Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ hán nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.89 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Lành

NÉT ĐẸP NHÂN VĂN
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Lành

NÉT ĐẸP NHÂN VĂN
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN CÔNG KHANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du” là công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Phan Công Khanh. Những kết quả nêu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 1 năm 2013
Học viên
Nguyễn Thị Lành


LỜI CẢM ƠN
Với sự làm việc nghiêm túc của bản thân và sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình
của thầy cô, gia đình, bạn bè, luận văn này đã được hoàn thành.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Phan Công Khanh, người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô, những
người đã chỉ bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu; xin chân thành cảm
ơn phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng
như trong quá trình thực hiện luận văn.
Người viết đã nỗ lực hết mình để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn

Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................10
1.1. Nguyễn Du ....................................................................................................10
1.1.1. Thời đại ....................................................................................................10
1.1.2. Gia thế và cuộc đời ..................................................................................11
1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du .......................................................................14
1.2.1. Thanh Hiên thi tập ...................................................................................14
1.2.2. Nam trung tạp ngâm ................................................................................15
1.2.3. Bắc hành tạp lục.......................................................................................15
1.3. Nét đẹp nhân văn ..........................................................................................16
1.3.1. Thuật ngữ “nhân văn” ..............................................................................16
1.3.2. Cơ sở xã hội của chủ nghĩa nhân văn trong văn học ...............................18
1.4. Nét đẹp nhân văn qua các thời kì văn học trung đại Việt Nam ....................23
1.4.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV ..................................23
1.4.2. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII ...................27
1.4.3. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX ..................33
Chương 2 NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ................................................................42
2.1. Những chiêm nghiệm, suy tư về con người cá nhân ....................................42
2.1.1. Con người của hùng tâm tráng chí...........................................................43
2.1.2. Con người của đời thường dung dị ..........................................................48
2.2. Những nỗi niềm trắc ẩn về số phận con người .............................................56
2.2.1. Cảm xúc đau đớn và buồn thương trước số phận những con người cần
lao.......................................................................................................................56
2.2.2. Bênh vực và xót thương người phụ nữ ....................................................66
2.2.3. Niềm trắc ẩn đối với những nhân vật lịch sử Trung Quốc ......................74


2.2.3.1. Đồng cảm và kính trọng những bậc hiền tài, nhân nghĩa .................76

2.2.3.2. Căm ghét và lên án những kẻ gian ác ...............................................84
2.3. Những cảm nhận về nhân sinh trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ...................94
2.3.1. Cảm nhận về không gian .........................................................................94
2.3.1.1. Không gian mờ mịt, gió bụi ..............................................................95
2.3.1.2. Không gian lạnh lẽo, ảm đạm ...........................................................99
2.3.1.3. Không gian tù túng, ngột ngạt.........................................................100
2.3.2. Cảm nhận về thời gian ...........................................................................103
2.3.2.1. Thời gian hoài niệm ........................................................................103
2.3.2.2. Thời gian đời người ........................................................................108
2.3.2.3. Thời gian tâm trạng .........................................................................110
Chương 3 NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ........................................................113
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................................................113
3.1.1. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ ....................................................................114
3.1.1.1. Từ biểu cảm.....................................................................................114
3.1.1.2. Từ tự xưng .......................................................................................115
3.1.2. Nghệ thuật sử dụng câu .........................................................................119
3.1.2.1. Câu nghi vấn ...................................................................................119
3.1.2.2. Câu trần thuật ..................................................................................121
3.1.2.3. Câu cảm thán ...................................................................................124
3.2. Những biểu tượng nghệ thuật .....................................................................125
3.3. Giọng điệu nghệ thuật.................................................................................128
3.3.1. Giọng tiếc nuối, thương cảm, buồn đau.................................................129
3.3.2. Giọng phê phán, căm phẫn, bất bình .....................................................132
3.4. Bút pháp nghệ thuật ....................................................................................136
3.4.1. Bút pháp tả cảnh ngụ tình ......................................................................136
3.4.2. Bút pháp tương phản..............................................................................140
KẾT LUẬN ............................................................................................................145
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................148



