Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Xây dựng thang điểm đánh giá thể lực nam sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.63 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
---------------------------------------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Tên đề tài:

XÂY DỰNG THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ THỂ LỰC
NAM SINH VIÊN KHÓA 39 HỆ KHÔNG CHUYÊN
THỂ DỤC THỂ THAO HỌC MÔN CẦU LÔNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
NĂM HỌC 2013 - 2014
Cán bộ hướng dẫn:
ThS. NGUYỄN VĂN THÁI

Sinh viên thực hiện
HUỲNH GIANG TỬ
Mã số SV: 9117026
Lớp: TD11X6A1

Cần Thơ 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
---------------------------------------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Tên đề tài:

XÂY DỰNG THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ THỂ LỰC


NAM SINH VIÊN KHÓA 39 HỆ KHÔNG CHUYÊN
THỂ DỤC THỂ THAO HỌC MÔN CẦU LÔNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
NĂM HỌC 2013 - 2014
Cán bộ hướng dẫn:
ThS. NGUYỄN VĂN THÁI

Sinh viên thực hiện
HUỲNH GIANG TỬ
Mã số SV: 9117026
Lớp: TD11X6A1

Cán bộ phản biện
Học hàm, học vị và tên cán bộ phản biện

Luận được bảo vệ tại: Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp …………………..
Bộ môn Giáo dục thể chất, Trường Đại học Cần Thơ vào ngày tháng năm 2015
Mã số đề tài:
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Bộ môn Giáo dục thể chất, Trường Đại học Cần Thơ

Website:


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác.


Tác giả

HUỲNH GIANG TỬ


2

LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng biết ơn chân thành nhất, tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại
Học Cần Thơ đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề
tài.
Xin cảm ơn quý thầy, cô giảng dạy đã dành nhiều thời gian, tâm huyết để truyền
thụ cho tôi những kiến thức quý báu về công tác giáo dục thể chất và huấn luyện thể
thao, làm tiền đề cho việc nghiên cứu luận văn khoa học.
Xin cảm ơn ban giám hiệu trường Đại Học Cần Thơ, cùng tập thể cán bộ, giáo
viên và sinh viên của trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu thực hiện luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thầy hướng dẫn thạc sĩ.
Nguyễn Văn thái đã tận tình động viên và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện nghiên cứu luận văn đại học.
Xin cảm ơn quý Thầy, Cô, bạn bè và gia đình đã giúp đỡ, động viên và hỗ trợ tôi
để hoàn thành luận văn đại học.

Tác giả

HUỲNH GIANG TỬ


3


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

7

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

10

1.1 Quan điểm của Đảng và nhà nước về công tác Giáo dục thể chất trong

10

trường học.
1.2 Một số khái niệm liên quan.

18

1. 3 Đặc điểm tâm – sinh lý sinh viên.

20

1.4 Đặc điểm phát triển các tố chất thể lực lứa tuổi sinh viên

25

1.5 Một số công trình nghiên cứu về giáo dục thể chất có liên quan


32

Chương 2: PHƯƠNG PHÁP- ĐỐI TƯỢNG VÀ TỔ CHỨC

35

NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp nghiên cứu

35

2.2 Đối tượng và tổ chức nghiên cứu

40

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

43

3.1 Thực trạng thể lực của nam sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể

43

dục thể thao học môn cầu lông trường Đại Học Cần Thơ học năm
học 2013- 2014.
3.2 Xây dựng thang điểm

45

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


50

TÀI LIỆU THAM KHẢO

51

PHỤ LỤC


4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Thuật ngữ Tiếng Việt

Bộ GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GDTC

Giáo dục thể chất

GV

Giảng viên

SV


Sinh viên

TDTT

Thể dục thể thao

TT

Thể thao

TN

Thực nghiệm

TL

Tập luyện


5

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU ĐO LƯỜNG
Cm

Cen- ti- mét

M

Mét




Phút

S

Giây


6

DANH MỤC BẢNG
SỐ

TÊN BẢNG

Trang

Thực trạng thể lực của nam sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục
3.1

thể thao học môn cầu lông trường Đại học Cần Thơ học năm học 2013-

42

2014 (n=50)
So sánh thực trạng thể lực nam sinh viên Đại học Cần Thơ khóa 39 học
Cầu lông với nam sinh viên 19 tuổi theo tiêu chuẩn phân loại của Bộ
3.2


GD&ĐT số 53/2008/QĐ – BGD&ĐT, năm 2008 của Bộ trưởng Bộ giáo

43

dục và Đào tạo
3.3

Thang điểm lực bóp thuận tay

44

3.4

Thang điểm nằm ngửa gập bụng

45

3.5

Thang điểm bật xa tai chỗ

45

3.6

Thang điểm chạy 30m xuất phát cao

46


3.7

Thang điểm chạy con thoi 4x10m

46

3.8

Thang điểm chạy tùy sức 5 phút

47

Kết quả xây dựng thang điểm đánh giá thể lực nam sinh viên khóa 39 hệ
3.9

không chuyên thể dục thể thao học môn cầu lông trường Đại Học Cần
Thơ năm học 2013- 2014.

