Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.41 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thanh Hịa

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ
TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thanh Hịa

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ
TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành
Mã số

: Ngôn ngữ Việt Nam
: 60 22 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TẠ THỊ THANH TÂM


Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Tạ Thị Thanh Tâm. Các số liệu thống kê cũng như các ý kiến nhận xét,
nếu khơng có chú thích trích dẫn, đều được rút ra từ q trình tìm hiểu đối tượng của
bản thân người viết, và chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

1


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Tạ Thị Thanh Tâm đã tận tình hướng dẫn tác giả
hồn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin cảm ơn phòng sau đại học, thư viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh, thư viện TP. Hồ Chí Minh để giúp đỡ tác giả rất nhiều.
Xin cảm ơn các thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, giúp đỡ
tơi trong q trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.

Phan Thanh Hòa

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 7
4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu................................................................ 8
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VÀ
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ...................................................... 11
1.1. Một số vấn đề chung về truyện đồng thoại .............................................................. 11
1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại ................................................................................. 11
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện đồng thoại ....................................... 12
1.1.3. Truyện đồng thoại với một số thể loại gần gũi ..................................................... 14
1.1.4. Đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại ..................... 16
1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................. 19
1.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu trở xuống ...................................... 19
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật ở cấp độ trên câu ................................................. 23
1.3. Đôi nét về đối tượng tiếp nhận.................................................................................. 26
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................................... 30

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT TỪ
CẤP ĐỘ CÂU TRỞ XUỐNG................................................................................... 31
2.1. Đặc điểm từ vựng ....................................................................................................... 31
2.1.1. Xét về nguồn gốc................................................................................................... 31
2.1.2. Xét về mặt phạm vi sử dụng .................................................................................. 39
2.1.3. Xét về màu sắc biểu cảm ....................................................................................... 43
2.2. Đặc điểm câu .............................................................................................................. 66
2.2.1. Xét về mặt cấu trúc cú pháp .................................................................................. 66

2.2.2. Xét về mặt phân bố thông tin ................................................................................ 70
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................................... 74
3


CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT Ở CẤP
ĐỘ TRÊN CÂU ......................................................................................................... 76
3.1. Đặc điểm kết cấu của văn bản đồng thoại ............................................................... 76
3.1.1. Kết cấu chung của văn bản đồng thoại .................................................................. 76
3.1.2. Một số kiểu kết cấu của văn bản đồng thoại ......................................................... 82
3.2. Đặc điểm liên kết trong truyện đồng thoại .............................................................. 88
3.2.1. Liên kết hình thức.................................................................................................. 89
3.2.2. Liên kết nội dung................................................................................................... 96
3.3. Tiểu kết ..................................................................................................................... 109

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 113
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118

4


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngơn ngữ trong trong tác phẩm văn học từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của
nhiều phân ngành ngôn ngữ học như từ vựng học, ngữ pháp học, phong cách học,
ngữ dụng học... Chịu quy định bởi những đặc thù về mặt thể loại, ngôn ngữ văn học
luôn mang những nét riêng liên quan mật thiết đến đặc điểm nội dung, hình thức nghệ
thuật cũng như đối tượng tiếp nhận của nó. Do đó, khi tiếp xúc với loại ngơn ngữ
này, người nghiên cứu khơng thể khơng có những hiểu biết nhất định về phương diện

thể loại.
Trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại, truyện đồng thoại là một
thể loại khá đặc biệt. Được sáng tác nhằm mục đích giáo dục trẻ em, lại giàu chất hư
cấu, truyện đồng thoại có những đặc điểm riêng biệt và độc đáo về phương diện ngơn
ngữ. Đó là thứ ngơn ngữ phù hợp với trình độ tiếp nhận cũng như khả năng cảm nhận
văn học của trẻ thơ: chúng khá uyển chuyển, linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm.
Vừa chịu sự quy định của thể loại vừa chịu sự chi phối bởi đối tượng tiếp nhận,
ngơn ngữ truyện đồng thoại có nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Dù
vậy, cho đến nay, nhiều vấn đề hữu quan vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Chọn
đề tài Đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt, chúng tôi muốn khảo sát ngơn
ngữ của thể loại văn học này nhằm góp phần vào việc khắc phục khoảng trống trong
tình hình nghiên cứu ngôn ngữ truyện dành cho thiếu nhi.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đầu thế kỷ XX, truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại bắt đầu manh nha, sau đó
đạt được những thành tựu nhất định nhưng đến trước năm 1945, các nhà nghiên cứu
hầu như vẫn chưa chú ý đến thể loại này.
Từ sau năm 1945, trong xu thế văn học thiếu nhi ngày càng được quan tâm, thể
loại đồng thoại đã được đề cập đến trong những chuyên luận, chuyên đề về văn học
thiếu nhi, các luận án khoa học, các bài báo, bài phê bình, bài giới thiệu sách,… Các
nghiên cứu này có thể chia thành các nhóm sau:
2.1. Nhóm nghiên cứu thể loại đồng thoại về mặt lý luận gồm có các bài viết
5