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta từng biết một Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều bất hủ sống mãi
trong lòng dân tộc. Chỉ với Truyện Kiều thôi cũng đủ làm tên tuổi Nguyễn Du sáng
tựa ánh sao trên thi đàn văn học Việt Nam và thế giới. Nhưng đại thi hào của chúng
ta còn là tác giả của Văn chiêu hồn và ba tập thơ chữ Hán trác tuyệt. Và với ba tập
thơ chữ Hán Nguyễn Du để lại cho đời, chúng ta càng khâm phục và tự hào hơn nữa
về Nguyễn Du - một nhà nhân đạo lớn qua hàng thế kỉ và một danh nhân văn hóa
thế giới. Nếu như qua Truyện Kiều, Nguyễn Du gián tiếp thể hiện thái độ của mình
thì thế giới thơ chữ Hán là tiếng nói trực tiếp của tác giả. Nguyễn Du không che
giấu bất cứ điều gì từ tư tưởng, tình cảm đến những khoảnh khắc riêng tư… Vì vậy,
nếu muốn hiểu sâu hơn về cuộc đời và con người Nguyễn Du thì chúng ta cần phải
tìm hiểu không chỉ có Truyện Kiều và Văn chiêu hồn mà còn có cả ba tập thơ chữ
Hán của ông.
Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán còn cho ta biết thêm nhiều về tài năng của
Nguyễn Du. Ông không chỉ hay Nôm mà còn giỏi Hán. Bùi Mạnh Nhị khẳng định:
“Nói về Nguyễn Du mà chỉ nhắc đến Truyện Kiều và một số tác phẩm thơ Nôm
khác thì mới chỉ nói được một nửa THIÊN TÀI MẸ ấy. Còn một nửa khác của đại
thi hào Nguyễn Du là những áng thơ chữ Hán “nghìn thu tuyệt diệu” [58; 5]. Đúng
như lời nhận định trên, qua thơ chữ Hán, ta hiểu thêm nhiều về tài năng và con
người Nguyễn Du. Ba tập thơ từ ngôn từ cho tới giọng điệu và câu, tất cả đều thấm
đượm chất nhân văn. Nguyễn Du vĩ đại vì ông yêu thương con người. Hơn nữa,
Nguyễn Du luôn tôn vinh con người, những danh nhân văn hóa của quá khứ, những
con người bất hạnh và những người phụ nữ… Truyện Kiều phần lớn là nhân vật hư
cấu, nhân vật văn học còn trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du viết về những con người
và những mảnh đời cụ thể. Thơ chữ Hán của ông còn có một ý nghĩa khái quát, đó
là lời tự thuật về một cuộc đời, một con người và một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại trước

xã hội đầy màu sắc bi kịch từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Ba tập thơ chữ
Hán góp phần bổ sung thêm cho Truyện Kiều bức chân dung hoàn chỉnh của nhà


2

thơ.
Truyện Kiều bàng bạc, thấm đẫm tình yêu thương trên từng câu chữ. Thơ chữ
Hán cũng vậy, có phần nổi trội hơn vì rằng lòng trắc ẩn của Nguyễn Du đã trải rộng
ra cho tất cả mọi kiếp phù sinh. Thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán rất phong phú,
mỗi nhân vật dù là người anh hùng, người dân lao động hay người phụ nữ tài sắc thì
ở họ đều có những nét tính cách rất riêng và có số phận riêng. Nguyễn Du viết về
họ, khắc họa bức chân dung về cuộc đời họ, qua đó làm nổi bật những nét đẹp ở họ.
Nguyễn Du đã tạo nên những tượng đài nghệ thuật để vinh danh con người. Tìm
hiểu thơ chữ Hán giúp ta thấy được những tư tưởng nhân văn tiến bộ trong sáng tác
của Nguyễn Du. Đối với mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Mai Quốc Liên đã có
những nhận xét rất hay và rất xác đáng: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng
văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới
lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng
độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa” [20; 7]. Thật vậy, thế giới thơ
chữ Hán của Nguyễn Du không lung linh nhiều màu sắc phô trương, không ồn ào
sôi nổi mà đó là một thế giới nội tâm của tác giả với những cung bậc cảm xúc rất
người, rất nhân văn. Đó cũng chính là quá trình từ việc khắc khoải đi tìm mình, con
người trong thơ chữ Hán đã đến với bao trắc ẩn dành cho mọi kiếp người và nhận ra
nhiều vẻ đẹp ở họ. Đi qua bao dâu bể cuộc đời, với một tâm hồn luôn dạt dào cảm
xúc, luôn thấm đẫm tình người, Nguyễn Du đã hiểu và cảm thông với tất thảy.
Vì vậy, “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du” là một đề tài mà
người viết trăn trở, muốn được góp một phần nào đó dù nhỏ bé, dù ít ỏi để có thể
tiếp cận và nghiên cứu thêm về một khía cạnh trong vô vàn những khía cạnh đang
được giới nghiên cứu quan tâm về thơ chữ Hán của Nguyễn Du.

