Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Xây dựng thang điểm đánh giá thể lực nữ sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
--------oo0oo--------

ĐỖ HỒNG TƠ
MSSV: 9117025

XÂY DỰNG THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ THỂ LỰC NỮ SINH VIÊN
KHÓA 39 HỆ KHÔNG CHUYÊN THỂ DỤC THỂ THAO HỌC
BÓNG CHUYỀN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ HỌC NĂM HỌC
2013 – 2014

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT

Cần Thơ, năm 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
--------oo0oo--------

ĐỖ HỒNG TƠ
MSSV: 9117025

XÂY DỰNG THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ THỂ LỰC NỮ SINH VIÊN
KHÓA 39 HỆ KHÔNG CHUYÊN THỂ DỤC THỂ THAO HỌC
BÓNG CHUYỀN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ HỌC NĂM HỌC
2013 - 2014

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT

Cán bộ hướng dẫn
NGUYỄN VĂN THÁI

Cần Thơ, năm 2015


1

LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng khóa X đã khẳng định “ Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao cả
về số lượng và chất lượng, phát triển sự nghiệp thể dục thể thao toàn dân, toàn diện,
phát triển mạnh thể dục thể thao trong lực lượng thanh thiếu niên, sinh viên, học sinh
đặc biệt là công tác giáo dục thể chất trường học” nhằm đưa đất nước phát triển cao
hơn về mọi mặt và hội nhập quốc tế…
Vai trò của giáo dục thể chất có ý nghĩa rất quan trọng nên không thể thiết được
trong hoạt động giáo dục và là một mặt của giáo dục toàn diện gồm: Đức học, trí học,
thể dục, mỹ dục. Quyết định số 931/QĐ – BGD&ĐT ngày 29 tháng 04 năm 1993 của
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo về việc ban hành quy chế về công tác giáo dục
thể chất trong nhà trường các cấp có ghi rõ:“Giáo dục thể chất được thực hiện trong
hệ thống nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào tạo những công dân phát
triển toàn diện. Giáo dục thể chất là bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo
nhằm giúp cho con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức, thể chất – sức khỏe tốt là nhân tố quan trọng
trong việc phát triển sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.
Quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu: “Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch

phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới
những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết”[8].
Để thực hiện theo quan điểm chỉ đạo trên, nhiều trường đại học trên cả nước
đều ra sức định hướng về tăng cường đổi mới nâng cao chất lương giáo dục cho tương
lai, trong đó có Trường Đại học Cần Thơ.
Trường Đại học Cần Thơ, cơ sở đào tạo đại học và sau đại học trọng điểm của
Nhà nước ở Đồng bằng Sông Cửu Long, là trung tâm văn hóa – khoa học kỹ thuật của
vùng. Nhiệm vụ chính của trường là đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công
nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trong khu vực, có bề dày lịch sử phát triển,
đến nay đã được 48 năm đào tạo, là một trường đào tạo đa ngành đa nghề với: 13


2
ngành tiến sĩ, 34 ngành thạc sĩ, 93 ngành đại học và 2 ngành cao đẳng trực thuộc 17
khoa, viện, bộ môn trực thuộc. Tổng số học viên và sinh viên của trường Đại học Cần
Thơ hiện nay là khoảng 61.821 người.
Chất lượng đào tạo Trường Đại học Cần Thơ hiện nay có những bước tiến quan
trọng trong công tác đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn giáo dục quốc gia và quốc tế
(tiêu chuẩn AUN hay tiêu chuẩn ABET đặc thù cho khối ngành kỹ thuật công nghệ),
Trường đã có chương trình đào tạo đầu tiên (Kinh tế Nông nghiệp) được công nhận đạt
chuẩn AUN và chính thức trở thành thành viên trong mạng lưới các trường đại học
khu vực Đông Nam Á (AUN) vào tháng 7/2013; Thứ hạng Trường theo Webometrics
được nâng lên rõ rệt (định kỳ tháng 01/2014 đạt hạng 39/100 trường hàng đầu khu vực
Đông Nam Á, hạng 02 trong các trường đại học Việt Nam; so với tháng 7/2013 hạng
51 Đông Nam Á, hạng 03 trong số các trường đại học Việt Nam)...
Qua kinh nghiệm học tập, quan sát…Để đạt hiệu quả trong công tác giáo dục thể
chất thì giáo viên cần phải phát huy được tính tự giác, tích cực cho người học để có thể
tham gia rèn luyện thể chất và tập luyện các môn thể thao một cách thường xuyên, tích
cực, liên tục…phát triển thể lực góp phần nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết trên, là 1 sinh viên ngành giáo dục thể chất tôi

muốn cống hiến công sức nhỏ đễ nghiên cứu tố chất thể lực và nâng cao chất lượng
giảng dạy của bộ môn nên tôi mạnh dạn chọn đề tài“Xây dựng thang điểm đánh giá
thể lực nữ sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục thể thao học môn bóng
chuyền trường Đại học Cần Thơ năm học 2013- 2014”.
 Mục đích nghiên cứu
Xây dựng thang điểm đánh thể lực nữ sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục
thể thao học môn bóng chuyền trường Đại học Cần Thơ học năm học 2013- 2014.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
 Nhiệm vụ 1: Thực trạng thể lực của nữ sinh viên khóa 39 hệ không chuyên
thể dục thể thao học môn bóng chuyền trường Đại học Cần Thơ học năm học 20132014.


3



Nhiệm vụ 2: Xây dựng thang điểm đánh giá thể lực cho nữ sinh

viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục thể thao học môn bóng chuyền Đại học Cần
Thơ học năm học 2013- 2014.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Quan điểm của Đảng và nhà nước về công tác Giáo dục thể chất


trong trường học:
1.1.1.

Giáo dục thể chất là một mặt của giáo dục toàn diện:

Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xây dựng chủ
nghĩa nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có tri thức, có đạo đức và hoàn
thiện thể chất. Trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Giáo dục
thể chất cho học sinh, sinh viên được coi là một mặt giáo dục, vừa là một nhiệm vụ
quan trọng, góp phần bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện,
có sức khỏe dồi dào, có thể chất cường tráng, có dũng khí kiên cường để kế tục sự
nghiệp của Đảng và nhân dân một cách đắc lực. Cùng với các mặt hoạt động khác, quá
trình Giáo dục thể chất giúp cho học sinh, sinh viên hoàn thiện nhận cách và các phẩm
chất khác, nhằm đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống và nghiệp vụ chuyên môn.
Tư tưởng con người phải được phát triển hài hòa giữa thể chất và tình cảm đã
xuất hiện trong kho tàng văn hóa chung của xã hội loài người từ nhiều thế kỷ trước. Từ
nhà triết học cổ đại Hy Lạp A-ris-tốt, những nhà theo chủ nghĩa nhân đạo thời phục
hưng như Mông-ten, những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng như Xanh-ximông, đến những nhà bác học vào giai đoạn nỗi tiếng của Nga như M.V.Lô mô nô
xốp, V.G. Belinski, N.G strecnusepski và những người khác nữa đã tạo ra và bảo vệ tư
tưởng học thuyết về phát triển hài hòa giữa năng lực tình cảm và tinh thần của con
người [ 3].
Các Mác và Ăng – ghen đã chứng minh sự phát triển của giáo dục phụ thuộc vào
điều kiện sống vật chất, khám phá ra bản chất xã hội, bản chất giai cấp, đồng thời còn
chỉ ra rằng trong Xã hội Chủ nghĩa Cộng sản tương lai của con người phát triển toàn
diện là tất yếu khách quan, bởi vì đó là nhu cầu của xã hội. Nhấn mạnh vấn đề này ,
Mác đã viết: “ Kết hợp với lao động sản xuất với trí dục và thể lực. Đó là những biện
pháp để tăng sức sản xuất của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo con
người phát triển toàn diện”. [ 4, tr495]. “ Nền giáo dục trong xã hội tương lai khi mà
trẻ em đã qua độ tuổi nhất định nào đó, lao động sản xuất sẽ kết hợp với tri thức và thể



