Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tieu luan nho giao ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.32 KB, 15 trang )

Tiểu luận Triết học
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM

***
I. MỞ ĐẦU
Nho giáo là một trong những dòng triết học ra đời từ thời Cổ đại ở Trung Quốc,
nhưng ảnh hưởng của nó đối với Trung Hoa thì vô cùng lớn. Thậm chí, chúng ta
không thể nghiên cứu Trung Quốc tách rời Nho giáo. Ban đầu khi được truyền bá vào
Việt Nam, Nho giáo đã được sử dụng như một thứ vũ khí để thể hiện sức mạnh và
tham vọng đồng hoá người Phương Nam của phong kiến Phương Bắc. Triết học Nho
giáo chủ yếu bàn về các vấn đề chính trị, đạo đức luân lý. Nếu lược bỏ đi âm mưu,
tham vọng xâm lược của phong kiến Phương Bắc ẩn mình trong Nho giáo thì Nho
giáo cũng là một học thuyết rất tuyệt vời cho một tộc người còn rất non trẻ trong phát
triển tư tưởng, văn hoá, tính dân tộc như người Phương Nam lúc bấy giờ. Người Việt
đã rất thông minh nắm lấy cơ hội đó làm cho quá trình "Hán hoá" và truyền bá Nho
giáo của người Hán vào Việt Nam thật đặc biệt. Văn hoá Hán và Nho giáo được người
Việt tiếp biến có chọn lọc. Qua lăng kính của người Việt, Nho giáo bị "khúc xạ" và
mang những nội hàm mới. Nói về Việt Nam và văn hoá Việt Nam lại không thể không
kể đến Nho giáo. Trong quá trình du nhập, tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Nho giáo
đã góp phần to lớn trong việc kiến tạo bộ mặt văn hoá Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta lại
không thể không nói tới con người Việt bởi con người với các giá trị tinh thần, đạo
đức, thẩm mỹ… chính là biểu hiện rõ nhất của cái gọi là " Văn hoá của một dân tộc".
Lịch sử sản xuất, đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt đã hình
thành các giá trị đạo đức cho người Việt nhưng không thể phủ nhận vai trò của Nho
giáo. Nếu sản xuất và đấu tranh giữ nước là thực tiễn hình thành các giá trị đạo đức
truyền thống của người Việt thì Nho giáo chính là hệ thống lý luận làm cho các giá trị
đạo đức đó được khái quát lại, thâu tóm lại một cách sâu sắc, có tính "tự giác" và trở
thành chuẩn mực cho các thế hệ người Việt. Quan hệ giữa tư tưởng đạo đức của Nho
giáo và đạo đức của người Việt là quan hệ có tính hai chiều. Tư tưởng đạo đức của



Nho giáo được từng chọn làm chuẩn mực để giáo dục đạo đức cho người Việt và đặt
dấu ấn rất rõ ràng vào nhân cách người Việt. Ngược lại, qua thực tiễn phát triển tư
tưởng đạo đức xuất phát từ nhu cầu tự thân của người Việt, các phạm trù đạo đức của
Nho giáo được mở rộng nội hàm và trở nên phong phú, thể hiện tính phù hợp trong
nhiều thời đại.
Việc nghiên cứu “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến đời sống tinh thần
người Việt Nam” nhằm khẳng định những giá trị đạo đức tốt đẹp, bền vững mà con
người Việt Nam đã bồi đắp trong lịch sử và rút ra những giá trị, đóng góp của tư tưởng
đạo đức Nho giáo trong hoàn thiện đạo đức con người Việt; đặc biệt, trong bối cảnh
hội nhập và sự thay đổi trong định hướng giá trị nhân cách của người Việt Nam, việc
phát triển con người Việt Nam bền vững cần có cơ sở triết học vững chắc nhằm vừa
đảm bảo, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp đồng thời kế thừa những tinh
hoa của Nho giáo mà vẫn chứa đựng yếu tố năng động, hiện đại trong đời sống tinh
thần người Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn của Xã hội học là điều cần thiết.
II. NỘI DUNG
PHẦN I: TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA NHO GIÁO
1. Sơ lược về tiến trình phát triển của Nho Giáo.
1.1. Nho giáo là gì?
Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán Tự từ Nho gồm từ
nhân (người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nho Giáo còn gọi là nhà nho, người
đọc sách thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp
với luân thường đạo lý.
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, Tự Trọng
Ni người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như tư tưởng trước
đây thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo.
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Kinh (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh
Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam Cương đó là các mối quan hệ vua-tôi,