48


7

LỜI MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế - văn hóa, xã hội của
mỗi quốc gia. Phát triển TDTT là góp phần chăm lo sức khỏe toàn dân, là một việc làm
cần thiết và quan trọng gắn liền với xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây dựng đời sống mới thành công.
Mỗi một người dân yếu ớt là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân khỏe
mạnh tức là làm cho cả nước mạnh khỏe”, có luyện tập thể dục thể thao thường xuyên thì

mọi người mới có đủ sức khỏe để học tập lao động và thực hiện các hoạt động khác nhau.
Hiện nay Việt Nam đang trên đà phát triển hòa nhập vào nền kinh tế thế
giới là một thành tựu có ý nghĩa hết sức to lớn đối với Đảng và nhân dân ta. Để có được
thành tựu này, ngoài những đóng góp trong các ngành khoa học về lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại, dịch vụ… thì ngành Thể Dục Thể Thao (TDTT) cũng có
những đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của nước nhà.
Để hòa nhập vào sự phát triển TDTT và xác định vị trí của nước nhà đối với khu
vực nói riêng và Thế Giới nói chung Bộ văn hóa Thể Thao và Du lịch đã đưa ra chỉ thị số
48/CT-BVHTTDL [1] về việc tổ chức triển khai thực hiện “Chiến lược phát triển thể
dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020”. Đây là chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày 03/2/2010.
Chiến lược TDTT Việt Nam xác định rõ: “Chăm sóc sức khoẻ, tăng cường thể chất
của nhân dân được coi là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính phủ. Nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi nhân dân ta phải có sức khoẻ dồi dào, thể chất cường
tráng... Vận động TDTT là một biện pháp hiệu quả để tăng cường lực lượng sản xuất và
lực lượng quốc phòng của nước nhà, đó chính là quan điểm của Đảng ta về phát triển sự
nghiệp TDTT Việt Nam (Chỉ thị số 106-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam về công tác TDTT)”[2].


8

Thực hiện chỉ thị đưa ra các phong trào thể thao ngày được quan tâm và phát triển
rộng khắp với nhiều loại hình và qui mô khác nhau từ cơ sở vật chất đến nâng cao thành
tích ở các môn thể thao như: Điền kinh, bóng chuyền, võ thuật,… đặc biệt là cầu lông.
Cầu lông là môn thể thao có tính quần chúng và nghệ thuật cao, được phát triển ở
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là vùng Đông Nam Á. Môn cầu lông đã được Ủy ban
Olympic quốc tế đưa vào thi đấu trong chương trình thi đấu của Đại hội Olympic tổ chức
tại Baxelona (Tây Ban Nha) năm 1992. Cầu lông đang được phổ biến trong quần chúng
như là một trong những phương tiện để giáo dục, rèn luyện thể chất, sức khỏe và phát

triển trình độ văn hóa thể thao cho mọi người.
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo không ngừng nghiên cứu cải
tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy thể dục trong trường học
các cấp, trong đó cầu lông là một trong những nội dung không thể thiếu của hầu hết
chương trình giảng dạy thể dục ở các trường phổ thông cũng như bậc đại học, cao đẳng
và trung học chuyên nghiệp.
Chính vì thế cầu lông được coi là môn thể thao phát triển, nằm trong mục tiêu
phát triển thể thao thành tích cao của ngành thể dục thể thao nước ta. Việc giành thứ
hạng cao của các vận động viên cầu lông Việt Nam tại các giải thi đấu lớn của khu vực
đã tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ của phong trào tập luyện và thi đấu cầu lông trong
cả nước. Cùng với sự có mặt vận động viên Nguyễn Tiến Minh tại Olympic 2008 Trung
Quốc đã cho thấy sự vươn lên mạnh mẽ của môn cầu lông Việt Nam trên đấu Trường
quốc tế.
Để tiếp tục duy trì và đạt được thứ hạng cao ở khu vực và trên thế giới thì công
việc quan trọng hàng đầu của chúng ta là: đổi mới quy trình đào tạo vận động viên một
cách khoa học, bám sát xu thế phát triển cầu lông hiện đại, đề ra những nội dung và
phương pháp huấn luyện hiện đại.
Cầu lông là môn thể thao thi đấu đối kháng với lối đánh biến hóa, thực dụng, hiệu
quả đòi hỏi vận động viên phải có khả năng thích ứng cao với lượng vận động lớn và
năng lực phối hợp vận động cao trong thời gian dài. Trong thi đấu cầu lông đỉnh cao
ngày nay các trận đấu trở nên căng thẳng, quyết liệt, thì vận động viên phải nỗ lực ổn
định tâm lý, tự tin, hưng phấn trong hiệp đấu, phát huy tối đa sở trường của bản thân, cố


9

gắng phòng thủ chặt chẽ, hạn chế điểm mạnh của đối phương. Muốn thực hiện được
những điều trên thì việc huấn luyện cho vận động viên hoàn thiện về kỹ thuật chuyên
môn, khả năng duy trì hoạt động với thời gian thi đấu kéo dài là cường độ hoạt động cao
và liên tục đặc biệt là thể lực để có thể duy trì hoạt động thi đấu lâu dài qua mỗi trận đấu

để chiến thắng đối phương đó là việc làm cần thiết.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, phát triển thể lực cho vận động viên cầu lông
nói chung và cho SV chuyên sâu Trường Đại học Cần Thơ nói riêng là một điều cấp thiết
không thể thiếu được. Trong quá trình chuẩn bị thể lực cho SV học cầu lông, các giáo
viên cũng đã tiến hành sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy, huấn luyện cũng như các
bài tập nhằm phát thể lực cho SV. Tuy nhiên, hệ thống các bài tập được sử dụng lại chưa
đồng bộ, chưa có hệ thống và được sắp xếp một cách khoa học. Chính vì vậy, hiệu quả
phát triển thể lực chưa cao, chưa đáp ứng hoạt động đặc thù của môn cầu lông.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết trên, là một sinh viên ngành giáo dục thể chất, tôi
muốn cống hiến công sức nhỏ để nghiên cứu tố chất thể lực và nâng cao chất lượng giảng
dạy của bộ môn nên tôi mạnh dạn chọn đề tài“Xây dựng thang điểm đánh giá thể lực
nam sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục thể thao học môn cầu lông trường
Đại Học Cần Thơ năm học 2013- 2014”.
Mục đích nghiên cứu
Xây dựng thang điểm đánh thể lực nam sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục
thể thao học môn cầu lông trường Đại học Cần Thơ học năm học 2013- 2014.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ 1: Thực trạng thể lực của nam sinh viên khóa 39 hệ không chuyên thể dục
thể thao học môn cầu lông trường Đại học Cần Thơ học năm học 2013- 2014.
Nhiệm vụ 2: Xây dựng thang điểm đánh giá thể lực cho nam sinh viên khóa 39 hệ
không chuyên thể dục thể thao học môn cầu lông Đại học Cần Thơ học năm học 20132014.