2. Lịch sử vấn đề
Thơ chữ Hán Nguyễn Du trước đây ít được giới nghiên cứu quan tâm nên những
bài viết về thơ chữ Hán không nhiều. Tuy nhiên, điều đáng mừng là gần đây đã có
không ít những công trình nghiên cứu công phu về mảng thơ này.


3

Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đào Duy
Anh với bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong Khảo luận về Kim Vân Kiều (Nhà
xuất bản Quan Hải tùng thư, 1943). Lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán Nguyễn Du
được khẳng định về hình thức cũng như về nội dung. Có thể nói đây là những ý kiến
có giá trị gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở giai đoạn sau.
Năm 1960, nhà phê bình Hoài Thanh với bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một
số bài thơ chữ Hán trên tạp chí Văn nghệ tháng 3, đã khái quát về lịch sử, về thời
đại sóng gió mà Nguyễn Du đã sống. Tác giả nói về thái độ của Nguyễn Du đối với
các triều đại cũng như niềm thương cảm của ông đối với những kiếp người bị đày
đọa: “Thái độ Nguyễn Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thơ
Nguyễn Du do đó có giá trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt” [9; 41].
Đào Xuân Quý với bài Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán trên báo Văn
nghệ tháng 11 năm 1965, đóng góp những tiếp cận ban đầu về thái độ, về diễn biến
tâm trạng của Nguyễn Du qua ba tập thơ. Ông cũng nói đến tình cảm, lòng nhân đạo
mà nhà thơ dành cho mọi tầng lớp nhân dân lao động cũng như tỏ rõ một mối cảm
tình nồng hậu đối với những người có tài, có đức mà bị hãm hại như Hàn Tín, Nhạc
Phi, Khuất Nguyên… Ông nói đến tình hình lịch sử Trung Quốc qua một số nhân
vật cụ thể trong thơ và trong tương quan so sánh với tình hình lịch sử Việt Nam thời
bấy giờ để khẳng định: “Nguyễn Du không phải chỉ phản ánh cảnh đời cơ cực của
nhân dân, không phải chỉ tỏ lòng thương xót, mà còn hàm ý phê phán, mỉa mai bọn
vua quan triều đình phong kiến nữa” [9; 117].
Cùng quan điểm với Hoài Thanh, năm 1966, Xuân Diệu viết Con người Nguyễn

Du trong thơ chữ Hán, trình bày khái quát hoàn cảnh xã hội Nguyễn Du sống lúc
bấy giờ để thấy rằng: “Thơ Nguyễn Du làm ở thời kì nhà Lê, thơ làm thời kì nhà
Nguyễn, thơ trong khi đi sứ Trung Quốc: cái thời đại của Nguyễn Du đúng là tê đi
và tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui” [9; 44]. Phân tích sự cảm thông
lẫn nhau giữa những bậc tài tử trong xã hội xưa, giữa những bậc tài tình của Việt
Nam và Trung Quốc, Xuân Diệu cho rằng: “Nguyễn Du là người mang những vấn
đề của ngàn năm, của triệu người, nên cái đau khổ của ông là một đau khổ lớn, có


4

tính cách đại diện cho nhân loại” [9; 48]. Qua việc phác họa những nét đặc sắc về ý
nghĩa của một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du để thấy được tấm lòng
nhân đạo của ông dành cho mọi kiếp người, nhất là những người lao động và những
trang tài tử, Xuân Diệu khẳng định: “Nguyễn Du buộc tội cái xã hội kinh khủng kia.
Không yêu thương con người đến cháy ruột cháy gan, thì không thể có cái hơi văn
bênh vực sự sống như người mẹ bảo vệ đứa con rứt ruột!” [9; 54-55].
Cùng năm 1966, Nguyễn Huệ Chi có bài viết Nguyễn Du và thế giới nhân vật của
ông trong thơ chữ Hán trên tạp chí Văn học tháng 11, trình bày hai phần chính,
phần thứ nhất nói về Nguyễn Du cũng như phân tích hoàn cảnh lịch sử đã tác động
đến thái độ, tâm trạng của Nguyễn Du lúc bấy giờ, qua đó khẳng định Nguyễn Du
không phải là con người hành động mà là con người tư tưởng. Phần thứ hai, khái
quát về những nhân vật trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhân vật chính diện và
cả những nhân vật phản diện. Lồng ghép vào đó, tác giả muốn lý giải về thế giới
quan đã ảnh hưởng đến thái độ, cách sống và cách nghĩ của Nguyễn Du đối với
cuộc đời và với thơ. Bài viết này đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu
thơ chữ Hán Nguyễn Du, đó là tìm kiếm chân dung của chính tác giả.
Hướng đi này được Vũ Đình Liên tiếp tục khai thác trong chuyên mục Nguyễn
Du, một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến (Tìm hiểu Nguyễn Du qua thơ
chữ Hán) trên tạp chí Văn học số 2 năm 1971. Căn cứ vào một số bài thơ và một vài