2


cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường ( Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng
hầu hết các nước phong kiến phương Đông qua quá trình giao thoa và đồng hòa.
1.2. Tiến trình phát triến của Nho Giáo.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công‘Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các
tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
a . Nho giáo nguyên thủy.
Khổng Tử sống trong thời Xuân Thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống nhất
bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống trong nước
Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó. Khổng Tử đã san định, hiệu
Đính và giải thích bộ Lục Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch,
Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh
thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời
dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm,
còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của
Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của
ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo
nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "Tư tưởng
Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm: "Nho giáo và Nho gia". Nho gia
thì mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang
tính tôn giáo vì ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành
Giáo Chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
b. Hán Nho.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa

Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai
cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
3


c. Tống Nho.
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ
thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là “Trạng Trình”).
Phương Tây gọi Tống nho là “Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu
tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Nho giáo có rất nhiều điểm mâu thuẫn, nếu chưa tính đến Nho giáo các đời sau,
Nho giáo nguyên thủy chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn về nguyên tắc; ví dụ, Khổng
Tử nói “dân làm gốc” nhưng lại gọi dân là “tiểu nhân”,… Việc tìm ra các đặc điểm
của Nho giáo để giải thích các mâu thuẫn đó yêu cầu nghiên cứu về quá trình hình
thành Nho giáo, tức là tìm về nguồn gốc của Nho giáo. Nho giáo là sản phẩm của hai
nền văn hóa: văn hóa du mục phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam.
Chính vì thế nó mang đặc điểm của hai loại hình văn hóa này.
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã
hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là Quân Tử ( Quân = người làm vua,
Quân tử = chỉ tầng lớp trên ở trong xã hội để phân biệt với kẻ "Tiểu nhân" những
người thấp kém về điạ vị xã hội; "Quân tử" là những người cao thượng có phẩm chất

tốt đẹp, phân biệt với kẻ "Tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa
hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước
tiên là những người cầm quyền ). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết
phải "Tự Đào Tạo", phải "Tu Thân". Sau khi Tu Thân xong, người quân tử phải có
bổn phận phải "Hành Đạo" ( Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả
vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận
hành chung của vũ trụ, đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng ( hoặc như
họ tự nhận mình là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm Vua cho
người nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ
4


trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sở triết lí của Nho
giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
2.1 .Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm
chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường
là lẽ đạo đức mà Nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà Nữ giới
phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường,
Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội sẽ được an bình.
a. Tam Cương: Nói về ba mối quan hệ Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử (cha con),
Phu Phụ (chồng vợ).
- Quân Thần (Vua Tôi) : Trong quan hệ vua tôi. Vua thì thưởng phạt công minh,
Tôi tớ phải trung thành một dạ.
- Phụ Tử (Cha Con): Cha hiền Con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy con cái,
Con phải hiếu thảo và phụng dưỡng khi cha về già.
- Phu Phụ (Chồng vợ) : Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ. Vợ
phải chung thủy tuyệt đối với chồng .
b. Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ : Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt rõ thiện ác, đúng sai.
- Tín : Giữ đúng lời hứa, đáng tin cậy.
c. Tam Tòng: Tam là ba, Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, bao gồm: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: Tức người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu : Lúc lấy chồng phải theo chồng.
- Phu tử tòng tử : Nếu chồng qua đời phải theo con .
d. Tứ Đức: Bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có là: Công, Dung, Ngôn,
Hạnh.
- Công : Khéo léo trong công việc.
5


- Dung : Hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn : Mềm mại trong lời nói.
- Hạnh : Nhu mì trong tính nết.
2.2. Hành đạo.
Sau khi Tu Thân, người quân tử phải Hành Đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "Tề gia, Trị quốc,
Bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ là gia đình, cho đến lớn là Trị
Quốc, và đạt đến mức cuối cùng là Bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam
cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị có hai phương châm:
a. Nhân Trị : Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người
và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử
nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” ( Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho
người khác - sách Luận ngữ). "Nhân" được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức,
Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc

mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
b. Chính Danh : Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời
không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh
Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con
ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng
được tóm gọn lại trong chín chữ: "Tu Thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ”.
PHẦN II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN NGƯỜI VIỆT NAM
1. Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu về quá trình du nhập Nho giáo vào VN đều thống nhất một
điểm là Nho giáo được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc. Có thể chia quá
trình du nhập đó thành 3 giai đoạn:

6


Giai đoạn thứ nhất vào cuối thời Tây Hán, từ khoảng thế kỷ II TCN đến thế kỷ I
SCN. Giai đoạn này Nho giáo đã được các quan lại và trí thức Hán du nhập vào nước ta,
nhưng chưa có nhiều tài liệu nói về việc du nhập Nho giáo vào VN trong thời kỳ này.
Giai đoạn thứ hai, khoảng từ thế kỷ II đến thế kỷ V.Thời kỳ này Nho giáo được
truyền vào VN thông qua tầng lớp quan lại Hán và các Nho sĩ chạy xuống Giao Châu
để lánh nạn. Sự truyền bá Nho giáo thời kỳ này chủ yếu ở mặt “lễ nghĩa và giáo dục”.
Giai đoạn thứ ba, từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX. Nhà Đường mở khoa thi Nho học
và cho phép sĩ tử người Việt tham gia dự thi, chủ trương này càng khuyến khích việc
học Nho ở nước ta.
Xét về mặt nguồn gốc lịch sử thì Nho giáo ở Việt Nam, cũng tựa như Nho giáo
ở các nuớc Á Đông khác, là một nhánh Nho giáo mà gốc là nho giáo Trung Quốc. Có
thể nhận thấy rằng Nho giáo (hay bất cứ giáo nào) du nhập một nước có văn hiến thì

phải uốn mình theo văn hóa nước đó; vừa uốn mình theo, vừa đóng góp vào nhiều hay
ít, cụ thể như thế nào tùy khả năng tiếp thu và sáng tạo của mỗi dân tộc.
Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành
động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan của các
thời đại, của các dân tộc. Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta
từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Tư tưởng
trị vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có
nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống của
dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ dân tộc Việt
Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người
đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng
trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do
đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo.
2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng người Việt Nam.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được tích cực truyền bá vào Việt Nam song
Nho giáo vẫn chưa có ảnh hưởng đáng kể trong đời sống tinh thần của đại bộ phận
nhân dân. Bước sang thế kỷ X, sau khi đất nước dành được độc lập, các triều đại đầu
tiên Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, không theo đạo Nho mà theo đạo Phật vì vậy
7


Nho giáo chưa phát triển đáng kể. Đến thời Lý, do yêu cầu củng cố nhà nước tập
quyền và trật tự xã hội phong kiến, tư tưởng Nho học đã được các nhà chính trị ở nước
ta vận dụng, biểu hiện đầu tiên là tư tưởng Thiên mệnh (ý trời) trong Chiếu dời đô
(1010) và (sách trời) trong bài Nam quốc sơn hà. Ngoài ra, các khái niệm cơ bản của
Nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa…cũng từng bước được vận dụng. Ảnh hưởng
của Nho giáo càng mạnh hơn khi nhà Lý lập Văn Miếu (1070) thờ Khổng Tử, phụ thờ
Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư (Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử), Mạnh Tử là 4
học trò nổi tiếng của Khổng Tử cùng 72 người học trò giỏi khác của Khổng Tử, định
ra nghi lễ bốn mùa cúng tế; dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128) tổ chức thi

Minh kinh và Nho học tam trường (1075), mở trường Quốc tử giám (1076) để đào
tạo Nho sĩ, giới nghiên cứu Nho học ở nước ta mới ngày một ra đời và lớn mạnh.
Những sự việc này trở thành cái mốc quan trọng đánh dấu một bước phát triển có ý
nghĩa lịch sử đối với vai trò của Nho giáo trong đời sống văn hóa, giáo dục ở Việt
Nam. Có thể nói, ở thời Lý, Nho giáo đã giành được một chỗ đứng nhất định trong tư
tưởng chính trị-xã hội lúc bấy giờ là vì nó cung cấp được cho nhà cầm quyền một hệ
thống lý luận và cả những bài học kinh nghiệm trong việc trị nước.
Sang thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo càng mạnh mẽ và sâu sắc. Chính Trần
Thái Tông ông vua mở đầu triều Trần, đồng thời cũng là nhà thiền học nổi tiếng đã
phải thừa nhận vai trò và ảnh hưởng của Nho giáo. Thời kỳ này, giáo dục và khoa cử
Nho học được mở rộng, một tầng lớp Nho sĩ dần dần lớn mạnh và tích cực tham gia
các hoạt động chính trị, phấn đấu cho lý tưởng tu, tề, trị, bình, hướng nhà vua theo con
đường nhân chính và đức trị.
Đến thời Hồ, Hồ Quý Ly đã tiếp thu Nho giáo một cách có phê phán. Nhìn chung,
Hồ Quý Ly là người đề cao Nho giáo, có nhiều chính sách khuyến khích Nho học.
Thời thuộc Minh: Năm 1406, đế quốc Minh đem quân xâm lược Việt Nam. Năm
1407, cuộc kháng chiến của triều Hồ thất bại. Nhằm Hán hóa Việt Nam về văn hóa, tư
tưởng, nhà Minh cho lập Văn miếu thờ Khổng Tử, cho mở trường ở các phủ, châu, để
đào tạo ra những người biết chữ phục vụ bộ máy thống trị của nhà Minh tại Việt Nam.
Sau khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà Lê sơ ra đời, từ Thái Tổ Lê Lợi, Lê Thái
Tông rồi Lê Nhân Tông đều là lấy Nho giáo làm đạo chính thống trong nước. Nho
giáo thắng thế và chiếm giữ vai trò quốc giáo, tư tưởng chính thống của giai cấp phong
8


