháng. Facebook đã trở thành một
phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của khách hàng và do đó cũng
trở thành một phần quan trọng trong chiến lược marketing cá nhân.
“Với chúng tôi, [Facebook] giống như TV đối với các nhà tiếp thị vào
những năm 1960. Giờ đây, Facebook là một phần thiết yếu trong công việc của
chúng tôi.” - theo Davide Grasso, Giám đốc tiếp thị, Nike.
1.4.1.2 Twitter
Người ta thường ví rằng truyền thông xã hội giống như một bữa tiệc
cocktail lớn. Nếu Facebook là một liên hiệp các bạn học trung học của một
khách hàng, câu lạc bộ sách và hội nhóm – thì Twitter là một nơi hào nhoáng,
vui vẻ, tuyệt vời mà chúng ta có thể nói chuyện với bất cứ ai về bất kỳ điều gì
vào bất kỳ thời điểm nào, kết nối thông qua một loạt đối thoại dài 140 ký tự.[2]

Twitter ra mắt vào năm 2006, giới truyền thông và những người nổi tiếng
đã giúp định hướng mạng lưới này đến hơn 200 triệu người sử dụng trên toàn
thế giới trong vòng 5 năm. Twitter, đặc trưng bởi thứ mà người ta gọi là “hội
chứng ngũ cốc” – Twitter là nơi quy tụ những người và những người tự yêu bản
thân với tràn ngập những chi tiết vụn vặt về cuộc sống của họ, thậm chí cả việc
họ ăn gì vào bữa sáng. Mặc dù chắc chắn có những người như vậy chia sẻ
những điều đó trên Twitter, nhiều người khác ở đây để học hỏi, chia sẻ và
trưởng thành như khi họ ở trong một bữa tiệc cocktail. [2]
Có 3 kiểu chia sẻ trên Twitter, gồm những cập nhật chung, trả lời (@) và
tin nhắn trực tiếp.

• Cập nhật chung. Được biết đến với tweet, những tin nhắn, thông điệp này
xuất hiện trên dòng cập nhật của bất cứ ai đăng nhập để theo dõi tài khoản của
một cá nhân khác.
• Trả lời. Những thông điệp, tin nhắn nhằm nhận được sự chú ý của một hoặc
nhiều tài khoản trên Twitter mà không làm phiền những người sử dụng khác.
Chẳng hạn như, nếu một cá nhân viết một câu bình luận (tweet) cho một tài

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 16


khoản Twitter của một người khác thì chỉ có người đó và bất cứ ai đang theo
dõi cả cá nhân lẫn người được nhận câu bình luận đó mới thấy câu bình luận
đó. Điều này giúp giảm thiểu sự phiền toái và cho phép cá nhân tweet trong
khoảng thời gian không giới hạn mà không gây phiền toái cho những người
khác không trực tiếp liên quan đến cuộc hội thoại, miễn là hầu hết thông điệp
của cá nhân trực tiếp trả lời @ cho một cá nhân khác. Do đó viết tweet cho @
một người khiến cho dòng chảy Twitter của cá nhân trở nên liên quan đến nội

dung của cuộc đối thoại.
• Tin nhắn trực tiếp. Những cập nhật này là những thông điệp
riêng tư giữa hai tài khoản, tương đồng với những tin nhắn gửi cho
nhau.
Bảng 1.1: Mười công ty nổi tiếng sử dụng Twitter
Công ty

Tài khoản Twitter

Best Buy

@BestBuy

Dell

@DellOutlet

Home Depot

@HomeDepot

JetBlue

@JetBlue

Kodak

@KodakCB

Southwest Airlines


@SouthwestAir

Starbucks

@Starbucks

Tasti D-Lite

@tastidlite

Whole Foods

@WholeFoods

Zappos

@Zappos

(Nguồn:

Dave Kerpen, Likeable Media – Bí quyết làm hài lòng khách

hàng, tạo dựng thương hiệu thông qua Facebook (và các mạng xã hội khác))
Bảng 1.2: Năm ứng dụng cho Twitter
Ứng dụng

Website

TweetDeck


TweetDeck.com

Hootsuite

Hootsuite.com

Twhirl

Twhirl.com

DigiTweet

DigiTweet.com

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 17


Seemic
(Nguồn:

Seemic.com

Dave Kerpen, Likeable Media – Bí quyết làm hài lòng khách

hàng, tạo dựng thương hiệu thông qua Facebook (và các mạng xã hội khác))
1.4.1.3 YouTube
YouTube, được sở hữu bởi Google, là một trong những công cụ tìm kiếm

lớn nhất trên thế giới. Đây là trang web chia sẻ video lớn nhất trên thế giới, với
hàng trăm triệu video hiện có và hàng triệu video được tải lên hàng tháng. Sử
dụng YouTube để thể hiện văn hóa doanh nghiệp, tổ chức, những sản phẩm,
dịch vụ, nhờ đó khi mọi người tìm kiếm những từ khóa liên quan đến doanh
nghiệp hay cá nhân, các video sẽ hiện ra.
Không có cách nào kể chuyện tốt hơn là thông qua một video, điều này
được minh chứng bằng sự phát triển của quảng cáo truyền hình như một phân
khúc lớn nhất của ngành công nghiệp quảng cáo và marketing (truyền hình
chiếm 32% thị phần quảng cáo toàn cầu). Và thông qua Facebook hay những
kênh video trực tuyến khác, khán giả và khách hàng chỉ phải trả rất ít tiền để
xem các video so với xem những quảng cáo trên truyền hình. [2]
Bảng 1.3: Năm kênh YouTube nổi tiếng
Công ty
BlackBerry
Coldwell Banker
Home Depot
Nike Football
Warner Bros. Records
(Nguồn:

Website
YouTube.com/BlackBerry
YouTube.com/ColdwellBanker
YouTube.com/HomeDepot
YouTube.com/NikeFootball
YouTube.com/WarnerBrosRecords

Dave Kerpen, Likeable Media – Bí quyết làm hài lòng khách

hàng, tạo dựng thương hiệu thông qua Facebook (và các mạng xã hội khác))

1.4.1.4 Foursquare và những mạng lưới định vị địa điểm khác
Hiển nhiên, các mạng xã hội phát triển dựa trên địa điểm là xu hướng
chính của truyền thông xã hội trong tương lai. Foursquare, Gowalla, SCVNGR
và Shopkick là bốn mạng lưới định vị địa điểm hàng đầu, mặc dù chưa biết ai
sẽ là người chiến thắng. Thực tế, Facebook Places, được sử dụng với tần suất
gấp 20 lần các dịch vụ khác gộp lại, do đó cuối cùng Facebook chính là đối thủ
thực sự lớn.[2]

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 18


Khi một người xác nhận vị trí của họ đang ở đâu (check-in) thông qua sử
dụng chức năng định vị toàn cầu GPS của thiết bị điện thoại di động thông
minh, họ cho bạn bè biết nơi họ đến và giành được nhiều “phần thưởng” khi
chia sẻ địa điểm, vị trí của họ. Điều này dẫn đến khả năng có được các thỏa
thuận được khoanh vùng từ những người làm marketing ở nơi họ định vị. Đây
là một cơ hội lớn dành cho các nhà marketing ở tất cả mọi quy mô.
Foursquare tặng thưởng những “huy hiệu ảo” cho mọi người dựa trên việc
check-in của họ - những huy hiệu định hướng hành vi. Chẳng hạn như khi
check-in ở 20 cửa hàng bánh pizza khác nhau họ sẽ kiếm được “huy hiệu
pizzaiolo” và check-in 10 lần ở sân chơi sẽ giúp họ kiếm được “huy hiệu người
trông trẻ”. Với Foursquare, nếu ai đó check-in nhiều nhất đến bất cứ địa điểm
nào sẽ trở thành “thị trưởng” trong vòng 60 ngày của địa điểm đó. Các nhà bán
lẻ và nhà hàng có thể đưa ra những giao dịch cho mỗi thị trưởng ở mỗi vị trí để
tặng thưởng cho lòng trung thành hoặc chiết khấu cho bất cứ ai “check-in” như
một món quà. Thị trưởng và những chiếc huy hiệu dường như nghe có vẻ rất
ngớ ngẩn với những ai chưa từng sử dụng Foursquare, nhưng nó sẽ giúp định
hướng hành vị người sử dụng theo những cách thức đầy sức mạnh. Hơn 5 triệu

người đã tham gia Foursqure và phần lớn họ sử dụng để check-in địa điểm
hàng ngày, kiếm thêm nhiều huy hiệu, được làm thị trưởng và có những thỏa
thuận mua bán. [2]
Bảng 1.4: Các chương trình quảng cáo Huy hiệu và Thị trưởng thành
công của Foursquare
Promo
Huy hiệu Conan Blimp
Huy hiệu Golden Corral