5
dục, không chỉ với tư cách là một phương pháp duy nhất để đào tạo những con người
phát triển toàn diện”.
Lê Nin tiếp tục đi sâu vào sáng tạo học thuyết về giáo dục toàn diện người nhấn
mạnh: “ Thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, còn có thể thao lành mạnh
, thể dục, bơi lội, thăm quan, các bài tập thể lực, những hứng thú phong phú về tinh
thần, học tập, phân tích, nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả các hoạt động ấy với
nhau”. [ 5, tr.29].
1.1.2. Quan điểm Hồ Chí minh về giáo dục con người toàn diện:
Hồ Chí Minh được thế giới công nhận danh hiệu anh hùng giải phóng dân tộc và
danh nhân văn hóa thế giới. Suốt đời Bác đã hy sinh vì nền độc lập dân tộc, lãnh đạo
tài tình cuộc cách mạng giải phóng dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ thành công. Bác là người trung thành với học thuyết Mác – Lê Nin. Trong
chỉ đạo công tác cách mạng và lãnh đạo sự nghiệp phát triển dân tộc. Bác cũng rất
quan tâm công tác Thể Dục Thể Thao, coi đó là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên.
Tháng 3 năm 1941 trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh. Bác Hồ
đã nêu rõ: “ Khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân, làm cho nòi giống thêm
khỏe mạnh”.
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 3 năm 1946
Người đã viết: “ Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng
cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt
một phần, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là góp phần làm cho cả nước khỏe
mạnh. Vì vậy “ Luyện tập thể dục bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân
yêu nước [ 22].
Trong thư gửi hội nghị cán bộ thể dục thể thao toàn miền Bắc 31 tháng 3 năm
1960 Bác đã dạy: “ Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt thì cần có sức
khỏe. Muốn có sức khỏe thì nên thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Vì vậy,
chúng ta nên phát triển phong trào thể duc thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời Bác

còn căn dặn: “ Cán bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và
hăng hái công tác”, nhằm phục vụ sức khỏe toàn dân. Về vị trí của TDTT trong xã hội
Người khẳng định: “ Là một trong những công tác cách mạng khác”.


6
Quan điểm đó của Người đã được Đảng và nhà nước ta thực hiện xuyên suốt
trong quá trình lãnh đạo, trở thành kim chỉ nam trong hoạt động TDTT, nhằm nâng
cao thể chất con người, được khẳng định qua các chỉ thị, nghị quyết trong suốt thờ kỳ
lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội
với chủ trương: “ Từng bước xây dựng nền TDTT xã hội chủ nghĩa phát triển cân đối,
có tính chất độc lập , khoa học và nhân dân”. Công tác TDTT cần coi trọng, nâng cao
chất lượng giáo dục trong trường học, tổ chức, hướng dẫn, vận động đông đảo nhân
dân rèn luyện hàng ngày. Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức khỏe
của nhân dân.
1.1.3. Quan điểm đường lối của Đảng và nhà nước về Giáo dục thể chất và thể
thao trường học:
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, thực hiện tư
tưởng chủ đạo của Hồ Chủ Tịch, Đảng và nhà nước ta không ngừng tạo điều kiện để
biến học thuyết phát triển con người toàn diện thành hiện thực.
Chỉ thị 36 CT/TW ngày 24 tháng 3 năm 1994 của ban bí thư trung ương Đảng
khóa VII, giao trách nhiệm cho bộ GD & ĐT và tổng cục TDTT thường xuyên phối
hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC cải tiến chương trình giáo dục tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể, đào tạo giáo viên thể dục thể thao cho trường học các cấp, tạo điều kiện
cẩn thiết cho cơ sở vật chất để thực hiện chế độ giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các
trường học làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết
học sinh, sinh viên. Qua đó phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài năng thể thao cho
đất nước.
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tại điều 41 quyết
định: “ Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy định chế độ

GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức
TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các
hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao.
Tại đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, các vấn đề mở rộng và nâng cao chất
lượng trong lĩnh vực TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao, GDTC trong trường
học và phát triển lực lượng vận động viên trẻ đã được đề cập thảo luận “ Mở rộng và
nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân


7
thể thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết thế hệ trẻ, nâng cao
chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học”.
Luật giáo dục được Quốc hội khóa IX, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thong qua ngày 02 tháng 12 năm 1990 và pháp lệnh TDTT được ủy ban thường vụ
Quốc hội thông qua tháng 09 năm 2000 quy định: Nhà nước coi trọng TDTT trường
học, nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu niên và nhi đồng.
Giáo dục thể chất là nội dung bắt buộc đối với học sinh, sinh viên được thực hiện cho
hệ thống giáo dục quốc dân từ mần non cho đến đại học. TDTT trường học bao gồm
việc tiến hành chương trình GDTC bắt buộc và tổ chức hoạt động TDTT ngoại khóa
cho người học. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên được
tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm, lứa tuổi và điều kiện từng nơi. GDTC là một
bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…
Văn kiện đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu chuẩn bị tốt hành trang cho thế
hệ trẻ đồng thời khẳng định “ Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu bản thân của con
người là vốn quý để tạo ra tài sản, trí tuệ và vật chất cho xã hội. Chăm lo cho con
người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội của các cấp, các ngành, các đoàn
thể”.

Nghị quyết đại hội Đảng IX đã xác định mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Muốn đạt được mục tiêu này chúng ta phải chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng lại cơ cấu đội ngủ lao động phục vụ phát triển kinh tế
trong thành công của sự nghiệp này, đòi hỏi người lao động phải được chuẩn bị tốt về
thể chất. Chăm lo cho con người về mặt thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất
cả các ngành các cấp, các đoàn thể. Trong đó có giáo dục và đào tạo, y tế, thể dục thể
thao.
Chỉ thị 17/CT – TW ngày 23 tháng 10 năm 2002 của Ban bí thư trung ương Đảng
nêu rõ: “ Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, đảm bảo mỗi trường học đều có
giáo viên TDTT. Tăng cường đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực thể dục thể thao”.
Để tạo điều thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp thể thao nước nhà, thủ tướng
chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/ TG về việc xây dựng quy hoạch ngành TDTT,


8
trong đó ghi rõ: “ Ngành TDTT phải xây dựng định hướng có tính chất chiến lược,
trong đó quy định các môn thể thao và các hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi
đối tượng, lứa tuổi tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của thể thao quần chúng,
khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.
BGD&ĐT đã kịp thời có những chỉ thị, quyết định chỉ đạo thực hiện công tác
GDTC trong trường học, như việc ban hành quy chế GDTC và y tế trường hoc trong
nhà trường các cấp. Theo quy định số 14/2001 ngày 03 tháng 05 năm 2001, Bộ tiếp tục
khẳng định vị trí vai trò GDTC là hoạt động giáo dục bắt buộc nhằm giáo dục, bảo vệ
và tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân
cách đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên.
Đảng và nhà nước ta định hướng và vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và phát triển những
quan điểm về TDTT ứng với từng giai đoạn cách mạng cụ thể, nhằm phục vụ nhiệm
vụ chiến lược của Đảng và dân tộc. Trong từng thời kỳ cách mạng, từng theo yêu cầu
nhiệm vụ và tình hình thực tiễn. Đảng và nhà nước luôn có những chỉ thị, nghị quyết

kịp thời, chủ trương đúng đắn để chỉ đạo phong trào TDTT. Lần lượt rất nhiều hiến
pháp, nghị quyết, chỉ thị về công tác TDTT được Đảng và nhà nước ban hành, các bộ
luật, luật và pháp lệnh các văn bản pháp luật xây dựng qua đó nhiều chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và nhà nước có liên quan đến quyền và nghĩa vụ mọi công
dân, phục vụ cho việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, tạo ra môi trường
pháp lý. Đáp ứng những yêu cầu cấp bách của việc xây dựng một xã hội công bằng
văn minh.
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam năm 1992. Điều 41 ghi “
Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học”. Điều đó đã khẳng định
sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta đối với công tác TDTT và GDTC trong
nhà trường, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết và liên tục của Đảng, toàn dân [7].
Luật giáo dục một văn bản pháp luật về giáo dục thống nhất có hiệu lực pháp lý
cao, thể chế đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về giáo
dục:“Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân
tộc, khoa học, hoạt động, lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng”.


