TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
----------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT ĐẬP
CẦU CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT
KHÓA 39 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
NĂM HỌC 2014 – 2015
MÃ NGÀNH: 52140206
NGUYỄN THỊ TUYẾT DON
Năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
----------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT ĐẬP
CẦU CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT
KHÓA 39 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
NĂM HỌC 2014 – 2015
MÃ NGÀNH: 52140206
Người hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Ths. Nguyễn Văn Thái
Nguyễn Thị Tuyết Don
MSSV: 9117032
Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
----------
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn này hoàn toàn trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công
trình nghiên cứu nào.
Cần Thơ, ngày
tháng
năm 2015
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Tuyết Don
1
LỜI CẢM ƠN
----------
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô bộ môn Giáo Dục Thể Chất trường ĐHCT trong bốn
năm qua đã luôn giảng dạy, chỉ bảo nhiệt tình truyền đạt rất nhiều kiến thức bổ ích để
tôi có thể hoàn thiện kiến thức, hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Thái đã tận tình hướng
dẫn tôi trong thời gian thực hiện luận văn này với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng
nhiệt huyết.
Tôi xin cảm ơn các em sinh viên khóa 39 đã hỗ trợ tôi có được số liệu để hoàn
thành luận văn.
Ngoài ra, tôi xin cảm ơn tất cả bạn bè người thân đã quan tâm và luôn ủng hộ tôi
trong suốt quá trình nghiêm cứu.
Cần Thơ, ngày
tháng
năm 2015
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Tuyết Don
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
----------
GD & ĐT
Giáo dục và Đào tạo
ĐHCT
Đại học Cần Thơ
BM.GDTC
Bộ môn Giáo dục Thể chất
GDTC
Giáo dục Thể chất
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NXB
Nhà xuất bản
SV
Sinh viên
LVĐ
Lượng vận động
Th.s
Thạc sĩ
TS
Tiến sĩ
GS
Giáo sư
(m)
Mét
VĐV
Vận động viên
HLV
Huấn luyện viên
TW
Trung ương
3
DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
Chương
Tên biểu bảng
Trang
Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập đánh giá hiệu quả
kỹ thuật đập cầu.
35
Bảng 3.2. Thực trạng đập cầu trước thực nghiệm của sinh viên
giáo dục thể chất khóa 39 trường ĐHCT học kỳ II năm 2014
– 2015 (n=41).
3
Bảng 3.3. Kết quả đập cầu sau thực nghiệm của sinh viên giáo
dục thể chất khóa 39 trường ĐHCT học kỳ II năm 2014 –
2015 (n=41).
Bảng 3.4. Bảng so sánh trước và sau thực nghiệm của sinh viên
giáo dục thể chất khóa 39 trường ĐHCT học kỳ II năm 2014
– 2015 (n=41).
36
37
38
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Chương
Tên biểu bảng
Trang
Biểu đồ 3.1 Biểu đồ so sánh số trung bình trước và sau thực
nghiệm của sinh viên giáo dục thể chất khóa 39 trường Đại
39
học Cần Thơ năm học 2014 – 2015.
3
Biều đồ 3.2 Biểu đồ nhịp độ phát triển kỹ thuật đập cầu môn cầu
lông cho sinh viên giáo dục thể chất khóa 39 trường Đại học Cần
Thơ năm học 2014 – 2015.
4
40
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………... 7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ………………….. 9
1.1. Quan điểm ảnh hưởng của giáo dục thể chất đến con người ……………... 9
1.2. Đặc điểm lứa tuổi sinh viên ………………………………………………. 13
1.2.1. Đặc điểm về tâm lý ……………………………………………………. 13
1.2.2. Đặc điểm về sinh lý …………………………………………………… 15
1.2.3. Đặc điểm các tố chất thể lực của sinh viên ……………………………
16
1.3. Đặc điểm xu hướng huấn luyện và hệ thống kỹ thuật cơ bản trong cầu
lông ……………………………………………………………………………… 20
1.3.1. Đặc điểm xu hướng thi đấu Cầu Lông hiện đại ……………………….. 20
1.3.2. Hệ thống các kỹ thuật cơ bản của Cầu Lông ………………………….. 21
1.4. Vai trò của kỹ thuật đập cầu trong tập luyện và thi đấu ………………….. 22
1.4.1. Kỹ thuật đập cầu trong cầu lông ………………………………………. 22
1.4.2. Vai trò kỹ thuật đập cầu ……………………………………………….
22
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật đập cầu ……………………. 23
1.5.1. Huấn luyện kỹ thuật …………………………………………………...
23
1.5.2. Huấn luyện chiến thuật ………………………………………………..
25
1.5.3. Huấn luyện thể lực …………………………………………………….
25
1.5.4. Huấn luyện tâm lý chuyên môn và tri thức cho VĐV ………………… 26
1.6. Cơ sở huấn luyện kỹ thuật đập cầu trong tập luyện và thi đấu cầu lông …. 26
5
CHƯƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU ..