10

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Quan điểm về Giáo dục thể chất và sự ảnh hưởng của thể lực đến sự phát
triển của con người
1.1.1 Quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục và rèn luyện sức khỏe

Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc, Người đã cống hiến tài năng và sức
lực của mình để giành lại nền độc lập dân tộc, đánh đuổi các đế quốc xâm lược và định
hướng xây dựng nền xã hội mới. Hồ Chí Minh không chỉ khởi xướng sự nghiệp dân giàu
nước mạnh mà Người còn khởi xướng nền thể dục thể thao nước nhà.
Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
dân tộc Việt Nam nói chung và ngành TDTT của nước nhà nói riêng. Bác đã nhìn xa
trông rộng về sự nghiệp TDTT nước nhà, đó cũng là tiền đề cho phát triển nhân cách, thể
lực cho nhân dân, đặc biệt là thanh - thiếu niên, lực lượng vũ trang,…
Sự nghiệp TDTT là một mặt, một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp chung của
cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Công tác thể dục thể thao
cũng là một trong những công tác cách mạng khác”. [3]
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc
cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đất nước
vừa giành được độc lập dân tộc đã gặp phải biết bao khó khăn, trở lực bởi thù trong giặc
ngoài, cộng với nền kinh tế do chế độ cũ để lại rất nghèo nàn lạc hậu, nhân dân nhiều nơi
đói rét, dịch bệnh hoành hành, sức khỏe giảm sút nghiêm trọng, thất học và mù chữ nặng
nề. Trong hoàn cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đề ra nhiều chủ trương
hết sức đúng đắn, kịp thời nhằm đẩy lùi những khó khăn trở lực và Người kêu gọi đồng
bào cả nước chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Đồng thời do nhận thức sâu sắc
tầm quan trọng của vai trò sức khỏe con người, sức khỏe nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm ký Sắc lệnh thành lập ngành Y tế và ngành TDTT của nước Việt Nam mới.
Sự quan tâm to lớn đó của chủ tịch Hồ Chí Minh được gói gọn trong lời kêu gọi
nhân dân ta giữ gìn sức khỏe ngày 27/03/1946: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà,
gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công.” [3]. Người đã đưa ra
nhận xét của mình rằng “mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho đất nước yếu ớt đi một


11

phần, mỗi người dân mạnh khỏe tức góp phần cho cả nước mạnh khỏe” vì vậy mỗi người

dân muốn khỏe mạnh thì phải “rèn luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của
mỗi người dân yêu nước”. [3]
Ngày 30-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ liên hiệp lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh số 14, thành lập Nhà Thể dục Trung ương
trong Bộ Thanh Niên. Với mục tiêu “xét vấn đề thể dục rất cần thiết để tăng bổ sức khoẻ
quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam”. [4]
Vào ngày 31 tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14, thành
lập Nhà Thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành TDTT ngày nay.
Ngành TDTT mới ra đời có nhiệm vụ là liên lạc mật thiết với Bộ Y tế và Bộ Giáo dục để
nghiên cứu phương pháp và thực hành thể dục trong toàn quốc nhằm tăng bổ sức khỏe
quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam. Để tăng cường và mở rộng các hoạt động TDTT
và trực tiếp chỉ đạo công tác GDTC cho thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp Sắc
lệnh số 33 ngày 27-3-1946 thành lập Nhà Thanh Niên và Thể dục thuộc Bộ Quốc gia
Giáo dục. [4]
Đối với nước ta từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Bác Hồ rất quan
tâm và chăm lo tới việc giữ gìn và rèn luyện sức khỏe cho nhân dân nhằm tiến hành công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Người đã từng nói: “Khuyến khích và giúp đỡ nền thể
dục quốc dân, làm cho nòi giống thêm khỏe mạnh” [3]. Trong quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Người rất coi trọng công tác đối ngoại của TDTT. Người cho rằng đó là
một phương tiện quan trọng để giao lưu, đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam và các nước
trong cộng đồng quốc tế. Vì vậy, mọi hoạt động đối ngoại ở trong nước hay quốc tế cũng
đều phải đặt mục tiêu đoàn kết, hữu nghị lên hàng đầu. Thấm nhuần tư tưởng của Người,
Ủy ban Thể dục thể thao đã lãnh đạo phong trào, lập ra các đội tuyển quốc gia các môn
để tham gia thi đấu giao hữu và các giải quốc tế.
1.1.2 Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề GDTC
Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta không ngừng
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển con người, xây dựng nguồn nhân lực cho đất nước
sau này.