sự kiện trong cuộc đời của Nguyễn Du, Vũ Đình Liên nêu lên ý kiến riêng về thái
độ của Nguyễn Du đối với các triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Tác giả đã tìm hiểu về
nhân sinh quan, về tâm hồn của Nguyễn Du, một tâm hồn lạc loài trong xã hội
phong kiến nhưng lại rất gắn bó với số phận đau khổ của con người bị chà đạp.
Từ năm 1975 đến nay, sau khi đất nước thống nhất, các tập thơ của Nguyễn Du
tiếp tục thu hút các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Năm 1980, Phan Hữu Nghệ có bài viết Thực tiễn Trung Hoa và tư tưởng Nguyễn
Du trên tạp chí Văn học số 6, trình bày thực tiễn Trung Hoa lúc bấy giờ và tư tưởng
Khổng - Mạnh dưới cái nhìn của Nguyễn Du. Nêu ra những bức tranh tương phản
giữa một bên là những tư tưởng cao đạo của lễ giáo, đạo đức phong kiến với một


5

bên là hiện thực khốc liệt, nhân dân lao động lầm than cơ cực muôn phần để qua đó
khẳng định: “Thái độ phê phán chế độ phong kiến Trung Quốc ở Nguyễn Du là
điều tất nhiên và hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở thực tiễn của nó, phản ánh bước
phát triển hợp lý và lôgic của tư tưởng nhân đạo ở Nguyễn Du” [30; 56].
Đến năm 1988, với bài viết Nguyễn Du qua thơ chữ Hán được in trên Kiến thức
ngày nay số 30, Lê Đình Kỵ nói nhiều đến hoàn cảnh lịch sử ảnh hưởng đến chí
hướng của Nguyễn Du cũng như những trăn trở, băn khoăn của Nguyễn Du trước
những ngả đường lịch sử. Tác giả đã tìm hiểu về thái độ của Nguyễn Du đối với các
triều đại, đối với quan trường, với nhân dân, với con người và cuộc đời, và đưa ra
nhận xét: “Cái phần trong sáng và đáng trân trọng nhất trong thơ chữ Hán xét đến
cùng là những yêu ghét của nhà thơ” [17; 34]. Nguyễn Du yêu những con người
hiền tài, những người dân cơ cực, những người phụ nữ tài sắc bất hạnh và ghét
những kẻ ác ôn, sống trên máu và nước mắt của người khác.
Giá trị to lớn của thơ chữ Hán Nguyễn Du, một lần nữa được Mai Quốc Liên
khẳng định trong lời mở đầu trong cuốn Nguyễn Du toàn tập (Nhà xuất bản Văn
học và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 1996). Tác giả đã khái quát những đánh giá

của Nguyễn Du về nền văn hóa Trung Hoa thông qua việc đánh giá các danh nhân,
vấn đề văn chương và số mệnh, vấn đề cô trung, tiết nghĩa, những đối nghịch, làm
nên tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật của thơ…
Hướng nghiên cứu này đã được Lê Thu Yến phát triển trong Đặc điểm nghệ thuật
thơ chữ Hán Nguyễn Du vào đầu năm 1999. Tác giả đã khai thác ba đặc điểm nghệ
thuật của thơ chữ Hán: hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật và
không gian nghệ thuật. Đó là những nét lớn tập trung trong cái nhìn nghệ thuật của
Nguyễn Du qua toàn bộ thơ chữ Hán. Như vậy, từ chuyên luận này, chúng ta có một
cái nhìn khá toàn diện về thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Luận văn thạc sĩ của Trịnh Thị Ngọc Thúy Những nhân tố phục hưng trong sáng
tác của Nguyễn Du năm 2001 được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, nói đến những cơ sở lý luận, nhân tố phục hưng cũng như những giá