Tìm hiểu đặc điểm của đồng thoại (Văn Thanh) [78], Lại nói về truyện đồng thoại
viết cho thiếu nhi (Võ Quảng) [72], Về sức tưởng tượng của đồng thoại (Nguyễn
Kiên) [64], Truyện đồng thoại viết cho lứa tuổi nhi đồng (Định Hải) [36], Truyện
đồng thoại với giáo dục mẫu giáo (Lã Thị Bắc Lý) [59]. Trong các bài viết này, các
tác giả tập trung đề cập đến phương thức phản ánh cuộc sống của thể loại, đặc trưng
nhân vật, vai trò và chức năng giáo dục của truyện đồng thoại, cịn phương diện ngơn

ngữ đồng thoại chưa được bàn đến.
2.2. Nhóm nghiên cứu về q trình phát triển và những thành tựu của
truyện đồng thoại trong thành tựu chung của văn học thiếu nhi và thành tựu của
các tác giả gồm có các bài viết: Chặng đầu của nền văn học viết cho thiếu nhi của
Vũ Ngọc Bình [5], Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi của Văn Thanh [79], chuyên
đề Văn học thiếu nhi của Cao Đức Tiến [74], … Các bài viết này mang tính chất tổng
kết từng chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi, trong đó có thể loại đồng
thoại.
Các bài viết về truyện đồng thoại từ góc độ bàn về các tác giả chủ yếu đề cập
đến Tơ Hồi và Võ Quảng như: Tơ Hồi viết cho lứa tuổi măng non [25], Nhà văn Tơ
Hồi [65], Truyện lồi vật của Tơ Hồi [27], Đồng thoại qua ngòi bút của Võ Quảng
[6], Võ Quảng – 40 năm thơ văn cho thiếu nhi [57], Đôi điều về truyện đồng thoại Võ
Quảng [76], …
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu kể trên hầu như khơng đụng chạm đến
đặc điểm ngôn ngữ của truyện đồng thoại.
2.3. Các cơng trình ít ỏi dưới đây có chú ý đến mặt hình thức biểu đạt,
trong đó có đặc điểm ngôn ngữ của truyện đồng thoại.
Trong tập sách Những câu chuyện bổ ích và lý thú, Trần Hịa Bình, Lê Hữu
Tỉnh có viết: “chọn lối viết đồng thoại, tác giả đã tìm được một hình thức diễn đạt
phù hợp với ý tưởng có màu sắc triết lý” khi bình giảng về tác phẩm Chuyện của
Bong Bóng của Lương Đình Khoa [4, tr.132]. Nguyễn Quang Thiều khi bàn về tập
sách Tôi là Bêtơ của Nguyễn Nhật Ánh có lời khen ngợi tác giả về thủ pháp kể
chuyện bằng ngôi thứ nhất với một thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị khiến cho người
đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật chính của câu chuyện [81]. Trong Kiến thức ngày
6


nay (số 613/2007), Lã Thị Bắc Lý nhận định Tôi là Bêtơ có điểm mạnh là kể chuyện
lơi cuốn, ngơn ngữ giàu chất thơ [60]. Đọc Xóm đồ chơi, Lý Lan viết “Những câu
chuyện của Lưu Thị Lương kể đều ngắn gọn, súc tích theo tiêu chuẩn của đồng thoại”

[55]. Tác giả Văn Giá khi viết bài bình giảng truyện đồng thoại Dế Mèn phiêu lưu ký
của Tơ Hồi có cho rằng ngơn ngữ tác giả rất sắc sảo, góc cạnh, giàu biểu cảm [32].
Như vậy, trong các bài viết trên, vấn đề ngôn ngữ truyện đồng thoại mới chỉ
được đặt ra mà chưa được nghiên cứu một cách cụ thể.
2.4. Gần đây nhất, với luận án “Thể loại truyện đồng thoại trong văn học
Việt Nam hiện đại” [63], Lê Nhật Ký đã nghiên cứu thể loại này một cách kỹ lưỡng
và toàn diện từ khái niệm, đặc trưng thể loại, quá trình phát triển đến những đặc điểm
nội dung và nghệ thuật.
Có thể nói, so với các bài viết trước, Lê Nhật Ký đã bàn kĩ hơn về phương diện
ngôn ngữ đồng thoại. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của một cơng trình nghiên cứu
về văn chương, tác giả cũng chỉ phân tích giá trị biểu đạt của ngôn ngữ đồng thoại
trong tương quan với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Hơn nữa, nghệ thuật
sử dụng ngôn ngữ cũng chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể cấu trúc luận án, nên vấn
đề còn chưa được bàn đến một cách thấu đáo.
Luận văn này trên cơ sở kế thừa các cơng trình đi trước, thơng qua việc sưu tập
tư liệu, cố gắng chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ của thể loại đồng thoại tiếng Việt
dựa vào hai cấp độ: đặc điểm ngôn ngữ từ câu trở xuống (gồm từ ngữ, câu) và đặc
điểm ngôn ngữ trên câu (tổ chức văn bản).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại
tiếng Việt.
Đặc điểm ngôn ngữ là một khái niệm rộng, do vậy luận văn chủ yếu tập trung
nghiên cứu đặc điểm phong cách ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt trên một số
tác phẩm của các tác giả tiêu biểu.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết về ngôn ngữ học nói chung và phong cách học
7