9
Ngày 18 tháng 09 năm 2008, BGD&ĐT ban hành quyết định số 53/2008/QĐ –
BGD&ĐT về việc ban hành quy định về việc đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh
viên. Đây là cơ sở để các trường tiến hành nghiên cứu đánh giá thực trạng thể chất của
sinh viên trường mình.
Luật TDTT được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 29/11/2006, Mục 02 – Điều 20 quy định:“Giáo dục thể chất là một môn học
chính khóa trong chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động
cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện”.
Tóm lại, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội nói
chung, của ngành TDTT nói riêng. Đó chính là phương hướng cơ bản, quan trọng nhất

của nền giáo dục nước ta.
Để đảm bảo cho công tác TDTT phát triển đúng hướng, cần tạo sự quản lý thống
nhất của nhà nước, xúc tiến quá trình xã hội hóa TDTT trong các tổ chức và cơ sở hoạt
động, nhất là trong mạng lưới rộng lớn các trường học từ mẫu giáo đến đại học, bởi vì
thể thao học đường là cái nôi đào tạo tài năng thể thao cho đất nước.
1.2.

Một số khái niệm liên quan.

1.2.1. Sức khỏe:
Sức khỏe là vốn quý của con người. Có sức khỏe thì chúng ta mới có thể thực
hiện được những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng, những điều mà chúng ta cho rằng
khó trở thành hiện thực.
Theo tổ chức Y tế Thế giới ( OMS-1946) “ Sức khỏe là một trạng thái hài hòa về
thể chất, tinh thần và xã hội mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật,
cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được
lâu dài khả năng lao động và lao động có kết quả”, [10, tr.82]
1.2.2. Thể chất:
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn (2000) thì: “ Thể chất chỉ chất lượng
thân thể con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức
năng của cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống
( bao gồm cả giáo dục, rèn luyện)”, [25, tr. 18].
Thể chất theo nhiều tác giả Trung Quốc 8 – 1982( trong hội nghị khoa học toàn
quốc) cho rằng: Thể chất là chất lượng của cơ thể con người. Chúng tổng hòa các đặc


10
điểm tương đối ổn định về cấu trúc hình thái cơ thể, chức năng sinh lý, nhân tố tâm lý
được biểu hiện trên cơ sở di truyền và khả năng đạt được (trong đời sống, trong lao
động, huấn luyện thể thao…) thể chất biểu hiện rất nhiều mặt, trong đó có tố chất thể

lực. Nhiều tác giả sinh lý và sư phạm thể thao cho rằng: Tố chất thể lực bao gồm các
năng lực nhanh, mạnh, bền…của cơ thể.
1.2.3. Giáo dục thể chất:
Thuật ngữ giáo dục thể chất có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước. Ở nước ta, do
bắt nguồn từ Hán – Việt nên cũng có người gọi tắt giáo dục thể chất là thể dục với
nghĩa tương đối hẹp, vì định nghĩa rộng của từ Hán – Việt thể dục còn có nghĩa là thể
dục thể thao.
Thường người ta coi giáo dục thể chất là một bộ phận của hoạt động thể dục thể
thao. Nhưng khi nghiên cứu một cách chính xác hơn, giáo dục thể chất còn là một
trong những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của thể dục thể thao trong
xã hội, một quá trình có tổ chức truyền thụ và tiếp thu những giá trị thuộc về kiến thức
của thể dục thể thao trong hệ thống giáo dục chung, [15].
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn: “ Giáo dục thể chất là một loại hình
giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động ( động tác) và phát triển có chủ
đích các tố chất vận động của con người”. [25 tr. 18]. Từ quan niệm trên ta có thể coi
phát triển thể chất là một phần hệ quả của giáo dục thể chất. Quá trình phát triển thể
chất là sự kết hợp giữa yếu tố bẩm sinh tự nhiên và tác động có chủ đích, hợp lý của
giáo dục thể chất mang lại.
PGS.TS Nguyễn Toán đã mô tả GDTC và khái niệm: “Giáo dục thể chất là một
bộ phận của TDTT. Giáo dục thể chất còn là một trong những hoạt động cơ bản, có
định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình tổ chức để truyền thụ và tiếp thu
những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục – giáo dưỡng chung (chủ yếu là trong
nhà trường)… Giáo dục thể chất là một hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động và phát triển có chủ đích các tố chất vận động của con người”.
Với mục tiêu góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế
và văn hóa xã hội, phát triển hài hòa về mọi mặt, có sức lực cường tráng, có năng lực
hoạt động chuyên môn độc lập, sáng tạo, có tư tưởng, đạo đức tác phong lành mạnh,
trong sáng đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, GDTC đã



11
trở thành nội dung quan trọng không thể thiết trong chương trình đào tạo của trường
ĐH, CĐ & THCN.
1.2.4. Thể lực:
Thể lực là sức lực của cơ thể, biểu hiện qua các tố chất thể lực. Tố chất thể lực là
những mặt riêng biệt về khả năng vận động của con người, bao gồm: Nhanh, mạnh,
bền, khéo léo, mềm dẻo. Tố chất thể lực thường được thể hiện trong khi làm động tác
và phụn thuộc vào cấu trúc của động tác. Ngoài ra, việc thể hiện các tố chất còn phụ
thuộc vào trạng thái người tập và điều kiện thực hiện.
Các tố chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền và mềm dẻo là những yếu tố mang tính
năng lượng ( vì phụ thuộc vào việc cung cấp năng lượng), còn khả năng phối hợp vận
động ( khéo léo) là một yếu tố mang tính thần kinh – cơ ( vì chủ yếu liên quan đến sự
điều khiển của hệ thần kinh – cơ). Hai thuật ngữ tố chất thể lực và tố chất vận động
tương đồng về nghĩa vì cùng phản ánh những nhân tố, những mặt tương đối khác nhau
của thể lực con người. Tuy nhiên, khi nói tố chất vận động là muốn nhấn mạnh việc
điều khiển động tác của hệ thần kinh trung ương. Còn khi nói tố chất thể lực là muốn
nhấn mạnh đến đặc trưng sinh học của cơ thể. [27]
1.3.

Đặc điểm tâm – sinh lý sinh viên.