Cơ hội nhận được Huy hiệu Swarm: AJ
Bombers

SVTH: Bùi Minh Thu

Mô tả
Khi người sử dụng check-in “The Conan
Blimp”, họ sẽ nhận được huy hiệu Conan.
Golden Corral tổ chức chiến dịch quảng cáo
kéo dài ba tháng trong đó thị trưởng của nhà hàng sẽ
nhận được một bữa ăn và đồ uống miễn phí mỗi
ngày, và cứ người thứ 5 check-in sẽ nhận được một
bữa ăn miễn phí vào ngày đó.
Khi có trên 50 người sử dụng check-in cùng
một địa điểm cùng lúc thì có cơ hội nhận được huy
hiệu. Đã có 161 người cùng đến cửa hàng burger
Milwaukee và người sở hữu nhiều AJ Bombers là
Joe Sorge.

Trang 19



“Thị trưởng” Starbucks được miễn phí 1 đôla đồ uống Frappuccino

(Nguồn:

Các cửa hàng Starbucks đã đưa thông điệp:
“Là ‘thị trưởng’ của cửa hàng này, bạn sẽ được tặng
1 đô-la miễn phí dù bạn có muốn hay không khi
dùng đồ uống Frappuccino”.

Dave Kerpen, Likeable Media – Bí quyết làm hài lòng khách

hàng, tạo dựng thương hiệu thông qua Facebook (và các mạng xã hội khác))

1.4.1.5 LinkedIn
Là mạng xã hội lớn nhất dành cho người đi làm, LinkedIn có hơn 100
triệu người sử dụng, trong một không gian không dành để chia sẻ những bức
ảnh của con bạn, nói về thể thao hay âm nhạc.
LinkedIn cung cấp những thông tin về quá trình một con người làm việc
như thế nào, trước đây họ đã làm những gì, đã đạt được những thành tích gì, đã
từng cộng tác với ai.
Ngoài ra, LinkedIn có thể được sử dụng để định vị công ty của cá nhân
như là một nơi làm việc tốt nhất trong ngành.
LinkedIn đặc biệt hữu ích đối với những người làm marketing theo mô
hình từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp B2B. Các nhà điều hành và khách hàng
tiềm năng, đại lý và đối tác cảm thấy an toàn hơn khi làm việc trong một môi
trường được tạo lập dành cho công việc, hơn là thông qua Facebook. Nếu cá
nhân đang sở hữu một chuỗi nhà hàng, người đó sẽ tham gia vào cộng đồng
trên LinkedIn dành cho các nhà quản lý nhà hàng chuyên nghiệp.
Facebook mang lại rất nhiều lợi ích, nhưng LinkedIn có thể thu hút cả

những người khác theo cách chắc chắn và nhất quán. Rất nhiều ứng viên tiềm
năng cho công việc sẽ không đăng thông tin lên trang Facebook cá nhân của
nhà tuyển dụng để ứng tuyển vào những vị trí đang trống – đặc biệt khi sếp của
họ có thể là một trong những bạn bè trên Facebook của họ. Nhiều nhà điều
hành cấp cao, thậm chí ngay cả khi ở trên Facebook, có thể chỉ sử dụng
Facebook cho mục đích cá nhân và coi LinkedIn như một mạng lưới phục vụ
công việc, các hoạt động kinh doanh hay ra quyết định. Đó đơn giản là vấn đề

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 20


sử dụng các công cụ theo những cách thức hoạt động hiệu quả nhất đối với
người sử dụng. [2]
1.4.1.6 The Blogosphere
Một trang blog là một website hoặc một phần của website gồm những bài
báo hoặc bài viết được hiển thị theo thứ tự thời gian. Trên thế giới hiện nay có
hơn 150 triệu blog [2]. Để blog thành công, cần cung cấp được những nội dung
giá trị cho khán giả mục tiêu, viết bài thường xuyên (ít nhất là hai lần một tuần)
và mang đến một môi trường có tính tương tác thực sự. [2]
Rất nhiều blog của các công ty không thành công vì chúng được cập nhật
thiếu thường xuyên, hoặc được cập nhật quá thường xuyên với những nội dung
suồng sã nhằm mục đích giải trí, hơn là những nguồn hoặc nội dung thực sự giá
trị. Ở blog, nội dung cập nhật dài hơn Facebook hay Twitter, cũng như khả
năng kết hợp và đưa vào những bức ảnh, video, bảng bầu chọn và những hình
thức đa phương tiện khác. Người sử dụng blog có thể kể những câu chuyện
trong không gian của mình theo cách riêng.
Bảng 1.5:Một số nền tảng Blog
Nền tảng

Wordpress

Website
Wordpress.org

Tumblr

Tumblr.com

Posterour

Posterour.com

Blogger

Blogger.com

(Nguồn:

Ưu thế
Rất nhiều theme và plugin để phục vụ cho
các mục đích sử dụng.
Nền tảng tiểu blog cơ bản kết hợp giữa blog
và Twitter.
Tạo blog bằng cách gửi email đến địa chỉ

Dễ sử dụng, cài đặt tức thời.