nói riêng cũng như những thành tựu về nghiên cứu thể loại đồng thoại, luận văn

hướng đến:
- Nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện đồng thoại.
- Cung cấp những tri thức cơ bản về đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện đồng
thoại nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho học sinh
mầm non và tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những thủ pháp như sưu tập, miêu tả, phân loại mà bất kỳ công trinh
nghiên cứu nào dù khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội đều sử dụng, luận văn dùng
các phương pháp sau đây:
- Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: Trong luận văn, các đối tượng được
thống kê, phân loại là các đơn vị từ, câu, văn bản. Các đối tượng thống kê được phân
loại theo nhóm, các số liệu được phân tích theo tỉ lệ, tần suất nhằm tìm ra sự nổi trội
của một yếu tố và mối quan hệ giữa các đối tượng.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: các đối tượng khảo sát được so sánh, đối chiếu
với các đối tượng cùng bậc về mức độ sử dụng và hiệu quả của việc sử dụng. Ở đây,
chúng tôi chủ yếu so sánh các đối tượng khảo sát trong tương quan với độ dài văn
bản. Phương pháp này cũng được dùng để làm rõ sự khác biệt giữa ngôn ngữ truyện
đồng thoại với ngôn ngữ thể loại văn học khác.
- Phương pháp phân tích quy nạp và diễn dịch: phương pháp này được sử dụng
trong q trình phân tích ngữ liệu để rút ra những kết luận khái quát hay từ nhận định
mang tính định hướng, luận văn sẽ làm rõ bằng ngữ liệu.
- Phương pháp mơ hình hóa: việc xây dựng các mơ hình, bảng biểu cho cái nhìn
khái quát về hàng loạt các đối tượng cùng loại, ngồi ra, phương pháp này cịn có tác
dụng trực quan hóa một số kết cấu văn bản cũng như cách tổ chức văn bản đồng
thoại.
5.2. Nguồn ngữ liệu
Ngoài tác phẩm của một số tác giả chính như Tơ Hồi, Võ Quảng, Trần Hoài
Dương, Nguyễn Kiên, Viết Linh, Đồng Xuân Lan – các tác giả tiêu biểu của thể loại
8



đồng thoại, luận văn còn sử dụng các tác phẩm tiêu biểu của một số nhà văn khác như
Nguyễn Nhật Ánh, Hồng Thủy, Trần Vọng Đức, Nguyễn Thái Vọng, Phương Anh,
Trần Ngọc Thanh, Chu Linh, Viễn Phương.
Chúng tôi cũng chú ý đến dung lượng các tác phẩm được khảo sát khi lựa chọn
5 truyện dài và 71 truyện ngắn. Để xác định ranh giới truyện ngắn và truyện dài
không phải là điều đơn giản, cho nên khi sưu tập và phân loại, chúng tơi tạm dựa vào
các tiêu chí sau đây (những tác phẩm thỏa mãn các tiêu chí này được xếp vào truyện
đồng thoại dài): (i) Số lượng trang: trên 50 trang (vì truyện dành cho trẻ em); (ii)
Hình thức in ấn: được in thành tập riêng khi xuất bản, không dưới dạng truyện tranh.
Các tác phẩm được khảo sát cũng được sáng tác trong các giai đoạn khác nhau trong
quá trình phát triển của thể loại đồng thoại.
(Xem phụ lục 1)
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau đây:
- Nhận diện những đặc điểm cơ bản nhất của ngôn ngữ truyện đồng thoại, đặc
biệt là phương diện sử dụng từ vựng và khâu tổ chức văn bản.
- Chỉ ra mối liên hệ giữa ngôn ngữ truyện đồng thoại với những đặc trưng thể
loại và đặc điểm đối tượng tiếp nhận.
- Hệ thống các ví dụ được chọn để minh họa cho những luận điểm trong luận
văn có tính chọn lọc cao, đóng góp vào nguồn ngữ liệu cho công tác nghiên cứu ngôn
ngữ truyện cho trẻ em.
- Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho học sinh mầm non,
tiểu học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, danh sách ngữ liệu được khảo sát, luận văn
có 128 trang gồm phần Mở đầu, Kết luận và 3 chương.
Phần Mở đầu (7 trang) trình bày những vấn đề có tính chất trường quy như lý
do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên

cứu, phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu, đóng góp của luận văn, cấu trúc
9


luận văn.
Chương 1 (23 trang) đề cập đến những vấn đề lý thuyết về thể loại truyện đồng
thoại và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Chương 2 (53 trang) khảo sát những đặc điểm của ngơn ngữ truyện đồng thoại
trên bình diện từ ngữ và câu.
Chương 3 (42 trang) khảo sát những đặc điểm về kết cấu và liên kết của văn
bản đồng thoại.
Phần Kết luận (3 trang) tổng kết nội dung luận văn, nêu nhận xét khái quát về
đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại.

10


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG
THOẠI VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1.1. Một số vấn đề chung về truyện đồng thoại
1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại

Thuật ngữ truyện đồng thoại có gốc gác từ Trung Quốc xuất hiện ở nước ta vào
khoảng những năm 60 của thế kỷ XX khi nền văn học đã cho ra đời những tác phẩm
thuộc thể loại này. Trong quá trình sử dụng, nó đã được qui ước lại, thể hiện cách
hiểu riêng của văn học Việt Nam. Tìm hiểu thuật ngữ này trong nền văn học Trung
Quốc, ta thấy có nhiều điểm khác biệt so với cách hiểu của ta hiện nay.
Theo tài liệu Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc [50, tr.1156-1157], ta thấy
thuật ngữ đồng thoại từ Nhật Bản du nhập vào Trung Quốc cuối thời nhà Thanh. Ban
đầu, đồng thoại được hiểu là toàn bộ những tác phẩm có tính kể chuyện cho trẻ em.

Nảy sinh từ trong dân gian, thể loại truyện đồng thoại thực sự thu hút trẻ em vì sức
tưởng tưởng kỳ diệu và bay bổng của nó, bên cạnh truyền thuyết, thần thoại, tiểu
thuyết thiếu nhi... Về sau các nhà văn hiện đại, mà tiên phong là Diệp Thánh Đào đã
kế thừa dân gian, học tập phương Tây sáng tác nên nhiều tác phẩm truyện đồng thoại
dành cho thiếu nhi. Do vậy, trong nền văn học Trung Quốc, thuật ngữ truyện đồng
thoại bao gồm cả đồng thoại dân gian và đồng thoại hiện đại. Căn cứ vào loại hình
nhân vật, đồng thoại còn chia thành ba tiểu loại: đồng thoại siêu nhân thể (nhân vật
chính là lực lượng thần kì), đồng thoại thường nhân thể (nhân vật chính là con người
bình thường) và đồng thoại nghỉ nhân thể (nhân vật chính là những sự vật có sinh
mệnh hoặc khơng có sinh mệnh được nhân cách hóa).
Ở Việt Nam, thuật ngữ truyện đồng thoại có nhiều cách hiểu khác nhau, theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (bản in 1994) định nghĩa đồng thoại
theo nghĩa rộng: “Đồng thoại: truyện chép cho trẻ con xem” [73,tr. 316].
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (bản in 2001) lại có cách hiểu khác:
“Đồng thoại: thể truyện cho trẻ em, trong đó lồi vật và các vật vơ tri được nhân cách
hóa tạo nên một thế giới thần kì thích hợp với trẻ em” [87, tr. 344].
11


Bên cạnh đó, một số nhà phê bình trong những bài viết của mình cũng cho ý
kiến về vấn đề này. Tiêu biểu là các ý kiến sau đây:
Vân Thanh trong bài viết “Tìm hiểu đặc điểm của truyện đồng thoại” đăng trên
Tạp chí Văn học (4) năm 1974 đưa ra định nghĩa: “Đồng thoại là một thể loại đặc biệt
của văn học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ tưởng. Ở đây, các tác
giả thường dùng nhân vật chính là động vật, thực vật và những vật vơ tri, lồng cho
chúng những tình cảm của con người. (Cũng có khi nhân vật là người). Qua thế giới
khơng thực mà lại thực đó, tác giả lồng cho chúng những tình cảm và cuộc sống của
con người. Tính chất mơ tưởng và khoa trương là những yếu tố không thể thiếu được
trong đồng thoại” [78, tr. 104]. Cách hiểu của Vân Thanh đã phản ánh được những