28
2.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………….
28
2.1.1. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………
28
2.1.2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………….
28
2.2. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………. 28
2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu …………………………..
28
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn đều tra ………………………………………
28
2.2.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm ……………………………………...... 28
2.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm …………………………………... 31
2.2.5. Phương pháp toán thống kê …………………………………………… 31
2.3. Tổ chức nghiên cứu ………………………………………………………. 33
2.3.1. Thời gian nghiên cứu ………………………………………………….. 33
2.3.2. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………………
33
2.3.3. Địa điểm ……………………………………………………………….
34
2.3.4. Kế hoạch nghiên cứu ………………………………………………….. 34
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ……………………………………….
35
3.1. Thực trạng kỹ thuật đập cầu môn cầu lông cho sinh viên giáo dục thể chất
khóa 39 trường Đại học Cần Thơ năm học 2014 – 2015 ………………………..
35
3.2. Đánh giá được hiệu quả kỹ thuật đập cầu môn cầu lông cho sinh viên
giáo dục thể chất khóa 39 trường Đại học Cần Thơ năm học 2014 – 2015 …….. 37
3.3. Kết luận và kiến nghị ……………………………………………………..
40
3.3.1. Kết luận ………………………………………………………………..
40
3.3.2. Kiến nghị ………………………………………………………………
41
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đảng và nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển Thể dục Thể thao. Dù
ở bất cứ giai đoạn nào của cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước đều có nghị quyết,
chỉ thị để định hướng cho sự nghiệp phát triển Thể dục Thể thao và khẳng định việc
xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam là quốc sách hàng đầu, phấn đấu
trong những năm sắp tới sẽ đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước, đó
là lớp người trẻ phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức, là mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân và cũng là điều Bác
Hồ mong ước.
Trong công tác ngoại giao Thể dục Thể thao có chức năng là nhịp cầu nối giao
lưu, nối tình hữu nghị và thắt chặt tình đoàn kết giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế
giới. Thông qua thi đấu thể thao các quốc gia trên thế giới có sự trao đổi tiếp thu tinh
hoa của nhau, qua đó tìm hiểu học tập, giúp đỡ lẫn nhau đưa thế giới vào cuộc sống
hoà bình đầy tình hữu nghị.
Vì thế mỗi quốc gia đều chú trọng đến công tác thể dục thể thao và đưa nền Thể
dục Thể thao nước mình lên đỉnh cao nhất cũng như giữ vững và phát triển những môn
thể thao mang bản sắc dân tộc. Thể dục Thể thao được đưa vào giảng dạy trong nhà
trường như một môn học điều kiện để học sinh, sinh viên có thể rèn luyện thể lực, tăng
cường sức khỏe.
Trường Đại học Cần Thơ đứng vị trí thứ 39 trong tổng số 100 trường Đại học hàng
đầu Đông Nam Á (năm 2012). Trường có 13 khoa, 3 viện nghiên cứu và 9 trung tâm,
bộ môn trực thuộc. Phong trào Thể dục Thể thao luôn được nhà trường quan tâm và
đưa vào công tác giảng dạy. Trong tất cả các môn thể thao: cầu lông, bóng đá, bóng
chuyền... thì cầu lông là một môn thể thao được nhiều sinh viên đăng kí tham gia học
tập. Cầu lông là môn thể thao đa dạng, thuộc loại hình các môn bóng không va chạm
trực tiếp nhưng tính đối kháng vẫn căng thẳng gay cấn giữa tấn công và phòng thủ.
7
Trong cầu lông hệ thống các kỹ thuật cơ bản rất đa dạng bao gồm các nhóm kỹ
thuật chính như: di chuyển, phòng thủ, tấn công. Đặc biệt nhóm kỹ thuật tấn công được
sử dụng nhiều và nhóm kỹ thuật tấn công quan trọng vẫn là kỹ thuật đập cầu. Điều này
được thể hiện rõ qua các trận đấu, kỹ thuật này cho phép vận động viên phát huy và
phối hợp nhuần nhuyễn của các bộ phận trên cơ thể để thực hiện kỹ thuật đập cầu,
ngoài ra còn giúp vận động viên liên kết được các yếu tố trong khi đánh cầu như: sức
mạnh, tốc độ, điểm rơi,...
Xuất phát từ thực tế trên mà kỹ thuật đập cầu cần được quan tâm và tập luyện
nhiều hơn trong quá trình giảng dạy và huấn luyện thi đấu, cơ sở lý luận lựa chọn bài
tập trong giảng dạy kỹ thuật cầu lông.