6

trị nhân văn trong sáng tác của Nguyễn Du. Tác giả nghiêng về nghiên cứu chủ
nghĩa nhân văn trong truyện Kiều.
Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Bích Vân Hình tượng nghệ thuật về con người
trong tập Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du năm 2003 được bảo vệ tại trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung xoay quanh vấn đề chính: hình
tượng nghệ thuật về con người. Con người yêu thương, con người đời thường, con
người vũ trụ là ba khía cạnh của hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc
hành tạp lục.
Năm 2005, Luận án tiến sĩ của Hoàng Trọng Quyền Nguyễn Du và Đỗ Phủ những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật được bảo vệ tại trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu tư tưởng nhân văn trong thơ
Nguyễn Du và Đỗ Phủ và khẳng định rằng tư tưởng nhân văn là vấn đề cốt lõi, cơ
bản nhất trong tư tưởng nghệ thuật của cả hai nhà thơ.
Cũng nghiên cứu về tư tưởng nhân văn, luận văn của Nguyễn Thị Huyền
Thương Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010, trình bày những biểu hiện của chủ nghĩa nhân
văn trong thơ của ba tác gia lớn.
Năm 2011, Lê Thu Yến tiếp tục nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du với
chuyên luận Nguyễn Du và những nhân vật lịch sử Trung Quốc được in trên Những
lằn ranh văn học (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) làm rõ
hơn những luận bàn của Nguyễn Du. Qua đó, tác giả nhận định: “Nguyễn đã tổng
kết, đánh giá hàng loạt những vấn đề tai nghe mắt thấy và qua những tấm gương
tiêu biểu: cùng khổ, tài hoa, bất hạnh, tốt, xấu, gian ác… được đọc trong sách, tận
tường hơn khi đến nơi, cảm được khung cảnh, nhận rõ sự việc…” [32; 505].
Ít nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Các tác giả xoay quanh những vấn đề tìm hiểu
những tâm sự, tâm tình của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán gắn liền với một giai đoạn
lịch sử đầy biến động, qua đó cho ta thấy được nhân sinh quan cũng như tấm lòng


7

thương yêu chân thành và niềm cảm thông của Nguyễn Du đối với tất cả mọi kiếp
người trong xã hội.
Do tính chất, mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nêu trên chưa đặt ra
cụ thể về vấn đề nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tuy nhiên, tất cả
các bài viết trên chính là tiền đề và cơ sở giúp người viết thực hiện tốt công trình
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu khái quát về thời đại, cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Du; từ đó có thể có được cái nhìn thấu đáo, toàn diện
hơn về con người nhà thơ, về những nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng
đến tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và nỗi khắc khoải đi tìm mình, niềm trắc ẩn của
Nguyễn Du để làm tiền đề cho việc nghiên cứu “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ

Hán Nguyễn Du”.
Thứ hai, luận văn tìm hiểu nét đẹp nhân văn trong thơ, qua đó phần nào hiểu
những tâm tư, suy nghĩ của nhà thơ về thế sự và kiếp người thông qua ba tập thơ
chữ Hán Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Qua những
nỗi niềm riêng cũng như cách Nguyễn Du đánh giá về cuộc đời, về con người, ta
hiểu thêm những khía cạnh của nét đẹp nhân văn trong thơ Nguyễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Về đối tượng khảo sát
Với đề tài đã chọn, đối tượng nghiên cứu của luận văn là nét đẹp nhân văn,
những khía cạnh biểu hiện và hình thức biểu hiện của nó qua thơ chữ Hán Nguyễn
Du.
Hướng nghiên cứu của đề tài là từ việc tìm hiểu thời đại, bối cảnh lịch sử xã hội
có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm của Nguyễn Du đến những biểu hiện
cụ thể của con người nhân văn Nguyễn Du và nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán
của ông.