nét cơ bản của đồng thoại, làm cơ sở cho những định nghĩa khác về sau.
Cao Đức Tiến, Dương Thị Hương trong chuyên đề Văn học có đưa ra định nghĩa
như sau: “Truyện đồng thoại: là sáng tác của các nhà văn hiện đại, sử dụng nghệ thuật
nhân hóa lồi vật để kể chuyện về con người, đặc biệt là trẻ em, vì vậy nhân vật chủ
yếu là lồi vật” [75, tr. 215].
Trong khi đó, Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký quan niệm truyện đồng thoại là:
“Thể loại văn học được các nhà văn viết riêng cho các em với bút pháp kế thừa từ
đồng thoại dân gian gọi là đồng thoại hiện đại. Vẫn là truyện lấy loài vật (con vật, cỏ
cây, hoa quả…) làm đối tượng miêu tả, với tư cách là văn học viết, đồng thoại hiện
đại phải mới so với đồng thoại dân gian” [49, tr. 107].
Như vậy, dù có sự khác nhau đơi chút, nhìn tồn thể, các quan niệm trên có sự
thống nhất ở hai điểm: (i) truyện đồng thoại là những sáng tác hiện đại trong nền văn
học Việt Nam; (ii) đa phần các quan niệm hiểu truyện đồng thoại theo nghĩa hẹp: thể
loại truyện kể hiện đại dành cho trẻ em, có hình thức đặc thù là nhân cách hóa lồi
vật.
Luận văn tán đồng hai quan điểm vừa nêu và xem chúng là những tiêu chí nhận
diện ban đầu của thể loại truyện đồng thoại.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện đồng thoại

Là những tác phẩm thuộc dòng tự sự, truyện đồng thoại hiển nhiên mang những
đặc điểm cơ bản mà tất cả các tác phẩm tự sự đều có. Tuy nhiên, nó cũng có những
12


đặc trưng làm nên sự khác biệt so với các thể loại văn học khác.
1.1.2.1. Hướng mục đích giáo dục đến trẻ em

Khi nhà văn cầm bút viết một truyện đồng thoại, thì mục đích đầu tiên của họ
khơng gì khác là dành cho trẻ em những bài học giản dị trong gia đình và ngồi xã
hội. Bằng con đường đi qua cảm xúc, qua hệ thống nhân vật vừa lạ lẫm vừa thân

quen, truyện đồng thoại đem lại những nhận thức lý tính một cách nhẹ nhàng trong
những bài học cụ thể, sáng rõ chứ không thâm trầm, sâu xa như thông điệp trong thể
loại truyện ngụ ngôn.
1.1.2.2. Nhân cách hóa

Hệ thống nhân vật trong truyện đồng thoại rất phong phú, trong đó có cả con
người nhưng chiếm đa số là loài vật. Khi xây dựng nhân vật, các nhà văn đồng thoại
hướng ngịi viết của mình vào cả con người và lồi vật, đem những đặc tính khác biệt
ấy vào trong một thực thể. Gán cho loài vật những đường nét tính cách, tình cảm của
con người, truyện đồng thoại vẫn tìm cách bảo lưu những đặc điểm tự nhiên vốn có
của chúng. Cách làm như vậy tuân thủ nguyên tắc “vật ngã đồng nhất” trong tư duy
trẻ thơ, vì vậy dễ dàng tác động đến tâm hồn và tình cảm các em. Miêu tả lồi vật
nhưng lại hướng vào trẻ em như một đối tượng phản ánh, truyện đồng thoại vừa vẽ
nên bức tranh thế giới loài vật sinh động, hấp dẫn đồng thời lại cho các em thấy “có
mình” trong đó. Vì thế, các em được sống trong câu chuyện, sau đó tự liên hệ đến
mình. Truyện có thể viết về con chó, con vịt, bút chì, thước kẻ… nhưng vẫn đem đến
những bài học về cuộc sống xung quanh các em. Theo Lê Nhật Ký, “Nguyên tắc
miêu tả kết hợp này có tác dụng nới rộng diện tích nghĩa của hình tượng, khiến cho
nhân vật đồng thoại hiện ra vừa là nó (vật), vừa là hình tượng ẩn dụ về con người”
[63, tr.32].
1.1.2.3. Giàu chất hư cấu, tưởng tượng

Tiếp xúc với văn chương đồng thoại, không ai không nhận ra sức tưởng tưởng,
hư cấu kỳ diệu của nó. Có thể nói, khơng có hư cấu, tưởng tượng, sẽ khơng có thể
loại văn chương này.
Mọi thành tựu trong cuộc sống đều bắt đầu bằng tưởng tưởng, tưởng tượng
13