Là một sinh viên đang học tập tại trường tôi nhận thấy, hiệu quả của kỹ thuật đập
cầu quyết định hầu hết các trận đấu cần lựa chọn bài tập, tập luyện để phát huy tối đa
hiệu quả của kỹ thuật. Để góp phần nâng cao chất lượng kỹ thuật tôi mạnh dạng nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kỹ thuật đập cầu của sinh viên ngành
giáo dục thể chất khóa 39 trường Đại học Cần Thơ năm học 2014 – 2015”.
8
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm về ảnh hưởng của giáo dục thể chất đến con người
Kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ tổ quốc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong việc đặt nền tảng xây dựng sự nghiệp
TDTT của nước ta là khẳng định rõ TDTT là một công tác cách mạng, là nhu cầu,
quyền lợi, nghĩa vụ của quần chúng, sự nghiệp của dân do dân và vì dân. Thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục.
Người khẳng định vị trí sức khỏe dưới chế độ mới: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước
nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công, mỗi một người
yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt đi một phần, mỗi người dân mạnh khỏe tức góp
phần cho cả nước mạnh khỏe. Vậy, rèn luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận
của mỗi người dân yêu nước”.
Những quan điểm của Đảng và nhà nước về giáo dục thể chất được xuất phát từ
những cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin về con người và sự phát triển toàn
diện của con người. Hơn nữa thế kỷ lãnh đạo sự nghiệp giáo dục Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam không ngừng khai thác, vận dụng và phát triển các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Đảng ta khẳng định
“cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [8] tạo cơ sở vật chất cho nước
ta phát triển nhanh và bền vững. Nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta chủ trương phát
triển nền giáo dục khoa học đại chúng, hướng đến xây dựng một xã hội học tập thực
thụ: “Tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời”.
Đường lối quan điểm của Đảng thể hiện trong các chỉ thị, nghị quyết của đảng về
TDTT suốt thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng chủ
9
nghĩa xã hội, được thể hiện qua chỉ thị 106/CT-TW của Ban bí thư TW đảng về công
tác TDTT ngày 02/10/1958: “Từng bước xây dựng nền TDTT xã hội chủ nghĩa phát
triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân”. “Công tác TDTT cần coi
trọng, nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động
đông đảo nhân dân rèn luyện thân thể hằng ngày” [4].
Giáo dục thể chất là bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nhằm
đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có tri thức đạo đức và hoàn thiện thể chất. Trong
các trường Đại học – Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, giáo dục thể chất cho sinh
viên là một mặt của giáo dục, vừa là một nhiệm vụ quan trọng để góp phần bồi dưỡng
thế hệ trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện, có sức khỏe dồi dào, có thể
chất cường tráng, có dũng khí kiên cường để kế tục sự nghiệp cách mạng của đảng và
nhân dân. Cùng với các hoạt động khác, quá trình giáo dục thể chất giúp cho học sinh –
sinh viên phát triển hoàn thiện những tố chất cần thiết cũng như hoàn thiện nhân cách
một cách đáng kể, nhằm đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống và nghiệp vụ chuyên môn.
Giáo dục thể chất còn giúp chuẩn bị tốt về mặt tâm lý và thinh thần cho người cán bộ
tương lai, đồng thời trang bị cho họ những kiến thức, phương pháp tập luyện thể dục
thể thao có khoa học, để sau ra trường tiếp tục rèn luyện thân thể, củng cố sức khỏe tôi
luyện ý chí và nâng cao hiệu quả công tác ngoài xã hội. Nắm bắt được tầm quan trọng
của Thể dục Thể thao, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên quan tâm, định hướng phát
triển của thể dục thể thao trong đó có giáo dục thể chất trường học.
Tháng 3 năm 1960 Hồ Chí Minh viết thư gửi hội nghị cán bộ TDTT toàn miền
Bắc. Người chỉ rõ muốn lao động học tập tốt cần có sức khỏe. Muốn có sức khỏe thì
nên thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Về thăm trường TDTT TW I năm 1961,
Bác đã căn dặn: “Các cháu học ở đây không phải đạt ông kiện tướng này, bà kiện
tướng kia mà cái chính là làm người cán bộ phục vụ đắt lực cho nhân dân, đem hiểu
biết của mình hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khỏe đẩy lùi bệnh
tật”. Đề cập tầm quan trọng của TDTT khi phê phán tình trạng yếu kém về GDTC
trong nhà trường của nước ta thời Pháp thuộc, Phan Bội Châu – một nhân sỹ yêu nước
lỗi lạc đã viết: “Các môn trong trường tiểu học không có môn gì quan trọng hơn môn
thể dục, thế mà trong trường không có môn học đó. Thể dục tay không, thể dục vũ khí,
10
thể dục giải trí cho đến các thứ vận động khác đều không được đưa vào trong chương
trình giảng dạy. Lạ hơn nữa, là các trường tiểu học của trẻ em người Pháp thì có sân
thể dục, sân vận động, mà trường tiểu học của con em người Việt thì ngược lại vì trẻ
em người Việt Nam khỏe mạnh thì người Pháp “không ưa”, nên môn thể dục phải là
môn “nghiêm cấm”. Sau Cách Mạng tháng tám thành công, Đảng và nhà nước ta luôn
quan tâm đến nền TDTT cách mạng. Đảng lãnh đạo công tác TDTT bằng việc hoạch
định đường lối, quan điểm, chính sách, kiểm tra, thực hiện kế hoạch, đưa công tác
TDTT lên một tầm cao mới.