1.3.1. Đặc điểm sinh lý sinh viên 18 – 22 tuổi:
Trong quá trình sống của con người, trong từng giai đoạn khác nhau, các cơ
quan, bộ phận cũng phát triển khác nhau. Ở lứa tuổi này, cơ bản các cơ quan và hệ
thống quan trọng nhất của cơ thể phát triển chậm lại. Chiều cao ngưng phát triển và có
sự tăng trưởng nhiều theo chiều ngang và tăng trọng lượng của cơ thể. Cơ bắp phát
triển tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sức mạnh và sức bền, cơ thể con người có
năng lực hoạt động cao hơn khả năng sinh vật học của cơ bắp, cho phép tập luyện tất
cả các môn thể thao. Vì vậy, tập luyện TDTT có hệ thống, khoa học sẽ làm tăng lực co
cơ, nhờ tăng tiết diện ngang cũng như độ đàn hồi của cơ. Ở lứa tuổi này, có thể đạt

được thành tích xuất xắc trong các môn thể thao mang tính nghệ thuật (thể dục dụng
cụ, thể dục nghệ thuật, trượt băng nghệ thuật), cũng như trong bơi lội và các môn thể
thao tốc độ. Những môn thể thao sức mạnh và sức bền, thì thành tích cao nhất lại đạt
vào lứa tuổi 25 – 30. Nói chung, có thể cho rằng, lứa tuổi 21 – 30 là lứa tuổi thuận lợi
nhất để đạt thành tích cao trong hầu hết các môn thể thao, nếu được đào tạo cơ bản có
khoa học.


12
1.3.1.1.

Hệ thần kinh:

- Các tổ chức thần kinh của các em ở lứa tuổi này tiếp tục phát triển chậm để đi
đến hoàn thiện. Tuy nhiên, tổng khối lượng của võ não không tăng mấy, chủ yếu cấu
tạo bên trong vỏ não phức tạp hơn, khả năng tư duy nhất là khả năng phân tích, tổng
hợp, trừu tượng hoá phát triển thuận lợi cho sự hình thành phản xạ có điều kiện.
- Tâm sinh lý trong hoạt động học tập: Theo M.N.Shachenhicop thì sự tăng
trưởng mức tiêu hao năng lượng trong quá trình lao động trí óc với trạng thái yên tĩnh
khi ngồi học tăng 16%, ngồi đọc thành tiếng tăng 48%, ngồi nghe giảng bài tăng 46%,
làm thí nghiệm trong phòng tăng 86%. Khả năng lao động trí óc của sinh viên còn có
thể biến đổi phụ thuộc vào tâm trạng sức khoẻ, sự hiểu biết về ý nghĩa của công việc,
sự hứng thú của sinh viên đối với công việc. Mặt khác, còn phụ thuộc vào mức độ xúc
động và sự quyết tâm. Sự căng thẳng kéo dài và có hệ thống của hệ thống thần kinh sẽ
dẫn đến mệt mỏi quá độ. Vì vậy, lao động trí óc của sinh viên có liên quan tới sự căng
thẳng tâm lý, xuất hiện những điều kiện không thuận lợi là nguyên nhân bệnh lý của
tim mạch, tiêu hoá, thần kinh.
- Diễn biến khả năng lao động trí óc: Diễn biến khả năng làm việc ngày, đêm của
con người phụ thuộc vào chu kỳ và nhịp của các quá trình sinh lý (nhịp sinh học), dưới
ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh và nội sinh (môi trường và nhịp tim, hô hấp,

huyết áp…). Đối với sinh viên, một ngày làm việc không thể bắt đầu ngay với hiệu
quả cao. Giai đoạn thích ứng nhịp hoạt động mất từ 10-20 phút đến 40 phút, tiếp theo
đó là trạng thái “sẵn sàng làm việc” và khả năng làm việc sẽ đạt tới mức độ tối đa. Do
ảnh hưởng của sự xuất hiện mệt mỏi, khả năng làm việc được phục hồi ở mức độ nhất
định. Mức độ phục hồi phần lớn phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân, phần lớn thường là
đầu tuần khả năng làm việc thấp, vào giữa tuần, khả năng làm việc cao nhất, vào cuối
tuần, khả năng làm việc hạ thấp, nhưng đôi khi lại có hiện tượng bùng nổ tăng khả
năng làm việc.
Phân tích diễn tiến khả năng làm việc của sinh viên trong học kỳ, có thể huy
động hoàn toàn khả năng lao động kéo dài từ 3-3.5 tuần, sau đó là giai đoạn ổn định 22.5 tháng. Vào đầu mùa thi, sinh viên sinh viên vừa học vừa kiểm tra nên cường độ lao
động căng thẳng và khả năng giảm. Nếu biết sử dụng tích cực phương tiện thể dục thể
thao để tập luyện kết hợp nghỉ ngơi tích cực, thì khả năng làm việc có thể được nâng
lên.


13
Như vậy, khả năng lao động của sinh viên phụ thuộc vào các thông số về thời
gian (đó là ngày, tuần, tháng, học kỳ, năm học) và biểu hiện theo sự thay đổi của các
giai đoạn thích ứng, ổn định, tăng cao, suy giảm. Đó là cơ sở khoa học cho việc áp
dụng các biện pháp, trong đó các hoạt động thể dục thể thao góp phần tích cực trong
quá trình hồi phục và nâng cao khả năng lao động, học tập của sinh viên.
1.3.1.2.

Hệ vận động:

- Hệ xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, phần sụn của đầu xương đã được cốt
hóa, các xương nhỏ như xương cổ tay, bàn tay đã cốt hóa hết nên có thể tập luyện các
bài tập nặng, tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, liên tục làm cho bộ xương
khỏe mạnh hơn, xương nữ xốp hơn xương nam và trong những năm còn lại có thể cao
thêm 0,5 – 1cm, còn nam cao thêm 1 – 3cm. Cột xương sống tuy đã ổn định về hình

dáng và hoàn thiện về chức năng nhưng vẫn có thể bị cong vẹo, đặc biệt xương chậu
của nữ to và yếu hơn nam, khi bị chấn động mạnh dễ ảnh hưởng đến các cơ quan nằm
trong như dạ con, buồng trứng. Vì thế, trong cùng lứa tuổi, không để cho nữ tâp luyện
những bài tập có khối lượng lớn như nam.
- Hệ cơ: So với hệ xương thì các tổ chức của cơ phát triển muộn hơn, các bắp cơ
lớn phát triển tương đối nhanh ( như cơ đùi, cơ cánh tay) còn cơ nhỏ như các cơ bàn
tay, ngón tay, các cơ xoay ngoài, xoay trong phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển
sớm hơn các cơ duỗi, cơ duỗi của nữ yếu phù hợp với các động tác mang tính chất
mềm dẻo, nhịp điệu, khéo léo. Đặc biệt, các tổ chức dưới da các em gái lại phát triển
mạnh, do đó phần nào ảnh hưởng đến sức mạnh cơ thể.
1.3.1.3.

Hệ tuần hoàn:

- Mạch đập: Hệ tuần hoàn đang phát triển và hoàn thiện, được tạo nên do hoạt
động của tim. Tần số mạch đập đúng bằng tần số co bóp của tim, chỉ số mạch lúc yên
tĩnh sẽ thay đổi nhiều dưới tác động của tập luyện thể dục thể thao. Tim của nam đập
mỗi phút 70-80 lần, của nữ 75-85 lần. Vì thế, trong tập luyện, nhất là các hoạt động
điền kinh như chạy tốc độ, hay chạy trung bình và các bài tập thể lực, phương pháp bắt
mạch thường được dùng để kiểm tra chức năng của hệ tim mạch, qua đó đánh giá được
tình trạng của cơ thể và lượng vận động.
- Huyết áp: Là áp lực máu đè lên thành mạch, được tạo nên do các hoạt động của
tim. Vì có trở lực của các mao mạch, nên trong động mạch huyết áp tăng lên trong thời
gian tâm thu và đạt mức cao nhất cuối thời gian tâm thu. Đó là huyết áp tối đa tương


14
ứng với thời gian tâm thu. Nó phụ thuộc vào các yếu tố: sự co bóp của tim, trở lực của
các mạch máu ngoại biên, khối lượng máu tuần hoàn và độ nhớt của máu. Vì trở lực
của các mạch máu ngoại biên lớn, nên huyết áp trong thời gian tâm trương có giảm

nhưng cuối thời gian tâm trương nó vẫn còn ở mức độ nhất định. Đó là huyết áp tối
thiểu và nó phụ thuộc vào huyết áp tối đa, trở lực của mạch máu ngoại biên và tính đàn
hồi của thành động mạch. Bình thường huyết áp tối đa từ 100 - 130mmHg, dưới
100mmHg là huyết áp thấp, trên 130mmHg là huyết áp cao. Huyết áp tối thiểu từ 65 85mmHg là trung bình, chỉ số về huyết áp là chỉ số tương đối ổn định, phụ thuộc vào
lứa tuổi, giới tính. Trong quá trình huấn luyện thể thao, thì huyết áp ít thay đổi.
1.3.1.4.