12

Đảng đã vạch ra con đường đúng đắn cho sự nghiệp TDTT nước nhà, luôn kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện đường lối quan điểm TDTT do Đảng đề ra. Nhờ vậy mà những
quan niệm lệch lạc đối với công tác TDTT dần dần được thay đổi. Từ khi có chỉ thị số
106CT/TW ngày 2 tháng 10 năm 1958 do sự chuyển biến nhận thức trong một số cấp ủy
Đảng mà phong trào TDTT phát triển khá rộng rãi hơn trong học sinh, quân đội, cơ quan,
xí nghiệp,... Phong trào ngày càng lành mạnh, càng toàn diện và đã góp phần nâng cao
sức khỏe, giáo dục, đoàn kết quân đội, cán bộ, công nhân, thanh niên, học sinh. Một số
địa phương và một số ngành đã chấn chỉnh lại việc lãnh đạo công tác TDTT. [4]
Phong trào TDTT và thể thao quốc phòng của ta trở thành phong trào quần chúng
rộng rãi, ngày càng được nâng cao về mặt kỹ thuật. Để đạt mục đích góp phần tăng
cường thể chất, nghị lực và giáo dục, đoàn kết đông đảo nhân dân, cần lấy việc phong
trào làm chính, không bó hẹp trong một số ít tổ chức hoặc một vài môn, đồng thời cần
quan tâm đúng mức đến việc nâng cao trình độ chuyên môn.
Trong chỉ thị 106/CT – TW có viết: “Việc săn sóc sức khoẻ của nhân dân, tăng
cường thể chất của nhân dân được coi là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính
phủ. Nhiệm vụ xây dựng nước nhà và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi nhân dân ta phải có sức
khoẻ dồi dào, thể chất cường tráng”. [4]
Chỉ thị còn nhấn mạnh “Ngoài việc tăng cường cải thiện sinh hoạt và điều kiện
lao động, tăng cường công tác vệ sinh phòng bệnh, vấn đề vận động thể dục thể thao và
thể dục quốc phòng có tác dụng lớn trong việc bồi bổ sức khoẻ của nhân dân và cán bộ.
Công tác thể dục thể thao là một phương pháp rất có hiệu quả để tăng cường lực lượng
lao động sản xuất và lực lượng quốc phòng của cán bộ và nhân dân ta, tăng cường dũng
khí và nghị lực của mỗi người dân, tăng cường sức đề kháng của nhân dân ta chống
bệnh tật, chống vi trùng”. [5]
Hơn nữa, vận động thể dục thể thao còn là một trong những phương pháp tốt để
giáo dục nhân dân về tính tổ chức, tính kỷ luật và đoàn kết quần chúng đông đảo chung
quanh Đảng và Chính phủ.
GDTC là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta và nằm

trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDTC được hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo
dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm


13

việc, và kéo dài tuổi thọ của con người” [6]. GDTC cũng như các loại hình giáo dục
khác, là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư
phạm, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm.
GDTC cũng như những loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với đầy đủ
đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm. GDTC chia thành hai mặt tương
đối độc lập: Dạy học động tác và giáo dục tố chất thể lực. Bên cạnh đó nó còn là một lĩnh
vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là “phát triển toàn diện tố chất thể lực và trên cơ sở đó
phát triển các năng lực thể chất, bảo đảm hoàn thiện thể hình, củng cố sức khỏe, hình
thành theo hệ thống và tiến hành hoàn thiện đến mức cần thiết các kĩ năng và kĩ xảo quan
trọng cho cuộc sống”.
Đồng thời chương trình GDTC trong các Trường Đại học, Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục là “trang bị kiến thức, kĩ năng và
rèn luyện thể lực cho HS – SV”.
GDTC trong các Trường Đại học Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp vừa là
nhiệm vụ quan trọng vừa góp phần bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những con người phát
triển toàn diện, có sức khỏe dồi dào, thể chất cường tráng để kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta.
GDTC có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện HS – SV về thể lực để nâng cao
sức khỏe với mục tiêu “khỏe để học tập, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”, “khỏe để chinh
phục đỉnh cao tri thức”. Ngoài ra còn giúp ta có một tâm lý vững vàng, chuẩn bị tốt tinh
thần cho người cán bộ tương lai, trang bị những kiến thức, phương pháp tập luyện thể
thao có khoa học để khi thực hiện công tác giảng dạy có hiệu quả hơn và hoàn thành
công tác tốt hơn.
Luật TD,TT năm 2006 đã xác định rõ tầm quan trọng của công tác GDTC và ý

nghĩa lợi ích tác dụng của các hoạt động thể thao trong nhà trường nên đã dành 7 điều từ
Điều 20 đến Điều 26 quy định về GDTC và thể thao trong nhà trường. Nội dung của các
điều này quy định về mục tiêu của GDTC trong các nhà Trường thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân của nước ta hiện nay, quy định có tính định hướng về nội dung, hình thức,
phương pháp GDTC và tổ chức các hoạt động thể thao trong nhà trường. Luật xác định
rõ chủ thể của công tác GDTC, hoạt động thể thao trong nhà trường, quyền và nghĩa vụ


14

của các bên tham gia các hoạt động này, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan chủ quản, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp có liên quan về GDTC và thể thao trong nhà trường.
Những quy định của Luật TDTT về GDTC và thể thao trong nhà trường là những
sự thể chế hoá đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về GDTC và thể thao trong
nhà Trường cùng với các quy định về giáo dục đào tạo trong các đạo luật khác như Luật
Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Xây
dựng, Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan tạo nên hệ thống luật pháp thống nhất đồng bộ điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội trong GDTC và thể thao trong nhà trường. Để những quy định của các luật này đi vào
cuộc sống cần được các cơ quan quản lý nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn. Đó
là:
+ Các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục, Luật Dạy
nghề, Luật TDTT và các đạo luật đã ban hành về ngân sách nhà nước, quy hoạch, đầu tư,
xây dựng, đất đai, bảo hiểm, lao động… đối với giáo dục đào tạo trong đó có GDTC và
thể thao trong nhà Trường nhằm đảm bảo sự đồng bộ thống nhất trong hệ thống pháp luật
ở nước ta, đòi hỏi các cấp chính quyền phải tổ chức nghiên cứu, phổ biến, giáo dục để
mọi người biết và thực hiện.
+ Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng theo luật định như chế độ phụ cấp đặc thù đối với giáo viên, giảng