8

* Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn là mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du
với tư liệu từ 250 bài thơ trong ba tập thơ chữ Hán là Thanh Hiên thi tập, Nam
trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Do còn nhiều ý kiến tranh luận về văn bản thơ
chữ Hán Nguyễn Du nên để thuận lợi cho việc khảo sát, người viết tạm thời chỉ dựa
vào những bài thơ được phổ biến ở tập 1 (phần thơ chữ Hán) trong bộ Nguyễn Du
toàn tập do Mai Quốc Liên chủ biên; Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc và Lê
Thu Yến phiên âm, dịch nghĩa và chú thích. Ngoài tư liệu trên, người viết còn sử
dụng những tư liệu khác như Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và một số tác phẩm của
các tác giả khác trong văn học trung đại Việt Nam và văn học Trung Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp lịch sử - cụ thể: Là phương pháp đặt đối tượng nghiên cứu vào thời
đại, bối cảnh cụ thể khi nó ra đời để tìm hiểu sâu hơn về tác giả, tác phẩm và đề tài
nghiên cứu.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: Người viết sẽ tìm hiểu thêm về thơ của các nhà
thơ trung đại có những nét gần gũi với Nguyễn Du để làm rõ hơn nét đẹp nhân văn
trong thơ chữ Hán của ông trong hệ thống của tiến trình phát triển văn học trung đại
lúc bấy giờ. Trên cơ sở đó, luận văn cố gắng lí giải thế giới quan, nhân sinh quan
cũng như những tiền đề, cơ sở di dưỡng niềm trắc ẩn của Nguyễn Du trong một giai
đoạn đầy phức tạp và biến động của lịch sử dân tộc.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Là phương pháp giúp người viết vừa khai
thác vấn đề ở những khía cạnh chi tiết để nắm được bản chất vấn đề, vừa tổng hợp
lại nhằm có những kết luận khái quát về vấn đề.
6. Đóng góp của đề tài
Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được đưa vào giảng dạy ở
nhà trường phổ thông. Đây là lĩnh vực còn mới mẻ, khó khăn đối với không ít giáo
viên và học sinh. Vì thế, đây có thể là tài liệu tham khảo thêm cho giáo viên khi
giảng dạy về tác gia Nguyễn Du, nhưng trước hết nó phục vụ cho công việc, giảng


9

dạy của người viết. Luận văn cũng góp phần nghiên cứu một khía cạnh của thiên tài
Nguyễn Du cũng như góp phần hoàn chỉnh bức chân dung của đại thi hào, bức chân
dung của một con người nhân văn với ba tập thơ chữ Hán cũng thấm đượm tinh
thần nhân văn.
7. Cấu trúc luận văn
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Du
1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du

1.3.

Khái niệm nét đẹp nhân văn

Chương II. NÉT ĐẸP NHÂN VĂN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Những chiêm nghiệm, suy tư về con người cá nhân
2.2. Những nỗi niềm trắc ẩn về số phận con người
2.3. Những cảm nhận về nhân sinh
Chương III. NÉT ĐẸP NHÂN VĂN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1.

Ngôn ngữ nghệ thuật

3.2.

Biểu tượng nghệ thuật

3.3.

Giọng điệu nghệ thuật

3.4.

Bút pháp nghệ thuật


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Nguyễn Du
1.1.1. Thời đại
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại vô cùng rối ren của nửa cuối thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì chế độ phong kiến bộc lộ rõ nhất những
ung nhọt và thối nát của nó. Bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Lê mạt Nguyễn sơ đầy rẫy những biến động. Cuộc đối đầu giữa hai dòng họ, họ Trịnh ở
Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài hơn hai thế kỉ (từ năm 1570 đến
1786). Đất nước rơi vào cảnh Nam Bắc chia cắt hết sức lầm than, đời sống của
người dân muôn vàn cực khổ, điêu đứng.
Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn năm 1771.
Phong trào này cùng một lúc đã đánh tan hai tập đoàn phong kiến phản động trong
nước và hai cuộc xâm lược của ngoại bang là Xiêm và Mãn Thanh, góp phần không
nhỏ trong việc thống nhất đất nước. Sau khi lên ngôi, Quang Trung ban hành nhiều
chính sách tiến bộ, ích nước lợi dân. Nhưng làm vua được vài năm, Quang Trung
mất, các thế lực phản động nổi lên, đất nước lại rơi vào cảnh điêu linh. Nguyễn Ánh
lên ngôi năm 1802, chế độ phong kiến triều Nguyễn được thiết lập.
Sự thay đổi chóng vánh ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến Nguyễn Du và gia đình
của ông. Ông chưa hết xót xa đau đớn cho tình cảnh tan tác của tập đoàn Lê - Trịnh,
lại một lần nữa chứng kiến sự sụp đổ trong nháy mắt của triều đại Tây Sơn. Vận
mệnh rỡ ràng, ngắn ngủi của triều đại ấy kết thúc thấp thoáng phía sau là công cuộc
khôi phục của triều đình nhà Nguyễn.
Là chứng nhân chứng kiến mọi biến cố đầy kịch tính của lịch sử Việt Nam cuối
thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du sống trong một trạng thái bàng hoàng,
hẫng hụt về tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm ngay được một lẽ sống, một chỗ