giúp con người hình dung ra cái chưa có, hoặc cái khơng thể có. Với văn chương

nghệ thuật, tưởng tượng, hư cấu càng quan trọng. Khơng có nó, nhà văn không thể
xây dựng tác phẩm. Điều này đặc biệt đúng với thể loại truyện đồng thoại. Về cơ bản,
các tác giả đồng thoại khơng dựa vào dạng thức vốn có của cuộc sống để xây dựng
tác phẩm, mà tập trung khái quát cao độ bản chất của hiện thực rồi lựa chọn hình thức
đồ vật, lồi vật để phản ánh cái bản chất ấy. Phương pháp tái hiện cuộc sống đặc biệt
này làm cho hiện thực có thêm màu sắc. Ở phương diện đối tượng tiếp nhận, với nhận
thức lý tính cịn non yếu, trẻ em chưa thể nhận thức cuộc sống như người trưởng
thành. Vì vậy, tưởng tượng giúp cho các em thoát khỏi những giới hạn, ràng buộc của
cuộc sống hằng ngày để mặc sức thả mình phiêu lưu trong thế giới tưởng tượng và
ước mơ . Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tâm lý và thiên tính yêu thích
tưởng tượng của trẻ em.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý là tưởng tưởng hư cấu trong truyện đồng thoại khơng
được đi q giới hạn của nó. Tưởng tượng thiếu căn cứ, đồng thoại sẽ trở thành mộng
thoại. Ngược lại, đồng thoại thiếu tưởng tưởng thì trở thành ngốc thoại. Cả hai đều
phương hại đến khả năng biểu đạt của thể loại, tư duy cũng như tâm hồn trẻ thơ.
1.1.3. Truyện đồng thoại với một số thể loại gần gũi
1.1.3.1. Truyện đồng thoại và truyện cổ tích loài vật

Vốn là một thể loại dân gian, truyện cổ tích lồi vật cũng lấy các con vật làm
nhân vật chính, như trong truyện Trí khơn của ta đây có Hổ và Trâu. Dựa vào lối tư
duy ngây thơ trong quá trình khám phá thế giới tự nhiên, các tác giả dân gian đã lý
giải những đặc điểm hay tập tính ở các con vật. Về sau, người sáng tác còn lồng thêm
những hiểu biết xã hội khiến cho các nhân vật hiện lên mang dáng dấp của những loại
người, hạng người trong xã hội.
Điểm chung giữa truyện cổ tích loài vật và truyện đồng thoại là ở phương diện
nhân vật. Tuy nhiên, so với truyện cổ tích lồi vật, hệ thống nhân vật trong truyện
đồng thoại phong phú và đa dạng hơn nhiều. Bên cạnh các con vật, truyện đồng thoại
cịn sử dụng cả đồ vật, thậm chí là các con số hay các khái niệm trừu tượng làm nhân
vật. Nhân vật trong truyện đồng thoại cũng hiện lên cụ thể, sinh động hơn và ít nhiều
14



cá tính hơn. Ngồi ra, bên cạnh một số tác phẩm tiếp tục đi vào chủ đề sự tích, cịn lại
chủ yếu các tác phẩm hướng tới cuộc sống của trẻ em qua hình tượng lồi vật. Ngay
cả với những tác phẩm có chủ đề sự tích như Bài học tốt (Võ Quảng) thì chủ đề giáo
dục vẫn nổi lên như một cảm hứng chủ đạo. Qua việc lý giải vì sao mai rùa có nhiều
vết rạn rứt thì truyện gửi đến bài học về lịng kiên nhẫn, qua đó có tác động giáo dục
đến các em.
1.1.3.2. Truyện đồng thoại và truyện ngụ ngôn

Truyện ngụ ngôn là một thể loại văn học có mục đích răn đời thơng qua hình
thức chủ yếu là những câu chuyện kể về loài vật. Nội dung giáo huấn và kiểu loại
nhân vật là hai yếu tố đưa đến sự gần gũi giữa thể loại truyện ngụ ngôn và truyện
đồng thoại. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu Cao Đức Tiến- Dương Thị
Hương [75], Vân Thanh [78], Võ Quảng [72], Phạm Minh Hạnh [43],… thì ranh giới
để phân biệt hai thể loại này thể hiện ở ba phương diện sau: dung lượng, tính chất bài
học giáo huấn và phương pháp truyền đạt.
Về dung lượng, truyện ngụ ngơn có ngơn ngữ và chi tiết ngắn gọn, súc tích hơn
truyện đồng thoại. Theo Phạm Minh Hạnh: “Thơng thường thì ngụ ngơn có độ dài rất
khiêm tốn, có truyện chỉ 60 đến 70 từ (…). Thường thì truyện ngụ ngơn chỉ khoảng
200 đến 300 từ, ít truyện có đến 500 đến 700 từ hay 1000 từ” [43, tr. 50-51]. Dựa trên
một sự việc, thông qua sự ám chỉ, so sánh, ẩn dụ, truyện ngụ ngôn đem đến ý nghĩa
triết lý sâu xa.
Trong khi đó, theo Lê Nhật Ký: “Những truyện đồng thoại có độ dài khiêm tốn
nhất cũng phải đạt 500 đến 600 từ, phổ biến là từ 1000 đến 3000 từ, và không hiếm
những truyện có 10.000 từ trở lên. Độ dài như thế là cần thiết giúp cho truyện đồng
thoại có khả năng diễn tả một cách cụ thể, rõ ràng các tình huống, sự việc của câu
chuyện”[63, tr. 37]. Nhờ đó, truyện đồng thoại cũng thuận lợi hơn trong việc miêu tả
nhân vật, hình huống, thiên nhiên…, do đó, có khả năng thu hút trẻ em hơn là truyện
ngụ ngôn quá giản lược, cơ đọng tối đa.