viên TDTT và các vấn đề về đầu tư, quy hoạch giáo dục và đào tạo…
+ Các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ GD và ĐT ban hành hoặc liên
tịch với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, tổ chức Chính trị - xã hội ban hành
quy định và hướng dẫn thực hiện những vấn đề thuộc thẩm quyền về GDTC và thể thao
trong nhà trường như: Quy định về chương trình chuẩn quốc gia về môn học GDTC [7],
quy định về tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên TDTT, quy chuẩn về nhà tập, dụng cụ sân
bãi môn học GDTC, quy định bảo đảm an toàn trong cho người dạy và người học môn
GDTC, hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp đặc thù cho giáo viên, giảng viên TDTT
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn hoạt động thể thao ngoại khoá trong
nhà trường và quy định hệ thống thi đấu thể thao trong hệ thống giáo dục quốc dân,


15

hướng dẫn việc tổ chức phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu thể thao trong hệ thống giáo
dục quốc dân bao gồm cả hệ thống các trường năng khiếu thể thao và trường, lớp phổ
thông năng khiếu thể thao, quy định chương trình văn hoá phổ thông giảng dạy trong
trường năng khiếu thể thao, quy định và hướng dẫn các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp về TDTT tham gia hoạt động GDTC và thể thao trong nhà trường.
+ Các văn bản của Hội đồng nhân dân và UBND cấp tỉnh thực thi các vấn đề
GDTC và thể thao trong nhà trường theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cấp
trên là rất quan trọng trực tiếp đưa chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước
được quy định trong luật pháp vào thực tiễn của cuộc sống.
Thực tiễn triển khai thực hiện Luật Thể dục, thể thao thời gian qua cho thấy Chính
phủ đã ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn thi hành và quy định chi tiết một số điều của
các đạo luật trên. Để đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá xã
hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về
chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường. [8]
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật thực hiện các

quy định về giáo dục đào tạo nói chung trong đó có GDTC và thể thao trong nhà Trường
theo luật định.
Bộ trưởng Bộ GD & ĐT đã chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ VHTT & DL đang
tiếp tục thực hiện các nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 20; phối hợp với Bộ trưởng
các bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư, chế độ chính sách cho GDTC và thể
thao trong nhà trường.[9]
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi quản lý của
mình chỉ đạo hướng dẫn tổ chức thực hiện việc xây dựng cơ sở vật chất, bố trí giáo viên,
giảng viên TDTT cho các trường.
UBND cấp tỉnh nhiều nơi đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật triển khai
thực hiện những nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 20 của Luật Thể dục, Thể thao và
theo hướng dẫn thi hành luật của các cấp trên. [10]


16

Nhìn chung, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về GDTC và thể thao của
nước ta hiện nay tương đối đầy đủ và có tính pháp lý cao, phù hợp với điều kiện cụ thể
của nền kinh tế xã hội nước ta hiện nay, đồng thời mang tính định hướng xã hội chủ
nghĩa nhân văn sâu sắc vì sự phát triển toàn diện nhân cách của thế hệ trẻ là chủ nhân
tương lai của đất nước đáp ứng được yêu cầu nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, với những quy định trong Luật TDTT để bảo đảm cho người dạy và
người học thụ hưởng được quyền lợi theo luật định và có nghĩa vụ tương ứng thì các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại luật này cần tổ chức nghiên cứu và kịp thời
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, thực thi Luật, giúp cho các tổ chức
cá nhân hiểu đúng và thực sự đưa Luật vào cuộc sống một cách sinh động đáp ứng yêu
cầu về GDTC và thể thao trong nhà trường ngày càng lớn, đồng thời để tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhằm đạt được mục tiêu của công tác

GDTC và thể thao đã đặt ra.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ V đã nêu lên ý nghĩa của việc tập luyện TDTT
quần chúng, bồi dưỡng, xây dựng phẩm chất tốt đẹp cho con người mới xã hội chủ nghĩa
[11]. Văn kiện có nêu: “TDTT là một bộ phận không thể thiếu được trong công cuộc xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới. Đảng và nhà nước phải chăm lo hơn nữa phát
triển TDTT nhằm góp phần tăng cường sức khỏe nhân dân, xây dựng phẩm chất tốt đẹp
cho con người như lòng dũng cảm, khéo léo, trí thông minh và óc thẩm mỹ, tinh thần tập
thể và lòng trung thực…”
Nhằm mục đích mở rộng chất lượng TDTT trong các lĩnh vực, nghị quyết Đại hội
Đảng lần VI nêu rõ: “Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng,
đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hằng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết
là thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng GDTC trong các Trường học…” [12].
Mục đích đẩy mạnh công tác TDTT trong giai đoạn mới Chỉ thị số 36-CT/TW ngày
24 tháng 3 năm 1994 nhấn mạnh: “Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy
nhân tố con người, công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực,
giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh


17

thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của lực lượng vũ
trang”. [4]
“Ngành TDTT cần đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào
trong lĩnh vực TDTT, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên
TDTT, huấn luyện viên, tiếp tục đổi mới tổ chức, quản lý TDTT theo hướng xã hội
hóa…”.
Nhằm tăng cường phát triển phong trào TDTT nước nhà, đồng thời thể hiện sự quan
tâm của Đảng đối với từng bước phát triển chung của phong trào. Ngày 23/ 10/2002 Ban
bí thư Trung ương Đảng, triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 17 – CT/TW của Ban Bí thư