Hệ hô hấp:

Xác định khả năng tối đa của độ sâu hệ hô hấp, vì vậy nó là các chỉ số quan trọng
về khả năng hoạt động của bộ máy hô hấp. Dung tích sống phụ thuộc chung của phổi
và sức mạnh của các cơ hô hấp, vào lực cản của lồng ngực vào phổi khi chúng co giãn.
Dung tích sống của phổi bao gồm thể tích hô hấp, thể tích hít vào bổ sung và thể tích
dự trữ thở ra. Dung tích sống của phổi ở mỗi người rất khác nhau và phụ thuộc vào
kích thước cơ thể, giới tính và lứa tuổi. Trong quá trình trưởng thành của cơ thể có sự
thay đổi về độ dài của chu kỳ hô hấp, tỷ lệ thở ra hít vào và tần số hô hấp. Trung bình
tần số hô hấp là 16 – 22 lần/phút, không khí lưu thông khoảng 450 – 500 ml, thông khí
phổi tối đa khoảng 90 – 100 lít trong hoạt động, hấp thụ oxy tăng 15 – 16 lần so với
mức chuyển hóa cơ sở, dung tích sống tương đối là 80 ml/kg trọng lượng. Trong hoạt
động thể dục thể thao lượng thông khí phổi tăng dần lên phụ thuộc vào công suất lao
động. Hoạt động với công suất thấp, thông khí phổi tăng lên chủ yếu là tăng khí lưu
thông. Hoạt động với công suất tăng dần thì tần số hô hấp tăng song song với thông
khí phổi, khi lưu thông tăng lên gần tới hạn của sung tích sống. Như vậy để có lượng
khí lưu thông tăng cao, sự tham gia của các cơ hô hấp là yếu tố quan trọng.
1.4.

Đặc điểm tâm lý sinh viên lứa tuổi 18 – 22:
Lứa tuổi này cơ thể các em đã phát triển hoàn chỉnh các bộ phận, hình thành thế

giới quan, ý thức đạo đức hướng về tương lai, xác định đúng đắn nhu cầu sáng tạo,

mong ước cuộc sống tốt đẹp. Hứng thú đã phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng,
mang tính bền vững, phong phú và sâu sắc. Có thái độ tự giác, tích cực, năng động,
sẵn sàng khám phá những lĩnh vực mà mình yêu thích, xuất phát từ động cơ đúng đắn
trong cuộc sống. Tình cảm đã ổn định, biểu lộ yêu ghét rõ rang, tôn trọng, biết động


15
viên kịp thời và quan tâm đúng mực tới mọi người xung quanh, biết kính trên nhường
dưới. Trí nhớ phát triển hoàn thiện, biết ghi nhớ có hệ thống đảm bảo tính logic, tư duy
chặc chẽ hơn, suy nghĩ sâu sắc và lĩnh hội đầy đủ bản chất của vấn đề.
- Sự phát triển nhân cách: Phát triển và tồn tại như một thành viên trong xã hội
và noi gương những người trưởng thành làm động lực thúc đẩy bản thân phấn đấu hơn
nữa. Các e muốn thể hiện rõ rệt tính tự lập, muốn tách biệt khỏi sự quản lý của gia
đình, có xu hướng hướng ngoại, giao lưu thiết lập mối quan hệ bạn bè, tôn trọng tình
bạn cao cả. Thích xây dựng mối quan hệ thân thiết với người khác giới, thích quan hệ
gần gũi với người có học thức, người lớn tuổi, người có kinh nghiệm sống quý báu để
học hỏi, tăng vốn hiểu biết cho bản thân.
- Sự phát triển về trạng thái tình cảm: Lứa tuổi này các em giàu cảm xúc, nhạy
cảm với những vấn đề của bản thân, dễ bị kích động và đôi khi không hoàn toàn làm
chủ được bản thân mình, có thể sẵn sàng dùng bạo lực, nhưng cũng nhanh chóng lấy
lại bình tĩnh và luôn hướng tới sự hoàn thiện. Nhìn chung các em đã biết suy nghĩ và
định hướng cho tương lai, biết đúc rút kinh nghiệm từ những thất bại mắc phải, sống vị
tha, nhân ái và đoàn kết với bạn bè.
- Sự phát triển trí tuệ: Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là chú trọng đến hoạt
động trí tuệ , biết hệ thống hóa và trang bị vốn kiến thức cho bản thân làm hành trang
bước vào cuộc sống. Các em thích đọc sách, xem phim, tìm hiểu các thông tin khoa
học và các vấn đề đòi hỏi tư duy trìu tượng. Quan tâm sâu sắc đến các hoạt động xã
hội, tình hình kinh tế chính trị, xu hướng phát triển của đất nước trong tương lai. Lứa
tuổi này có sự suy nghĩ lựa chọn nghề nghiệp, có sở thích cho bản thân và năng khiếu
thẩm mỹ được nâng cao.


1.4.

Đặc điểm phát triển các tố chất thể lực lứa tuổi 18 -22:
Tố chất thể lực của con người là tổng hòa các chất lượng của cơ thể biểu hiện

trong từng điều kiện cụ thể của đời sống, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học và
hoạt động TDTT. Khả năng vận động là biểu hiện bên ngoài của các tố chất thể lực.
TDTT là phương tiện để nâng cao khả năng vận động, góp phần cải tạo thể chất con
người. [25]
Tố chất thể lực là một phần quan trọng của các nhân tố cấu thành thể chất của cơ
thể người.Trong hoạt động thể thao, tố chất thể lực là nội dung rất quan trọng trong
huấn luyện thể lực cho VĐV. Sự nâng cao thành tích thể thao không thể không dựa


16
vào sự phát triển cao các tố chất thể lực. Trong huấn luyện thể lực thì tố chất thể lực là
các loại năng lực biểu hiện khi vận động của VĐV. Ngoài các yếu tố tri thức, đạo đức,
ý trí, kỹ thuật, chiến thuật, thể lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất, quyết
định hiệu quả hoạt động thể chất của con người, trong đó có hoạt động TDTT. Rèn
luyện thể lực là một trong hai đặc điểm cơ bản, nổi bật của quá trình hoạt động GDTC.
Có năm tố chất thể lực cơ bản là: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo
( năng lực phối hợp vận động). Dựa trên cơ sở sinh lý thể dục thể thao và lý luận
phương pháp thể dục thể thao và tố chất thể lực đi sâu phân tích đặc điểm từng tố chất
thể lực.