Về tính chất bài học giáo huấn, bài học trong truyện đồng thoại đơn giản và cụ
thể, phù hợp với tuổi thơ chứ không thâm trầm và triết lý sâu xa như ở ngụ ngôn. Để
hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện ngụ ngôn, người đọc phải là người từng trải, có
15


kinh nghiệm sống cịn trẻ em có thể chỉ hiểu phần diễn truyện mà thôi.
Về phương pháp truyền đạt, cả hai thể loại truyện đều lấy loài vật, đồ vật, cỏ
cây làm nhân vật và đều nhân cách hóa chúng. Tuy nhiên, truyện đồng thoại lấy loài
vật vừa làm đối tượng phản ánh vừa làm phương tiện chuyển tải thông điệp cịn
truyện ngụ ngơn thì chỉ xem nhân vật như là phương tiện chuyển tải nội dung giáo
dục mà thôi. Dó đó, nhân vật trong truyện ngụ ngơn có thể được thay thế một cách dễ
dàng mà không phương hại đến các lớp nội dung truyện như là ở truyện đồng thoại.
Truyện ngụ ngôn không đặt mục tiêu miêu tả nhân vật, còn ngược lại, miêu tả nhân
vật là một nhiệm vụ có tính chất bắt buộc đối với truyện đồng thoại vì nhân vật trong
truyện đồng thoại có ngoại hình, tính cách, đời sống nội tâm sâu sắc hơn nhiều. Trong
khi xây dựng nhân vật, truyện ngụ ngôn dùng lối ẩn dụ, kín đáo thì truyện đồng thoại
chủ yếu theo lối cách điệu. Cho nên, ngụ ngôn càng thâm trầm, sâu sắc, triết lý bao
nhiêu thì càng hay cịn đồng thoại thì càng hồn nhiên, giản dị, nhiều cảm xúc thì càng
hấp dẫn được trẻ nhỏ.
1.1.3.3. Truyện đồng thoại và truyện loài vật

Truyện loài vật là một thể loại văn học viết dành cho thiếu nhi, có chức năng
phản ánh đời sống sinh hoạt của loài vật nên nhân vật chính cũng là các con vật.
Cũng giống như truyện đồng thoại, truyện loài vật cũng miêu tả đời sống các lồi vật
như nó vốn có ngồi đời. Tuy nhiên, ở truyện đồng thoại, mức độ miêu tả có giới hạn
hơn. Hơn nữa, nếu truyện loài vật lấy thủ pháp tả thực làm chính thì truyện đồng
thoại lại chuộng thủ pháp nhân cách hóa. Do đó, nhân vật truyện đồng thoại hiện lên
vừa là nó (vật ) vừa là hình ảnh biểu trưng về con người.
1.1.4. Đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại

1.1.4.1. Nội dung

Truyện đồng thoại có được từ nguồn cảm hứng về thế giới tự nhiên và cả cảm
hứng về cuộc sống con người. Bên canh đó, thể loại truyện này cũng đem đến những
bài học lý thú cho trẻ em, thậm chí là cho cả người lớn.
Xuất phát từ việc lấy lồi vật, cỏ cây, sơng nước làm đối tượng nhận thức, miêu
tả, truyện đồng thoại đem đến cho độc giả những điều kì lạ, lí thú của thế giới tự
16


nhiên. Dù thiên nhiên được nhà văn phú cho tâm hồn, tính cách như con người thì
chúng vẫn phải được bảo lưu những đặc điểm tự nhiên của mình. Cho nên, bước vào
thế giới đồng thoại, người đọc sẽ được khám phá tự nhiên mn hình vạn trạng.
Trong thế giới tự nhiên phong phú ấy, trọng tâm vẫn là loài vật và những sự vật, hiện
tượng có mối quan hệ gần gũi với con người. Đối với người lớn, những sự vật, hiện
tượng trong truyện đồng thoại khơng có gì xa lạ nhưng với các em, đó là cả một thế
giới cần nhận thức và lí giải: đời sống, “phong tục”, những tập tính ngộ nghĩnh của
lồi vật, những biến hóa kì diệu của thiên nhiên trong q trình phát triển…
Trong truyện đồng thoại, có lúc thế giới lồi vật được miêu tả trong mối quan hệ
cộng sinh đa dạng với con người. Trong mối quan hệ ấy, loài vật trở nên có “số
phận”, đồng thời là đối tượng khiến con người bộc lộ nhân tính. Qua đó, nhà văn nói
lên tiếng nói nhân văn, ca ngợi tình u thương loài vật và phê phán những hành
động tàn nhẫn, phi nhân tính.
Cũng giống như các thể loại văn chương khác, truyện đồng thoại dù viết về đề
tài gì, đối tượng nào, mục đích cuối cùng vẫn nhằm thể hiện cuộc sống con người. Đa
phần các câu chuyện phản ánh thế giới tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Nhân vật - chủ
yếu là loài vật - được phú cho những đường nét, tính cách trẻ em trong những mối
quan hệ đời thường: quan hệ mẹ con, quan hệ bạn bè, thầy trị…, qua đó mà bộc lộ
cái hay, cái dở của lứa tuổi mình. Khi khắc họa tính cách trẻ con, nhà văn bao giờ
cũng thể hiện cái nhìn bao dung, tin tưởng vào khả năng hướng thiện của các em. Vì