Trung ương Đảng và phương hướng, nhiệm vụ về phát triển Thể dục - Thể thao đã được
Đại hội lần thứ X Đảng bộ tỉnh xác định, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các cấp ủy
đảng, chính quyền tập trung thực hiện tốt những việc cần thiết để nâng cao thế mạnh nền
Thể thao nước nhà như: “Có kế hoạch chỉ đạo phát triển mạnh mẽ phong trào thể dục thể
thao quần chúng ở sở xã, phường, thị trấn, trường học cho tất cả các đối tượng, lực lượng
vũ trang; chú trọng địa bàn nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đảm
bảo đến năm 2005 có 15 – 20% và năm 2010 có 25% dân số luyện tập thể dục - thể thao
thường xuyên”.[13]
Bên cạnh đó chỉ thị còn nhấn mạnh phải phát triển mở rộng hoạt động TDTT trong
đội ngũ cán bộ giáo viên, học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục Thể thao trong Trường
học và qui định “Trường học phải có sân tập, từng bước xây dựng phòng tập thể dục
đúng tiêu chuẩn. Ngành giáo dục – đào tạo chủ động phối hợp với ngành thể dục thể thao
và các ngành liên quan tiến hành xây dựng các Câu lạc bộ thể dục thể thao trong trường
học” [13].
Nhận thức sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại “Vì sự nghiệp mười
năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người” [14], để sự nghiệp trồng người gặt
hái được những thành quả tốt đẹp, cần có sự kết hợp hài hòa của nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố giáo dục trí thể lực cho con người là vô cùng quan trọng, vì thế trong suốt nhiều
năm qua, mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất
nước, để thế hệ trẻ của dân tộc ta được phát triển cao không chỉ về trí tuệ, mà còn phát
triển mạnh mẽ cả về thể chất – luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng quan


18

tâm, hoạch định triển khai. Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII đã khẳng định: “Muốn
xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện, không
chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà phải là con người cường tráng
về thể chất [15].
Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các

ngành, các đoàn thể, trong đó có giáo dục – đào tạo, y tế, TDTT. Tới Nghị quyết Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương 9, khóa X cũng vẫn giữ vững quan điểm cần phải tập
trung nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo một cách toàn diện.
1.2 Một số khái niệm liên quan.
1.2.1. Sức khỏe:
Sức khỏe là vốn quý của con người. Có sức khỏe thì chúng ta mới có thể thực hiện
được những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng, những điều mà chúng ta cho rằng khó trở
thành hiện thực.
Theo tổ chức Y tế Thế giới ( OMS-1946) “ Sức khỏe là một trạng thái hài hòa về
thể chất, tinh thần và xã hội mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật, cho
phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu
dài khả năng lao động và lao động có kết quả”, [16, tr.82]
1.2.2 Thể chất:
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn (2000) thì: “ Thể chất chỉ chất lượng thân
thể con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng của
cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống ( bao gồm
cả giáo dục, rèn luyện)”, [10, tr. 18].
Thể chất theo nhiều tác giả Trung Quốc 8 – 1982( trong hội nghị khoa học toàn
quốc) cho rằng: Thể chất là chất lượng của cơ thể con người. Chúng tổng hòa các đặc
điểm tương đối ổn định về cấu trúc hình thái cơ thể, chức năng sinh lý, nhân tố tâm lý
được biểu hiện trên cơ sở di truyền và khả năng đạt được (trong đời sống, trong lao
động, huấn luyện thể thao…) thể chất biểu hiện rất nhiều mặt, trong đó có tố chất thể lực.
Nhiều tác giả sinh lý và sư phạm thể thao cho rằng: Tố chất thể lực bao gồm các năng lực
nhanh, mạnh, bền…của cơ thể.
1.2.3. Giáo dục thể chất:


19

Thuật ngữ giáo dục thể chất có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước. Ở nước ta, do bắt

nguồn từ Hán – Việt nên cũng có người gọi tắt giáo dục thể chất là thể dục với nghĩa
tương đối hẹp, vì định nghĩa rộng của từ Hán – Việt thể dục còn có nghĩa là thể dục thể
thao.
Thường người ta coi giáo dục thể chất là một bộ phận của hoạt động thể dục thể
thao. Nhưng khi nghiên cứu một cách chính xác hơn, giáo dục thể chất còn là một trong
những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của thể dục thể thao trong xã hội,
một quá trình có tổ chức truyền thụ và tiếp thu những giá trị thuộc về kiến thức của thể
dục thể thao trong hệ thống giáo dục chung, [18].
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn: “ Giáo dục thể chất là một loại hình giáo
dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động ( động tác) và phát triển có chủ đích
các tố chất vận động của con người”. [10, tr. 18]. Từ quan niệm trên ta có thể coi phát
triển thể chất là một phần hệ quả của giáo dục thể chất. Quá trình phát triển thể chất là sự
kết hợp giữa yếu tố bẩm sinh tự nhiên và tác động có chủ đích, hợp lý của giáo dục thể
chất mang lại.
PGS.TS Nguyễn Toán đã mô tả GDTC và khái niệm: “Giáo dục thể chất là một bộ
phận của TDTT. Giáo dục thể chất còn là một trong những hoạt động cơ bản, có định
hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những
giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục – giáo dưỡng chung (chủ yếu là trong nhà
trường)… Giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động và phát triển có chủ đích các tố chất vận động của con người”.
Với mục tiêu góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế
và văn hóa xã hội, phát triển hài hòa về mọi mặt, có sức lực cường tráng, có năng lực
hoạt động chuyên môn độc lập, sáng tạo, có tư tưởng, đạo đức tác phong lành mạnh,
trong sáng đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, GDTC đã trở
thành nội dung quan trọng không thể thiếu trong chương trình đào tạo của trường ĐH,
CĐ & THCN.
1.2.4. Thể lực:
Thể lực là sức lực của cơ thể, biểu hiện qua các tố chất thể lực. Tố chất thể lực là
những mặt riêng biệt về khả năng vận động của con người, bao gồm: Nhanh, mạnh, bền,