11

đứng nào vững vàng, ổn định, một con đường nào để giải thoát cho bản thân. Sự bế

tắc đó cũng chính là bi kịch của cuộc đời Nguyễn Du. Thời đại đầy rẫy biến động,
đầy rẫy đau thương ấy ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời và những trải nghiệm, suy
nghĩ của Nguyễn Du. Thực trạng này cũng giúp chúng ta phần nào lý giải được
những mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du, đồng thời hiểu được vì sao trong
thơ, Tố Như lại đau đời, thương người và day dứt trước thân phận con người đến
thế.
1.1.2. Gia thế và cuộc đời
Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan.
Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ
là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh. Người địa phương có
câu ca dao về dòng họ này:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan”
Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống văn
chương. Sống trong một môi trường giàu truyền thống văn học như thế, năng khiếu
của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở từ rất sớm.
Lúc còn bé, Nguyễn Du được sống trong cảnh giàu sang, hạnh phúc nhưng tuổi
thơ tươi đẹp của ông không kéo dài được bao lâu. Năm Nguyễn Du tròn mười tuổi
đã có hai biến cố lớn xảy ra: Nguyễn Trụ, anh cùng mẹ với Nguyễn Du mắc bệnh
mất ở kinh thành giữa tuổi mười tám và Nguyễn Nghiễm, cha của Nguyễn Du cũng
qua đời. Khi Nguyễn Du lên 13 tuổi, mẹ ông cũng mất. Vậy là, Nguyễn Du sớm mồ
côi cả cha lẫn mẹ, không biết nương tựa vào đâu trong khi các anh em cùng mẹ với
Nguyễn Du còn quá nhỏ, do đó Nguyễn Du phải ở với người anh khác mẹ là
Nguyễn Khản. Nguyễn Khản hơn Nguyễn Du 31 tuổi, sớm đỗ đạt, làm quan to
trong triều, lại là một con người tài hoa rất mực, đã có ảnh hưởng rất lớn đến
Nguyễn Du sau này. Cảnh sống hào hoa của Nguyễn Khản được Phạm Đình Hổ
viết: “Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng cứ
cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông có tang quan Tư



12

đồ (tức Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn cứ sai con hát đồ khúc gọi là “ngâm
thơ Nôm”. Bọn con em họ quý thích đều bắt chước chơi bời hầu như thành thói
quen” [12; 246]. Sống trong hoàn cảnh như vậy nên từ rất sớm, Nguyễn Du đã di
dưỡng tấm lòng trắc ẩn và cảm thông sâu sắc đối với phụ nữ nói chung và ca kĩ nói
riêng. Họ phải đem tài sắc và giọng hát của mình để mua vui cho kẻ giàu sang, mua
vui cho cuộc đời. Sau này, Nguyễn Du có dịp chứng kiến thêm nhiều cảnh tượng
bất công ngang trái của những kiếp người tài hoa bạc mệnh và ông luôn đứng về
phía họ để lên tiếng bênh vực và che chở.
Nguyễn Du sống với anh cũng chẳng bao lâu. Năm nhà thơ 18 tuổi, vừa đỗ Tam
trường, gia đình của Nguyễn Khản gặp biến cố. Kiêu binh nổi loạn, Nguyễn Khản
cải trang chạy lên Sơn Tây, sau đó thì về quê ở Hà Tĩnh. Gia đình Nguyễn Du từ
đây mỗi người mỗi ngã.
Trước kia, một ông quan họ Hà, làm việc dưới quyền Nguyễn Nghiễm, giữ
chức Chánh thủ hiệu hiệu quân hùng hậu ở Thái Nguyên, không có con trai, xin
Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi họ Hà mất, Nguyễn Du được tập ấm chức ấy.
Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc phá tan 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu
Thống bỏ nước chạy theo đám tàn quân của giặc. Lúc này các anh em cùng mẹ với
Nguyễn Du là Nguyễn Đề và Nguyễn Ức chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không
kịp. Nguyễn Du từ giã Nguyễn Đề và Nguyễn Ức để trở về quê vợ ở huyện Quỳnh
Đôi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình), sống nhờ người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Khi
người vợ họ Đoàn mất, ông về quê Hà Tĩnh làm “người đi săn ở núi Hồng” (Hồng
Sơn liệp hộ), “người câu cá ở biển Nam” (Nam Hải điếu đồ).
Năm 1796, Nguyễn Du có ý định vào Nam giúp Nguyễn Ánh nhưng bị trấn
tướng của Tây Sơn ở Nghệ An là Nguyễn Thận bắt giam. Sau vì Nguyễn Thận nể
anh ruột của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ làm quan cho Tây Sơn cũng là bạn của
mình, lại mến tài của Nguyễn Du nên tha. Từ đó Nguyễn Du về ở hẳn Tiên Điền
trong một thời gian dài. Đây là những năm Nguyễn Du ở “dưới chân núi Hồng”.
Chiến tranh loạn lạc xảy ra, ông tận mắt chứng kiến cảnh thay đổi sơn hà, gia