kiến. Chế độ giáo dục và khoa cử tiếp tục được đề cao, cách thi và hệ thống học vị
được hoàn chỉnh, một số định lệ mới được đặt ra như lệ xướng danh, lệ vinh quy, khắc
bia Tiến sĩ ở Văn Miếu. Vua Lê Thánh Tông còn cho ban hành “24 điều giáo huấn”
trong nhân dân để củng cố quan hệ Nho giáo trong gia đình, tông tộc, xóm thôn. Tư
tưởng Nho giáo đã thấm nhuần trong tầng lớp trí thức và quan lại, ăn sâu vào đời sống

chính trị – xã hội quốc gia. Những nhà nho tiêu biểu thời kỳ này là Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông, Lương Thế Vinh, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Thân Nhân Trung…
Trong đó, Nguyễn Trãi là người đặt cơ sở cho xu hướng Nho giáo thực tiễn, đặt niềm
tin ở dân tộc, lấy con người, lấy nhân dân làm gốc.
Thế kỷ XVII, XVIII xã hội trở nên loạn lạc, giai cấp thống trị nhà Lê suy thoái,
sự tranh giành quyền lực diễn ra liên tục đã dẫn đến một thời kỳ suy thoái kéo dài của
Nho giáo. Điểm nổi bật ở thời kỳ này là sự kết hợp giữa Nho giáo với Đạo giáo và
Phật giáo. Hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” trên nền tảng của Nho giáo là xu
hướng lớn của giai đoạn này.
Bước sang thế kỷ XIX, triều Nguyễn được thành lập, tình trạng nội chiến kết
thúc. Cùng với việc khôi phục lại chế độ phong kiến trung ương tập quyền, nhà
Nguyễn ra sức đề cao Nho giáo, chấn hưng Nho học, chấn chỉnh nền giáo dục, khoa
cử Nho học. Nho giáo thời Nguyễn chịu ảnh hưởng của Tống Nho, Hán Nho và
Đường Nho. Nho giáo đã được nhà Nguyễn đẩy đến mức cực đoan, giáo điều, tính bảo
thủ của Nho giáo cũng ngày càng bộc lộ, trước những thách thức đặt ra của lịch sử,
Nho giáo ngày càng tỏ ra lạc hậu và bất lực. Cùng với quá trình xâm lược của thực dân
Pháp, Nho giáo từng bước suy tàn.
Nho giáo đã từng ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc tới xã hội Việt Nam thời kỳ
trung cận đại. Trải qua những chuyển biến xã hội, văn hoá thế kỷ XX, Nho giáo đã
mất địa vị độc tôn, chính thống và luân lạc trong dân gian như nhiều quốc gia khác
trong khu vực Ðông Á. Tuy nhiên, trong dân gian, những tư tưởng đạo đức, luân lí của
Nho giáo vẫn ít nhiều ảnh hưởng trên nhiều phương diện, nhất là trong các mối quan
hệ ứng xử, đến nay nhiều giá trị tích cực của Nho giáo vẫn được gìn giữ trong nhân
dân, thể hiện sức sống mãnh liệt của học thuyết tư tưởng này.
2. 1. Ảnh hưởng tích cực :

9


- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà

nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống
quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học
nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy
Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là
giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa.
Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố
quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn
hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một
nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong
nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn
hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng
đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát
triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn,
có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thôn, ấp hướng tới tầm mức
quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty
hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng
tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc
lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu
với nhân dân.
- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của
bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với
Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại
cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt
những quân tàn bạo.
2.2 Ảnh hưởng tiêu cực .