20

khéo léo, mềm dẻo. Tố chất thể lực thường được thể hiện trong khi làm động tác và phụ
thuộc vào cấu trúc của động tác. Ngoài ra, việc thể hiện các tố chất còn phụ thuộc vào
trạng thái người tập và điều kiện thực hiện.
Các tố chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền và mềm dẻo là những yếu tố mang tính
năng lượng (vì phụ thuộc vào việc cung cấp năng lượng), còn khả năng phối hợp vận
động (khéo léo) là một yếu tố mang tính thần kinh – cơ ( vì chủ yếu liên quan đến sự điều
khiển của hệ thần kinh – cơ). Hai thuật ngữ tố chất thể lực và tố chất vận động tương
đồng về nghĩa vì cùng phản ánh những nhân tố, những mặt tương đối khác nhau của thể
lực con người. Tuy nhiên, khi nói tố chất vận động là muốn nhấn mạnh việc điều khiển
động tác của hệ thần kinh trung ương. Còn khi nói tố chất thể lực là muốn nhấn mạnh
đến đặc trưng sinh học của cơ thể. [20]
1.3. Đặc điểm tâm – sinh lý sinh viên.
1.3.1. Đặc điểm sinh lý sinh viên :
Đa số sinh viên có độ tuổi từ 18-25. Cơ thể của người từ lúc sinh ra đến khoảng 25 tuổi
phát triển theo hướng đi lên, sau đó chậm dần và suy giảm theo quy luật sinh học. Từ đó
sự thích nghi của các hệ thống cơ quan quan trọng trong cơ thể con người đối với những
điều kiện sống mới và thay đổi của môi trường cũng trở nên khó khăn. Ở lứa tuổi này về
cơ bản các cơ quan và hệ thống quan trọng nhất của cơ thể ngừng phát triển theo chiều
cao vì bộ xương đã được xương hóa, nhưng lại phát triển mạnh theo chiều ngang và tăng
trọng lượng của cơ thể. Nếu được tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên thì mức độ
linh hoạt của các khớp xương có thể thay đổi. Song khả năng giải giải phẫu sinh lý của
khớp phải là yếu tố quyết định khi lựa chọn động tác trong luyện tập thể dục thể
thao[21].
Ở lứa tuổi từ 18 đến 25, cơ bắp đã phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để tập luyện
phát triển sức mạnh và sức bền. Cơ thể con người có năng lực hoạt động cao. Tập luyện
thể dục thể thao có hệ thống, khoa học sẽ làm tăng lực co cơ chính là nhờ tăng số lượng
và tiết diện ngang cũng như tăng dần sự đàn hồi của cơ. [22]



21

1.3.1.1. Hệ thần kinh:
Các tổ chức thần kinh tiếp tục phát triển chậm để đi đến hoàn thiện, khả năng tư
duy phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa phát triển thuận lợi cho sự hình thành phản xạ có
điều kiện. Chức năng của hệ thống thần kinh trung ương thể hiện ở 3 đặc trưng chủ yếu
của quá trình thần kinh mà Pap - Lốp đã chỉ ra cường độ hưng phấn và ức chế; tính cân
bằng của quá trình hưng phấn và ức chế; tính sinh hoạt chuyển đổi giữa hai quá trình
trên. Thời gian phản xạ là chỉ tiêu thăm dò đặc tính kết cấu và chức năng phản xạ vận
động. Nó gián tiếp phản ánh loại hình thần kinh, trực tiếp phản ánh trạng thái tức thời và
khả năng điều khiển của vỏ não đối với cơ quan vận động của con người. [22]
1.3.1.2. Hệ vận động:
- Xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, phần sụn ở đầu xương đã được xương
hóa, cột sống ổn định hình dáng. Những xương thường xuyên chịu những lực tác động cơ
học lớn thì giàu chất vô cơ, vì thế xương đùi dài, nhất là xương chày cứng rắn hơn xương
cánh tay. Chiều cao cơ thể con người phụ thuộc vào yếu tố di truyền, vì thế trong công
tác tuyển chọn tài năng thể dục thể thao chúng ta không bỏ qua yếu tố quan trọng này.
- Cơ: Các cơ lớn phát triển tương đối nhanh và các cơ nhỏ phát triển chậm hơn.
Các cơ co phát triển chậm hơn các cơ duỗi. [23]
1.3.1.3. Hệ tuần hoàn:
- Mạch đập: Hệ tuần hoàn đang phát triển và hoàn thiện. Tim nam mỗi phút đập
70 - 80 lần. Mạch đập này được tạo nên hoạt động của tim. Tần số mạch đập bằng tần số
co bóp của tim. Chỉ số mạch lúc yên tĩnh sẽ thay đổi nhiều dưới tác động tập luyện thể
dục thể thao. Bắt mạch là phương pháp đơn giản, dễ làm và cho ra những thông tin đáng
tin cậy về tình trạng chức năng của hệ tuần hoàn, để đánh giá chức năng cơ thể con người
trong cuộc sống cũng như hoạt động thể dục thể thao.
- Huyết áp: Là áp lực máu đè lên thành mạch được tạo nên do hoạt động của tim.
Vì có trở lực của các mao mạch cho nên trong động mạch huyết áp tăng lên trong thời

gian tâm thu và đạt mức cao nhất ở cuối thời gian tâm thu. Đó là huyết áp tối đa tương
ứng với thời gian tâm thu. Nó phụ thuộc vào các yếu tố: sự co bóp của tim, trở lực của
mạch máu ngoại biên lớn nên huyết áp trong thời gian tâm trương vẫn còn ở mức nhất
định. Đó là huyết áp tối thiểu và nó phụ thuộc vào huyết áp tối đa, trợ lực của mạch ngoại