1.4.1. Tố chất sức nhanh
* Khái niệm: Sức nhanh là một tố chất quan trọng, là năng lực cơ thể vận động
với tốc độ nhanh, là khả năng thực hiện động tác trong một khoảng thời gian ngắn
nhất. Nó là một tổ hợp thuộc tính chức năng của con người. Nó quy định đặc tính tốc

độ động tác, tần số động tác cũng như thời gian phản ứng vận động.
* Biểu hiện sức nhanh: Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập
nhau, đặc biệt là thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan với tốc độ
động tác. Những hình ảnh trên là thể hiện các năng lực tốc độ khác nhau.
Các hình thức phức tạp của sức nhanh là thời gian thực hiện các hoạt động thể
thao phức tạp khác nhau, như chạy 100m, tốc độ đấm trong quyền anh, tốc độ dẫn
bóng trong bóng đá. Các hình thức sức nhanh đơn giản liên quan chặt chẽ với kết quả
sức nhanh phức tạp.[27]
Sức nhanh là tố chất tổng hợp của ba yếu tố cấu thành là: Tốc độ phản ứng, tốc
độ động tác, tần số động tác. Yếu tố quyết định tốc độ của tất cả các hình thức sức
nhanh là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của quá
trình thần kinh thể hiện ở khả năng biến đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế
trong các trung tâm thần kinh. [15] Sự thay đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế
làm cho noron vận động có khả năng phát xung động với tần số cao làm cho đơn vị
vận động thả lỏng nhanh, đó là yếu tố tăng cường tốc độ và tần số động tác. Tốc độ co
cơ trước tiên phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và chậm trong bó cơ. Các bó cơ có tỷ lệ
sợi cơ nhanh, đặc biệt sợi cơ nhóm II-A có khả năng tốc độ cao. Tốc độ co cơ còn chịu
ảnh hưởng của hàm lượng ATP (Adenozin Triphophat) và CP (Creatin Photphat). Đây


17
là nguồn năng lượng có sẵn trong cơ giúp cho quá trình co cơ được thực hiện nhanh.
Tố chất nhanh mang tính chất di truyền, phụ thuộc vào quá trình hóa học trong cơ, vào
tần số động tác và quá trình tâm lý.
Tố chất nhanh phát triển tương đối sớm từ 9 đến 13 tuổi, nếu không được tập
luyện đầy đủ thì đến giai đoạn 16 đến 18 tuổi sẽ khó phát triển nâng cao. Cho nên
trong công tác huấn luyện, giảng dạy để phát triển sức nhanh phải hết sức chú ý đến
đặc điểm của lứa tuổi, có như thế thì kết quả huấn luyện mới đem lại như mong muốn.
[25]
* Phương pháp phát triển sức nhanh:

Phương pháp giáo dục sức nhanh phản ứng vận động đơn giản: Ta có thể hiểu
sưc nhanh của phản xạ vận động đơn giản là khả năng phản ứng của cơ thể trước một
tín hiệu đã biết trước, xuất hiện một cách bất ngờ. Sức nhanh phản ứng vận động có ý
nghĩa thực dụng rất lớn trong cuộc sống. Ta thường gặp những trường hợp đòi hỏi tín
hiệu nào đó trong khoảng thời gian ngắn nhất, tập luyện tốc độ có tác dụng nâng cao
sức nhanh phản ứng vận động đơn giản. Tập luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn
giản theo phương pháp cảm giác vận động được tiến hành theo 3 giai đoạn. Giai đoạn
1 người tập thực hiện động tác trong điều kiện phản ứng nhanh nhất đối với tín hiệu.
Giai đoạn 2 phản ứng và các động tác sau đó cũng được thực hiện với tốc độ lớn nhất.
Giai đoạn 3 người tập thực hiện với tốc độ định trước.
Phương pháp giáo dục sức nhanh phản ứng vận động phức tạp: Sức nhanh của
phản xạ vận động với vật di chuyển: Ta có thể hiểu là khả năng phản ứng với các vật
thể di chuyển trong không gian được gia tăng thông qua tăng tốc độ với vật thể, tăng
tính bất ngờ và rút ngắn cự ly.
Sức nhanh của phản xạ lựa chọn tình huống: là khả năng lựa chọn nhanh những
phương án hợp lý để đáp lại một tình huống trong hoạt động TDTT. Trong các môn
đối kháng cá nhân tính phức tạp của phản ứng phụ thuộc vào hành vi đối phương.
Trong giáo dục phản ứng lựa chọn cần tuân thủ theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức
tạp, các tình huống theo hướng tăng dần.
1.4.2. Tố chất sức mạnh
*Khái niệm: Sức mạnh là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề
kháng lại nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp. Trong bất cứ hoạt động nào của con người
đều có sự tham gia của hoạt động cơ bắp. Cơ bắp có thể sinh ra lực trong trường hợp


18
như sau: Không thay đổi độ dài của cơ ( chế độ tĩnh). Giảm độ dài cơ ( chế độ khắc
phục), tăng độ dài của cơ ( chế độ nhượng bộ). Trong các chế độ hoạt động như vậy
của cơ bắp sản sinh ra các lực cơ học có trị số khác nhau, cho nên có thể coi chế độ
hoạt động của cơ là cơ sở để phân biệt các loại sức mạnh.

Bằng thực nghiệm và phân tích khoa học người ta đã đi đến một số kết luận có ý
nghĩa trong việc phân loại sức mạnh. Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm hầu
như không khác biệt với các trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường. Trong chế
độ nhượng bộ khả năng sinh lực của cơ là lớn nhất, đôi khi gấp hai lần lực phát ra,
trong điều kiện tĩnh. Trong các động tác nhanh trị số lực giảm dần theo chiều tăng tốc
độ. Khả năng sinh lực trong các động tác nhanh tuyệt đối ( tốc độ) và khả năng sinh
lực trong các động tác tĩnh tối đa ( sức mạnh tĩnh) không có tương quan nhau.
Trên cơ sở đó, sức mạnh được phân chia thành sức mạnh đơn thuần ( khả năng
sinh lực trong các động tác chậm và tĩnh), sức mạnh tốc độ ( khả năng sinh lực trong
các động tác nhanh). Sức mạnh – tốc độ còn được chia nhỏ tùy theo chế độ vận động
thành sức mạnh động lực và sức mạnh hoãn xung.
Trong hoạt động nói chung và hoạt động thể dục thể thao nói riêng sức mạnh
luôn có quan hệ với các tố chất thể lực khác, nhất là sức nhanh và sức bền. Do đó sức
mạnh được phân ra thành ba hình thức: Năng lực sức mạnh tối đa, năng lực sức mạnh
nhanh ( sức mạnh tốc độ), năng lực sức mạnh bền. Sức mạnh cũng là điều kiện rất
quan trọng để nâng cao thành tích thể thao. Tuổi sinh viên từ 18 đến 25 là tuổi rất
thuận lợi cho cơ bắp phát triển sức mạnh[25]. Vì vậy trong quá trình tập luyện, rèn
luyện tố chất sức mạnh cần chú ý sao cho phù hợp nhất để phát triển sức mạnh một
cách tốt nhất.
* Phương pháp phát triển sức mạnh: Người ta sử dụng các bài tập sức mạnh, là
các động tác với lực đối kháng. Các bài tập với lực đối kháng bên ngoài, các bài tập
với lực đối kháng người cùng tập, các bài tập với lực đàn hồi, và các bài tập ngoài trời.
Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể cộng thêm với trọng lượng của vật thể bên
ngoài. Sử dụng các bài tập với vật nặng có rất nhiều tiện lợi, ta có thể tác động tới hầu
hết các nhóm cơ khi dùng bài tập này. Các bài tập với lực đối kháng bên ngoài rất dễ
định lượng, song cũng có một số điểm bất tiện khó di chuyển. Vấn đề cơ bản của
phương pháp rèn luyện sức mạnh là định lượng trọng lượng vật thể tập luyện. Muốn
phát triển sức mạnh thì nhất thiết phải tạo được sự căng cơ tối đa. Nếu không thường