10


- Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng
cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích
thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm
hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng
sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển.
- Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà
không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được,
chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa
học tư nhiên, kỹ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh
phương Tây vốn xuất hiện sau.
3. Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác những giá trị tích của
đạo đức Nho giáo trong đời sống tinh thần người Việt Nam .
Nho giáo là học thuyết đạo đức mà cũng là học thuyết chính trị , vấn đề tu thân
được đặt lên hàng đầu: “Từ thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân bình thường
đều phải lấy việc tu thân làm gốc”. Chúng ta đã có những kinh nghiệm rất đáng quý
trong việc khai thác Nho giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị và xã hội, nhất là trong
thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của đất nước, chúng ta đã không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực
của bản thân mỗi người trong việc tu thân mà còn quy định trách nhiệm của gia đình,
của trường học, của xã hội, của Nhà nước đối với việc này. Chính vì thế mà chúng ta
đã duy trì được những nét tốt đẹp của truyền thống, củng cố được mối quan hệ gắn bó
giữa người và người trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, chúng ta nên nghĩ rằng trong
những quan hệ đạo đức không tránh khỏi nhiều điểm chưa hợp lý, chưa công bằng,
chưa tiến bộ mà những nước nói trên nhất định sẽ cần giải quyết.
Ngày nay, lý tưởng đạo đức của nhân dân Việt Nam là: Độc lập, tự do và chủ

nghĩa xã hội. Thay cho Ngũ thường của Nho giáo là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hồ Chí
Minh cũng nêu lên “Ngũ thường” ở Việt Nam là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.

11


Nhân: là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà
kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế
mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thề
mà… không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người đã …. không e, không sợ gì
thì việc gì phải họ đều làm được.
Nghĩa: là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì
phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng
giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy
việc phải thì nói. không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn
luôn đúng đắn.
Trí: Vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng
suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người.

Biết xét việc. Vì vậy,

mà biết làm việc có lợi, trách việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người
tốt, đề phòng người gian.
có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự
vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh
cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
Liêm: là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ
hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Để chủ động khai thác những mặt tích cực của Nho giáo trong sự nghiệp phát

triển đất nước, chúng ta chú trọng những điều sau :
Thứ nhất, phải đặc biệt mở mang việc học tập. Người quân tử (hay kẻ sĩ) những
tầng lớp ưu tú trong xã hội, những người tham gia quản lý đất nước, trước hết phải là
những người có học và học giỏi. Đây là đặc điểm quan trọng ở những nước theo Nho
giáo và là một nhân tố đẩy mạnh sự phát triển nhanh chóng của những nước này.
Thứ hai, những người cán bộ trong bộ máy Nhà nước nhất thiết phải là những
người có đạo đức. Đây là điều kiện đầu tiên để cho dân yêu, dân tin, dân phục. Nho
giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân và tham nhũng là những người độc ác.
Để cho nhân dân đói rét, thí chính nhà vua cũng phải có tội. Điều này là một sức mạnh

12


từ trong nhân dân để ngăn chặn và chấm dứt sự tham nhũng và suy thoái của những
người trong bộ máy chính quyền.
Thứ ba, Nho giáo đề cao việc cai trị nhân dân không chỉ bằng pháp luật mà
trước hết phải bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo (Đức trị, nhân trị, lễ trị).
Vấn đề đặt ra hôm nay cho chúng ta là có thể khai thác những gì từ Nho giáo
trong quá trình kết hợp giữa đạo đức và pháp luật nhằm xây dựng một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và một nền đạo đức mới. Sự kết hợp đạo đức và pháp luật một
cách hợp lý sẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới hôm nay, vừa xây dựng những con người
kiểu mới cho xã hội ngày mai.
III. KẾT LUẬN
Trước sự rối ren của xã hội trong thời kì Trung Hoa cổ, trung đại đã làm sản
sinh ra các nhà tư tưởng lớn, hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh
với những triết lý nhân sinh cao đẹp.
Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay Nho giáo đã từng ảnh hưởng toàn
diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng,
ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.
Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới : dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo.
Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn
hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính
diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư
tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân
và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới,
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

13


MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU
II. NỘI DUNG
PHẦN I: TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO

1. Sơ lược về tiến trình phát triển của Nho Giáo.
1.1. Nho giáo là gì?
1.2. Tiến trình phát triến của Nho Giáo.
a . Nho giáo nguyên thủy.
b. Hán Nho.
c. Tống Nho.
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
2.1 .Tu thân
a. Tam Cương:
b. Ngũ Thường:
c. Tam Tòng:
d. Tứ Đức:
2.2. Hành đạo.

a. Nhân Trị :
b. Chính Danh :
PHẦN II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM

1.Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng người Việt Nam.
2. 1. Ảnh hưởng tích cực :
2.2 Ảnh hưởng tiêu cực .
3. Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác những giá trị tích của đạo
đức Nho giáo trong đời sống tinh thần người Việt Nam .
14


III. KẾT LUẬN

15



×