vậy, khi phản ánh cái ác, cái xấu cũng là lúc nhà văn muốn các em “tham gia” đấu
tranh vì một thế giới tốt đẹp.
Bên cạnh thế giới trẻ em hồn nhiên, trong sáng, truyện đồng thoại cũng đề cập
đến thế giới của người trưởng thành, tất nhiên là dưới con mắt thơ trẻ. Một số tác
phẩm trước Cách mạng tháng Tám, như của Tơ Hồi chẳng hạn, nói đến cái đói, cái
nghèo, sự lạc hậu, sự bế tắc,… nhưng chủ yếu là để khơi gợi sự đồng cảm, yêu
thương đồng loại cho trẻ em là chính. Bên canh đó, một số tác phẩm, chịu sự chi phối
của thời đại và nhiện vụ của văn chương tuyên truyền, cũng phản ánh khơng khí lịch
sử, cuộc sống mới, con người mới như một số truyện trong giai đoạn 1955 – 1985.
Được sáng tác chủ yếu vì trẻ em, truyện đồng thoại đem lại nhiều bài học giản dị
17


mà sâu sắc cho lứa tuổi này. Đó là bài học về lí tưởng cuộc sống, bài học về tình yêu
quê hương đất nước, bài học về lòng nhân ái, yêu thương đồng loại, yêu thương loài
vật, bài học về thái độ sống nghiêm túc, trung thực, bài học về cách nhìn người, bài
học về đức tính siêng năng, thái độ tơn trọng mơi trường,…
Bên cạnh đó, truyện đồng thoại cịn gửi gắm những thơng điệp có thể có ích cho
cả người lớn. Đó là việc nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự trưởng thành nhân
cách của trẻ em, hiểu được thái độ, cách ứng xử trong cuộc sống, nhận ra thói sỉ diện,
thói a dua, xu nịnh…Đơi khi, truyện đồng thoại cịn đem đến thơng điệp cho người
làm nghệ thuật và cho những ai muốn giữ gìn cái đẹp ở đời.
Với những đặc điểm nội dung kể trên, truyện đồng thoại cũng phải tìm cho mình
những thủ pháp, phương tiện nghệ thuật tương ứng.
1.1.4.2. Nghệ thuật

Truyện đồng thoại có những đặc thù riêng trong hệ thống nhân vật, các biện
pháp xây dựng nhân vật, nghệ thuật tổ chức cốt truyện và nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ.
Truyện đồng thoại có hệ thống nhân vật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, theo

Lê Nhật Ký, loại nhân vật phổ biến là muông thú (chiếm 81,30 %), cỏ cây, hoa lá
(chiếm 6,35%), đồ vật (chiếm 6,35 %). Con người ít xuất hiện, nếu có cũng khơng
giữ vai trị chính [63, tr.101].
Một đặc điểm quan trọng nữa là nhân vật trong truyện đồng thoại chủ yếu là
những con vật nhỏ bé, quen thuộc. Điều này được Lê Nhật Ký lí giải là do sự quy
định của khơng gian địa lý, văn hóa người Việt, trải nghiệm của chủ thể sáng tạo và
tâm lý của chủ thể tiếp nhận.
Nhân vật trong truyện đồng thoại được đặt tên chủ yếu theo danh từ chung hoặc
theo một đặc điểm nào đó của đối tượng, ngoại hình được miêu tả theo lối chấm phá,
ngắn gọn, phẩm chất, tính cách được khắc họa chủ yếu thơng qua hành động, qua các
xung đột, tình huống, sự kiện tiêu biểu. Đặc biệt, nhân vật trong thể loại truyện này
mang tính biểu trưng về con người.
Trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện, các kiểu cốt truyện chính thường được sử
dụng là cốt truyện tuyến tính - hành động, cốt truyện phiêu lưu, cốt truyện đối
18



×