19
xuyên tập luyện với mức căng cơ tương đối cao thì sức mạnh sẽ không được phát triển.
Tập luyện với mức căng cơ quá nhỏ sẽ làm giảm sút sức mạnh. Đối với những người
không phải là VĐV, sự giảm sút sức mạnh xảy ra khi mức hoạt động của cơ bắp trong
tập luyện nhỏ hơn sức mạnh tối đa 20%. Mức căng cơ càng nhỏ thì quá trình giảm sút
sức mạnh và hiện tượng teo cơ diễn ra càng nhanh. Ở VĐV đã quen tập luyện với mức
căng cơ tương đối lớn thì sức mạnh có thể bắt đầu giảm ngay khi sử dụng trọng lượng
tập luyện tương đối lớn nhưng nhẹ hơn so với mức quen thuộc. [25]
1.4.3. Tố chất sức bền
* Khái niệm: Sức bền là khả năng khắc phục sự mệt mỏi nhằm hoạt động trong
thời gian dài với cường độ nhất định và có hiệu quả. Sức bền đảm bảo cho người tập
luyện đạt được một cường độ tốt nhất ( tốc độ, dung lực, nhịp độ thi đấu…) Trong thời
gian vận động kéo dài. Sức bền còn đảm chất lượng động tác cao và giải quyết hoàn
hảo các động tác phức tạp và vượt qua khối lượng vận động lớn trong tập luyện [25],
[27].
Trong sinh lý thể dục thể thao, sức bền thường đặc trưng cho khả năng thực hiện
các hoạt động thể lực kéo dài từ hai ba phút trở lên, với sự tham gia của một khối
lượng cơ bắp lớn, nhờ sự hấp thụ oxy để cung cấp năng lượng cho hoạt động bằng con
đường ưa khí. Sức bền được chia thành nhiều loại [16], [25], [27].
Sức bền chung: Biểu thị khả năng con người trong các hoạt động kéo dài từ vài
chục phút đến hàng giờ, với cường độ thấp, có sự tham gia phần lớn của sợi cơ.
Sức bền chuyên môn: Là năng lực duy trì khả năng vận động cao trong những
loại hình bài tập nhất định. Sức bền trong từng loại bài tập có tính chuyên biệt phụ
thuộc vào các nhân tố khác nhau, đặc biệt phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện kỹ thuật.
Sức bền tốc độ: Là khả năng duy trì nhịp vận động cao để chuyển động nhanh
nhất trong một thời gian nhất định.
Sức bền mạnh: Là khả năng duy trì hoạt động với một trọng lượng mang vác lớn
trong thời gian dài.
Nói chung sức bền là nhân tố tất yếu của thành phần thể hiện nên các mối quan
hệ chặt chẽ với các tố chất thể lực khác nhau như sức mạnh, sức nhanh . Tuổi sinh viên

từ 18 đến 25 khi tập luyện sức bền đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn không những bằng cơ bắp
mà còn bằng ý trí khắc phục khó khăn để vượt qua gian khổ. Ở tuổi này có thuận lợi
trong nhận thức và ý thức tự giác tập luyện cao, hiểu rõ tác dụng, lợi ích của việc tập


20
luyện thể dục thể thao. Cho nên giáo viên cần lưu ý khi giáo dục nhận thức cho sinh
viên hiểu rõ được chức năng, tác dụng của mỗi bài tập khi tập luyện.
Sức bền cần thiết cho con người trong cuộc sống lao động và học tập hàng ngày.
Đối với lĩnh vực thể dục thể thao nó là cơ sở thiết yếu để giúp cho vận động viên trong
hoạt động chuyên môn của mình để gặp hái thành tích thể thao cao, đồng thời đó cũng
là cơ sở để giúp cho sinh viên bền bỉ, dẻo dai trong việc học tập và rèn luyện chuyên
môn nghề nghiệp của mình.
* Phương pháp phát triển sức bền: Phương pháp phát triển sức bền chuyên môn
có 2 đặc điểm chung nếu sức bền chung được phát triển chủ yếu thông qua các bài tập
có chu kỳ, thì trong phát triển sức bền chuyên môn người ta sử dụng bài tập chuyên
môn hóa. Các bài tập để phát triển sức bền chuyên môn được thực hiện với cường độ
gần với cường độ lúc thi đấu, nếu thấp hơn sẽ không có hiệu quả.
Phát triển sức bền chuyên môn trong các môn có tính chu kỳ thời gian hoạt động
dưới 1 phút nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao khả năng yếm khí. Đối với các cự ly
chuyên môn hóa trong vùng cường độ lớn và trung bình thì phải nâng cao khả năng
yếm khí, ưa khí, nâng cao giới hạn về tâm lý – sinh lý để duy trì bền vững của cơ thể
đối với những biến đổi nội môi bất lợi. Đối với các môn có cường độ thấp thời gian dài
phải nâng cao khả năng ưa khí.
Phát triển sức bền trong các bài tập có tính chất sức mạnh: Đặc trưng bằng số lần
lặp lại bài tập với hiệu quả không đổi. Trong thể thao không bao giờ người ta cân bằng
mọi người theo sức mạnh của họ nên thực tế ta chỉ cần chú ý đến sức bền tuyệt đối của
sức mạnh.
1.4.4. Tố chất mềm dẻo
* Khái niệm: Mềm dẻo là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn. Biên độ

tối đa của động tác là thước đo của năng lực mềm dẻo. Thông thường, độ linh hoạt của
các khớp càng lớn thì khả năng mềm dẻo của cơ thể càng lớn [31].
Mềm dẻo là tiền đề quan trọng để đạt được yêu cầu về số lượng và chất Đặc biệt
là lứa tuổi 11 đến 14, trước khi hệ vận động phát triển chưa hoàn chỉnh. Có thể tập
mềm dẻo khi tập thể dục sáng, trong giờ khởi động. Các động tác làm tăng độ linh hoạt
của các khớp có tác dụng tích cực để chuẩn bị bước vào phần trọng động, đồng thời
còn ngăn ngừa được chấn thương trong tạp luyện. Tuổi trưởng thành tập luyện mềm


21
dẻo rất khó khăn vì xương, cơ, khớp. dây chằng và hệ thần kinh đã phát triển hoàn
chỉnh.
Vì vậy, khi tiến hành giáo dục tố chất mềm dẻo cần chú ý đến biên độ động tác,
chú ý đến đặc điểm lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp để phong ngừa chấn thương cho
người tập. Tuy nhiên nếu năng lực mềm dẻo không được phát triển đầy đủ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong quá trình phát triển năng lực thể thao.
* Phân loại: Năng lực mềm dẻo được phân làm hai loại là mềm dẻo tích cực và
mềm dẻo thụ động. Độ mềm dẻo tích cực là khả năng thực hiện động tác với biên độ
lớn ở các khớp nhờ sự nổ lực của cơ bắp. Độ mềm dẻo thụ động là năng lực thực hiện
động tác với biên độ lớn ở các khớp nhờ tác động của ngoại lực như: Trọng lượng của
cơ thể, lực ấn ép của GV hoặc bạn tập...
Năng lực mềm dẻo phụ thuộc vào đàn tính của cơ thể và dây chằng. Tính chất
đàn hồi cao của bộ máy vận động và phát triển chưa ổn định của hệ thống xương, khớp
trong lứa tuổi thiếu niên là điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lực mềm dẻo. Do
vậy ở lứa tuổi thiếu niên cần chú trọng phát triển năng lực mềm dẻo.
* Phương pháp phát triển năng lực mềm dẻo: Phương pháp chính để phát triển
năng lực mềm dẻo là kéo giãn cơ bắp và dây chằng.
Kéo giãn trong thời gian dài: Duy trì sự kéo giãn các nhóm cơ và dây chằng
trong nhiều dây tới khi có cảm giác đau gần tới giới hạn chịu đựng. Thông thường mỗi
bài tập kéo giãn khoảng 10–20 giây và lặp lại bài tập đó 3- 4 lần. Tăng sự đàn hồi khi