Dave Kerpen, Likeable Media – Bí quyết làm hài lòng khách


hàng, tạo dựng thương hiệu thông qua Facebook (và các mạng xã hội khác))
Bảng 1.6: Một số nguồn để tìm được những blog trong ngành
Nguồn

Website

BlogDash

BlogDash.com

Blogdigger

Blogdigger.com

Google Blogs

BlogSearch.Google.com

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 21


IceRocket

IceRocket.com

Technorati

Technorati.com


(Nguồn:

Dave Kerpen, Likeable Media – Bí quyết làm hài lòng khách

hàng, tạo dựng thương hiệu thông qua Facebook (và các mạng xã hội khác))

1.4.1.7 Flickr, MySpace, Yelp và hàng trăm mạng xã hội chuyên biệt

khác
Hầu hết mọi người đều đang sử dụng Facebook, Twitter và YouTube,
nhưng một số người có thể đang sử dụng những trang mạng xã hơn chuyên biệt
hơn, nhỏ hơn. Có một cộng đồng dành cho mỗi mối quan tâm hay sở thích. Do
đó với tư cách là một người làm marketing, nếu chúng ta bạn biết điều khách
hàng quan tâm, chúng ta có thể tham gia vào những cộng đồng chuyên biệt đó.
Flickr cung cấp dịch vụ chia sẻ hình ảnh. MySpace cung cấp một mạng
lưới thông tin tương tức giữa người dùng với bạn bè của họ, cho phép người
dùng tạo những hồ sơ cá nhân, viết blog, lập nhóm, tải hình ảnh lên, lưu trữ
nhạc và video cho giới trẻ cũng như người lớn trên khắp thế giới [16].
Những người yêu thích ma cà rồng thường tham gia trang VampireFreaks.com.
Còn Dogster.com là dành cho những người yêu chó...
Yelp, TripAdvisor và Angie’s List là ba trong số nhiều mạng xã hội “theo
phong cách đánh giá, điểm xu hướng”. Sử dụng những đánh giá vẫn là một
trong các dạng thức đáng tin cậy nhất của marketing, nhận được sự tin tưởng
của hơn 70% người sử dụng web. [2]

1.4.2 Sức mạnh của truyền thông xã hội đối với tạo dựng thương
hiệu cá nhân
Cuộc cách mạng truyền thông xã hội đã đưa khách hàng bước vào một thế
giới có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Nó cũng buộc các công ty suy nghĩ về

cách làm thế nào để họ có thể trở nên rõ ràng, minh bạch và có trách nhiệm

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 22


hơn. Truyền thông xã hội, cũng với sự suy thoái toàn cầu, đã khiến các công ty,
tổ chức và chính phủ tìm ra cách thức để đạt được nhiều thứ hơn với số tiền bỏ
ra ngày một ít đi – đưa ra những thông điệp của mình và những thông điệp đó
được mọi người nói đến hàng ngày, hàng giờ, mà không cần phải trả nhiều tiền
như những phương tiện truyền thông khác như phát thanh, truyền hình, báo
giấy.
Marketing truyền miệng luôn được coi là dạng thức đơn giản và hiệu quả
nhất của marketing và truyền thông xã hội tiếp tục chứng minh thực tế này theo
nhiều cách. Mọi người thích chia sẻ và cảm thấy được kết nối với người khác,
những thương hiệu, tổ chức và thậm chí cả các chính phủ mà họ yêu thích và
tin tưởng.
Trong thế giới trực tuyến, chỉ một mẩu tin nhỏ cũng được truyền đi rất
nhanh trong vòng vài phút, thậm chí vài giây. Một mẩu tin dài 140 ký tự được
đưa lên mạng Twitter có thể được dẫn lại 100 lần, rồi lại xuất hiện trên blog, và
rồi lại lọt vào tầm mắt của một phóng viên tờ New York Times và cuối cùng lại
thành một mẩu chuyện trên trang nhất vào sáng hôm sau. Không khó hiểu vì
sao ca sĩ nhạc pop nổi tiếng Miley Cyrus đã xóa bỏ tài khoản của cô trên
Twitter – mỗi mẩu tin trên trang Twitter của cô trở thành tin nổi bật trên
Entertaiment Weekly và cho nhiều hệ thống thông tin khác ngay tức thì mà
không được cô đồng ý. Trên thế giới trực tuyến, ngôn từ của cá nhân ràng buộc
cá nhân, và tất cả mọi thứ họ công bố đều có thể được sử dụng mà không cần
họ cho phép. [1]
Sau đây là một số ví dụ minh họa sức mạnh của tiếp thị truyền miệng:

* Justin Bieber, một ca sĩ nổi tiếng khi còn rất trẻ. Là công dân Canada,
Justin không có cơ hội để trở thành tên tuổi lớn trong làng giải trí tại
Hollywood. Anh bắt đầu ghi hình những đoạn video tự hát để gia đình ở xa có
thể nghe được. Những video này được Bieber đăng trên YouTube, trở nên rất
nổi tiếng và được rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác như Justin Timberlake và

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 23


Usher mời cộng tác. Bản chất lan truyền nhanh của YouTube đã cho Justin
Bieber đủ nổi bật và một sân khấu đủ lớn để thu hút những người nổi tiếng. [1]
* Bruno và Paranormal Activity là hai phim màn ảnh rộng có ngân sách
tiếp thị hoàn toàn khác nhau. Bruno, phần tiếp theo bộ phim Borat rất thành
công, chi phí hàng triệu đôla và thậm chí quảng cáo trên cả xe taxi. Trong khi
đó Paramormal Activity có kinh phí rất nhỏ, khoảng 11.000 đôla. Bruno công
chiếu lần đầu tiên không dành được sự yêu thích của khán giả. Những lời bình
luận tiêu cực lan truyền trên mạng, và ngày tiếp theo doanh thu của bộ phim
chỉ đạt 8 triệu đôla, giảm từ doanh số 50 triệu đôla trong đêm ra mắt (Grove
2009), lần giảm doanh thu lớn nhất trong lịch sử điện ảnh. Sự truyền miệng có
thể hủy diệt một thương hiệu hay có thể ủng hộ thương hiệu. Trong trường hợp
của Paranormal Activity, truyền miệng tích cực đã giúp bộ phim có kinh phí
thấp này thu về hàng triệu đôla và trở thành một thành công lớn trong doanh
thu phòng vé. [1]
* Kevin Smith, đạo diễn và diễn viên, đã bị tiếp viên của hãng hàng không
Southwest có thái độ phục vụ không tốt vì cho rằng anh “quá béo”. Smith tải
lên mạng trải nghiệm của mình. Mẩu tin được truyền đi ngay lập tức từ điện
thoại cầm tay của anh ta đến 1,6 triệu người, và rồi nó được viết trên 13.000
blog và trở thành tin tức quốc tế với hơn 2.000 mẩu tin xung quanh vấn đề này.

Uy tín của hãng hàng không bị ảnh hưởng nghiêm trọng. [1]
* Triển lãm A: Một người nhận lời mời làm việc cho Cisco và cũng ngay
tối hôm đó đưa lên Twitter: “Cisco vừa mới nhận tôi vào làm việc! Bây giờ tôi
phải cân nhắc lợi ích giữa lương được trả với việc đi lại hàng ngày để đến San
Jose và ghét công việc.” Người này đã không biết những lời nói của anh ta
được lan truyền như thế nào. Một nhân viên của Cisco đã đón được mẩu tin này
và trả lời lại, “Ai là vị giám đốc tuyển dụng. Tôi chắc họ rất muốn biết rằng
bạn ghét công việc này. Ở Cisco chúng tôi đều thành thạo Web.” Với 190 triệu
người trên mạng Twitter, ngay cả nếu chúng ta không làm việc cho một công ty

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 24


công nghệ, lời nói của chúng ta có thể làm chúng ta mất cơ hội nếu chúng ta
không cẩn thận (Schonfeld 2010). [1]
* Triển lãm B: Tại Anh, một chuyên viên trẻ, ghét công việc và sếp của cô
ta, đã cập nhật trạng thái của mình trên Facebook: “Ôi trời ơi, tôi ghét công
việc của tôi!” và tiếp tục những lời lẽ rõ ràng nói về sếp của mình. Sếp cô ấy là
bạn bè trên Facebook với cô, ông đã bình luận trạng thái này, giải thích rằng cô
ta là một nhân viên kém và rằng cô bị sa thải.[1]

SVTH: Bùi Minh Thu

Trang 25


×