22

biên và tính đàn hồi của thành động mạch. Bình thường huyết áp tối đa từ 100 - 150
mmHg; Dưới 100 mmHg là huyết áp thấp. Trên 130 mmHg là huyết áp cao. Huyết áp tối
thiểu từ 65 - 85mmHg là trung bình. Chỉ số huyết áp bình thường phụ thuộc vào lứa tuổi
và giới tính. Chỉ số huyết áp là chỉ số tương đối ổn định, trong tập luyện thể dục thể thao
huyết áp ít thay đổi...[23][24]
1.3.1.4. Hệ hô hấp:
Xác định khả năng tối đa của độ sâu hô hấp. Vì vậy, nó là các chỉ số quan trọng
về khả năng hoạt động của bộ máy hô hấp. Dung tích sống phụ thuộc vào dung tích
chung và sức mạnh của các cơ hô hấp, vào lực cản của lồng ngực và phổi khi chúng co
giãn. Dung tích sống của phổi bao gồm thể tích hô hấp, thể tích khí hút vào bổ sung và
thể tích sự trữ thở ra. Dung tích sống của mỗi người rất khác nhau và phụ thuộc vào kích
thước cơ thể, giới tính và lứa tuổi. Ở Việt Nam dung tích sống trung bình của lứa tuổi 20
- 25 nam là 3500 ml và nữ là 2600 ml. Để xác định dung tích sống, người ta sử dụng phế
dung kế. Trong thực tiễn hoạt động thể dục thể thao để xác định dung tích sống của phổi,
người ta sử dụng test Rozenfall.
Trong hoạt động thể dục thể thao lượng thông khí phổi tăng dần lên phụ thuộc vào
công suất hoạt động. Hoạt động với công suất thấp, thông khí phổi tăng lên chủ yếu là do
tăng khí lưu thông. Hoạt động với công suất tăng dần thì tần số hô hấp tăng song song
với thông khí phổi, khi lưu thông tăng lên gần tới giới hạn của dung tích sống. Như vậy
để có lượng khí lưu thông tăng cao, sự tham gia của các cơ hô hấp là yếu tố quan
trọng.[21]
1.3.2. Đặc điểm tâm lý của lứa tuổi sinh viên

Thế giới tâm ký của con người vô cùng kì diệu và phong phú, được loài người
quan tâm nghiên cứu cùng với sự hình thành và phát triển nhân loại, từ những tư tưởng
đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lý thì tâm lý học đã hình thành, phát triển không
ngừng và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người.
Bất kì cá nhân nào cũng mang trong mình hai thuộc tính sinh vật và xã hội. hay
nói một cách tương đối con người có 2 thành phần. thể xác và tinh thần. phần tinh thần
bao gồm tất cả những hiện tượng diễn ra trong đầu óc con người như: cảm giác, tri giác,
tư duy tư tưởng, trí nhớ, tình cảm, cảm xúc, nhu cầu, động cơ mục đích thói quen, cách


23

nhìn nhận các suy nghĩ…tất cả hiện tượng đó điều là tâm lý. Tâm lý là toàn bộ những
hiện tượng thuộc thế giới tinh thần của con người.
- Đặc điểm tâm lý của hoạt động giáo dục thể chất.
+ Đặc điểm chung.
Nhằm cũng cố sức khỏe, phát triển hoài hòa nhân cách đồng thời phát triển tối ưu
thành tích cần thiết để thực hiện có hiệu quả của hoạt động lao động, học tập và bảo vệ
tổ quốc.
Hoạt động giáo dục thể chất đòi hỏi ở người tập có ý trí, nghị lực và thể chất
tương đối cao nhưng không đến mức tối đa.
Trong hệ thống giáo dục thể chất mang tính bắt buộc.
+ Đặc điểm tâm lý của hoạt động giáo dục thể chất.
Giảng dạy bài tập thể chất khác với truyền thụ và tiếp thu tri thức lý luận ở chỗ:
Bài tập thể chất luôn gắn liền với hoạt động cơ bắp, kết quả của người học phụ
thuộc vào phương pháp sư phạm của người dạy dạy các động tác tương ứng như thế nào
để người học biết cách thực hiện, hình thành kĩ xảo động tác đồng thời phát triển tố chất
vận động. (nhanh, mạnh, bền…)
Giáo dục thể chất không những tác động đến sự hình thành các phẩm chất đạo
đức tình cảm, ý chí của người tập mà còn phát huy được tính sáng tạo, lòng dũng cảm,

tinh thần đồng đội, lòng yêu nước.
Giáo dục thể chất không chỉ giúp người tập tiếp thu thực hiện được bài tập mà còn
giáo dục con người phát triển toàn diện, con người mới của xã hội chủ nghĩa để họ sẵn
sàng tham gia các hoạt động lao động, học tập và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình giáo dục thể chất nâng cao kết quả giáo dục, trước tiên người thầy
phải giúp người học biết dược mục đích, tác dụng của giáo dục thể chất đối với việc
củng cố, tăng cường sức khỏe phục vụ lao động sản xuất, học tập và xây dựng bảo vệ tổ
quốc. Được như vậy người học sẽ có động cơ học tập, từ đó tự giác học tập. Từ đó động
tác tích cực rèn luyện và dần hình thành thói quen luyện tập.
Trong giáo dục thể chất, để nâng cao hiệu quả của bài tập và đạt được mục đích
của nó là củng cố nâng cao sức khỏe cho người rèn luyện thì trong quá trình giảng dạy


×