kéo giãn tới khi đạt mức tối đa bằng các động tác lăng đơn giản, đè ép theo dạng đàn
hồi cho tới khi các nhóm cơ bị kéo giãn đạt được biên độ lớn nhất. Kết hợp các động
tác kéo giãn bằng đá lăng với việc dừng lại ở vị trí cao nhất của đá lăng. Ví dụ: Lăng
chân sang bên độ 6 – 8 lần, sau đó dừng ở vị trí cao nhất 3 – 5 giây. Lập lại bài tập đó
5 – 6 lần. [25]
1.4.5. Tố chất khéo léo (năng lực phối hợp vận động)
*Khái niệm: Khéo léo là khả năng thực hiện động tác phối hợp phức tạp và khả
năng hình thành những động tác mới phù hợp với yêu cầu vận động. Về bản chất, khéo
léo là khả năng hình thành những đường liên hệ tạm thời đảm bảo cho việc thực hiện
những động tác vận động phức tạp. Vì vậy, nó có liên quan tới việc hình thành kỹ
năng vận động.


22
Năng lực phối hợp vận động là một phức hợp có tiền đề của vận động viên ( cần
thiết ít hoặc nhiều) để thực hiện thành công một hoạt động thể thao nhất định. Năng
lực này được xác định trước tiên là khả năng điều khiển động tác (xử lý thông tin) và
được hình thành phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận động có quan hệ
chặt chẽ với các phẩm chất tâm lý và các năng lực khác nhau như: sức mạnh, sức
nhanh và sức bền [25].
Năng lực phối hợp vận động còn thể hiện ở mức độ tiếp thu nhanh chóng có chất
lượng, cũng như việc hoàn thiện, cũng cố và vận dụng các kỹ thuật thể thao. Tuy
nhiên, giữa năng lực phối hợp vận động và kỹ xảo thể thao có điểm khác nhau cơ bản.
Kỹ xảo thể thao chỉ nhằm giải quyết một nhiệm vụ cụ thể, còn năng lực phối hợp vận
động là tiền đề cho rất nhiều hoạt động vận động khác nhau.
Khéo léo thường được coi là tố chất vận động loại hai, phụ thuộc vào mức độ
phát triển của các tố chất khác nhau như: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Mức độ phát
triển khéo léo liên quan chặt chẽ với trạng thái chức năng của hệ thần kinh trung ương.
Tập luyện phát triển sự khéo léo lâu dài làm tăng độ linh hoạt của các quá trình thần
kinh, làm cho cơ hưng phấn và thả lỏng nhanh hơn. Tập luyện các bài tập chuyên môn

có thể làm tăng sự phối hợp hoạt động giữa các vùng não khác nhau, do đó hoàn thiện
sự phối hợp với các nhóm cơ hưởng ứng cũng như cơ đối kháng. [16], [25], [27].
* Phương pháp phát triển khả năng phối hợp vận động: Phương pháp chính là
tập luyện, phương tiện chính là các bài tập TDTT thể lực. Các bài tập được sử dụng
làm phương tiện phát triển khả năng phối hợp vận động cần thực hiện chính xác. Bài
tập phải đa dạng hóa việc thực hiện động tác, thường xuyên đổi điền kiện bên ngoài
khi thực hiện động tác, phối hợp các kỹ sảo kỹ thuật với nhau. Thực hiện các động tác
với yêu cầu thời gian đặt ra, thay đổi việc thu thập thông tin. Các phương pháp nhằm
phát triển khả năng phối hợp vận động rất phong phú, có thể phối hợp chúng với nhau
hay thực hiện một cách có trọng điểm từng phương pháp. Việc lựa chọn và sử dụng
cần căn cứ vào đặc điểm của từng năng lực cần phát triển. Cần thường xuyên nâng cao
mức độ khó khăn về phối hợp vận động của từng bài tập, vì chỉ nâng cao kích thích đối
với cơ thể mới tạo được một trình độ thích ứng cao hơn.
1.5.

Một số công trình nghiên cứu về giáo dục thể chất có liên quan.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học chứng minh giáo dục thể chất góp

phần cải thiện và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường các cấp giúp tăng


23
cường sức khỏe cho học sinh – sinh viên. Giáo dục thể chất là nhân tố hết sức quan
trọng có ảnh hưởng đến khả năng học tập, sáng tạo và phát triển năng khiếu. Đồng thời
là một mặt của giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm tạo ra lớp người có năng lực,
phẩm chất, đạo đức, có sức khỏe…
Một số đề tài nghiên cứu khoa học về đánh giá thực trạng thể lực , về công tác
giáo dục thể chất trong học sinh – sinh viên như:
- Nguyễn Thị Việt Hương(1999), “ Tìm hiểu năng lực thể chất của sinh viên nam
– nữ khóa 1997 trường Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM”.Tác giả đã sử dụng các

test thể lực sau: Chạy 30m xpc (giây), lực bóp thuận (kg), đứng dẻo gập thân (cm),
chạy lườn vòng 30m (giây), chạy 1500m (nam), 800m (nữ). Qua nghiên cứu tác giả
kết luận đánh giá chung về hình thái thể lực của sinh viên nam - nữ khóa 1997 trường
Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM có sự phát triển đáng kể so với những công trình
nghiên cứu trước đây của Hoàng Công Dân (1989 – 1992).
- Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Nguyễn Trọng Hải (2000), “ Đánh giá sự phát triển
thể chất của sinh viên thuộc các ngành nghề khác nhau”. Ở các trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên, Đại học Sư phạm Đà Nẵng, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học
Nông nghiệp I, Đại học Công nghiệp Thái Nguyên, Đại học kỹ thuật Đà Nẵng và khối
kỹ thuật Đại học Cần Thơ. Tác giả đã sử dụng các test thể lực sau: Chạy 100m (giây),
bật xa tại chỗ (cm), chạy 1500m (nam), 800m (nữ), nằm sấp chống đẩy (30 giây/lần),
di chuyển nhặt 10 quả bóng bàn (giây).
- Lê Văn Lẫm, Vũ Đức Thu, Nguyễn Trọng Hải, Vũ Bích Huệ (2000), “ Đánh
giá thực trạng phát triển thể chất của học sinh - sinh viên trước thềm thế kỷ XXI”. Đã
đánh giá một cách tổng quan và tương đối chính xác thực trạng phát triển thể lực của
sinh viên cả nước. Công trình nghiên cứu cho rằng các chỉ số thể lực của học sinh –
sinh viên của các trường đều có xu hướng tăng. Tuy nhiên trong số này có vài chỉ tiêu
đánh giá khả năng vận động sức bền, sức nhanh có dấu hiệu suy giảm ở năm cuối của
quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên các trường.
- Trịnh Quốc Trung (2005), “Nghiên cứu xây dựng một số giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục thể chất trường Đại Học Mở Bán Công TP. HCM giai
đoạn 2003 – 2005”. Đã chỉ ra thực trạng về hình thái và thể lực của sinh viên năm thứ
nhất. Bên cạnh đó tác giả đã thực hiện cải tiến về nội dung và quy trình lên lớp có kết
hợp ngoại khóa tại trường bước đầu đạt được kết quả khả quan.


×