đình li tán, anh em lưu lạc mỗi người một nơi. Cuộc đời ông như ngọn cỏ bồng đứt


13

gốc lăn lóc bên trời, trôi giạt từ đầu sông đến cuối bể, cơm không đủ ăn, ốm không
thuốc uống, từng có lúc đau khổ gần như tuyệt vọng. Nhưng cũng chính những
bước đường thương đau ấy đã giúp ông thực sự có dịp hiểu biết và sống gần gũi với
quần chúng.
Năm 1802, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Tháng 8 năm ấy, Nguyễn Du được
bổ nhiệm làm tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Từ đó, ông
được giữ nhiều chức vụ khác nhau trong triều. Năm 1809, ông được bổ làm Cai bạ
ở Quảng Bình và ở chức này bốn năm liền. Nguyễn Du làm quan không nghĩ đến
danh lợi, lúc nào cũng chăm lo đến đời sống của nhân dân. Gia phả chép: “Khi làm
quan chức cai bạ dinh Quảng Bình, phàm những việc công trong hạt như lính
tráng, dân sự kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc
thương lượng với các quan Lưu thủ, Ký lục để thi hành. Ông giữ chức Cai bạ bốn
năm, chính sự giản dị, không cầu tiếng tăm, nên được sĩ phu và nhân dân yêu mến”
[48; 18].
Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang
Trung Quốc. Năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1819, ông được
cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam. Ông dâng biểu cố từ, được vua chuẩn y.
Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi, định cử ông làm chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa
nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất đột ngột vào ngày 10 tháng 8 năm Đinh
Thìn.
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn từ năm 1802 cho đến lúc
mất 1820, tính đúng là 19 năm. Trừ những thời gian xin về tạm nghỉ ở quê nhà có
thể nói là không gián đoạn. Ông thăng chức khá nhanh và có lúc giữ nhiều chức vụ
quan trọng. Gia phả chép: “… dẫu làm đến chức Á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh
nhã đơn giản như một người học trò nghèo” [48]. Quả thật điều đó làm không ít

người yêu quý và cảm thấy gần gũi ông.
Khi làm quan dưới triều Nguyễn, Nguyễn Du ít nói năng đến nỗi có lần ông bị
vua quở rằng: “Nhà nước dùng người tài giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người
Bắc, người Nam. Khanh (Nguyễn Du) với Ngô Vị đã được trẫm biết tài mà bổ dụng,


14

làm quan đến chức Tham tri, biết điều gì cứ nói, để làm hết chức trách của mình,
sao lại cứ rụt rè, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi?” [48; 19]. Dường như ông luôn
mang trong mình nỗi buồn không thể nói cùng ai. Nỗi buồn ấy ông đành chôn chặt
tận đáy lòng ngay cả khi xuống dưới tuyền đài: “Đến khi ốm nặng, ông không chịu
uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi, ông nói: “Được”
rồi mất, không trối lại một lời” [48; 19].
Những năm tháng thăng trầm, lưu lạc và sống gần gũi với quần chúng đã đem lại
cho ngòi bút Nguyễn Du sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc với thân phận những con
người bé nhỏ, những kiếp tài hoa bạc mệnh.
1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng
chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán Nguyễn Du có ba tập thơ Thanh Hiên thi tập,
Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với tổng số 250 bài. Về chữ Nôm, xuất
sắc nhất là Đoạn trường tân thanh, thường gọi là Truyện Kiều, ngoài ra còn có Văn
chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài Thác lời trai phường nón.
1.2.1. Thanh Hiên thi tập
Đây là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du sáng tác gồm 78 bài được chia
thành ba giai đoạn:
• Mười năm gió bụi: (1786 - khoảng cuối 1795 đầu năm 1796) tức năm Tây
Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng
Lĩnh.
• Dưới chân núi Hồng (1796 -1802): quãng thời gian ông về ẩn tại quê nhà

(Hà Tĩnh).
• Làm quan ở Bắc Hà (1802 -1804): quãng thời gian ông bắt đầu ra làm quan
cho nhà Nguyễn.
Thanh Hiên thi tập chứa đựng tình cảm quê hương và tình cảnh của Nguyễn Du
trong những năm tháng lưu lạc. Nhà thơ sống nghèo túng, có khi ốm đau mà chẳng
thuốc thang gì, có lúc đói rét phải nhờ cậy vào lòng thương của người khác. Tâm sự
của tác giả trong thời kỳ này là một tâm sự buồn rầu, có khi chán nản, uất ức…



×