Nghị quyết VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VII, tháng 6 năm 1991
khẳng định: “…Bắt đầu đưa việc giảng dạy thể dục và một số môn thể thao cần thiết
vào chương trình học tập của các trường phổ thông, các trường cao đẳng, đại
học…”.[25]
Giáo dục thể chất còn là nội dung bắt buộc đã được khẳng định trong Hiến pháp
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: “Nhà nước
và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất
quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học,
khuyến khích và giúp đỡ các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt
động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng nhân tài thể thao…”
Ngày 24/3/1994, Ban bí thư trung ương Đảng ra chỉ thị 36/CT – TW về công tác
TDTT trong giai đoạn mới nêu rõ: “Cải cách chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho từng trường học các cấp, tạo những điều
kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường
học”. [9]
Ngày 7/3/1995, Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị 133/TTg về việc xây dựng
và quy hoạch phát triển ngành TDTT cho từng trường học, chỉ thị nêu rõ: “Ngành
TDTT phải xây dựng định hướng phát triển có tính chiến lược, trong đó quy định rõ
các môn thể thao và các hình thức hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối tượng,
lứa tuổi, tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của quần chúng: Khỏe để xây dựng và
bảo vệ tổ quốc… Bộ Giáo dục và đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà
trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định nội dung rèn
11
luyện TDTT cho học sinh ở các cấp học, quy định chế độ bắt buộc ở các trường, nhất
là các trường Đại học phải có sân bãi, phòng tập TDTT, có định biên hợp lí và có kế
hoạch tích cực đào tạo đội ngũ giáo viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp học”.
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức, có nghề nghiệp, trung
thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu và xây dựng bảo vệ tổ
quốc”.
Ngày 2/4/1998, thường vụ Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam ban hành thông tư 03 – TT/TW về tăng cường lãnh đạo công tác TDTT.
Thông tư nêu rõ: “GDTC trong trường học còn nhiều hạn chế…” nên cần chú trọng
“Tăng cường cán bộ” cho ngành TDTT, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, đặc
biệt là các quy hoạch cần dành đất để xây dựng các công trình thể thao và các sân tập
TDTT ở các địa bàn dân cư, các trường học các xí nghiệp”. [32]
Ngày 21/10/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị 17/CT/TW về
phát triển TDTT đến năm 2010 trong đó nêu rõ những phương hướng, nhiệm vụ, giải
pháp thực hiện việc đẩy mạnh phát triển TDTT rộng khắp cả nước. Ngày 24/11/2002,
tại buổi làm việc với ngành TDTT, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã chỉ đạo: “Đảng
và nhà nước ta luôn coi trọng công tác TDTT, coi TDTT là một bộ phận quan trọng
trong sự nghiệp phát triển văn hóa xã hội của đất nước,… Sự nghiệp TDTT của nhà
nước đã có những bước tiến đáng phấn khởi cả về phong trào tập luyện của quần chúng
và thể thao, cả về thể thao dân tộc, thể thao hiện đại cũng như xây dựng cơ sở vật chất
cho ngành TDTT”.
Phát triển con người toàn diện phải biết: “Kết hợp hài hòa sự phong phú về tinh
thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về chất”. Sự cường tráng về thể chất là
nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý tạo ra sản phẩm trí tuệ và vật
chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã
hội nói chung và ngành TDTT nói riêng. Đó chính là mục tiêu cơ bản, quan trọng của
nền giáo dục TDTT nước ta mà Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm
và nhắc nhở.
12
Trong các trường Đại học, giáo dục thể chất có tác dụng tích cực trong việc hoàn
thiện nhân cách, những phẩm chất cần thiết cho nghiệp vụ và hoàn thiện thể chất cho
sinh viên. Việc tiến hành giáo dục thể chất để giữ gìn sức khỏe và phát triển thể lực,
tiếp thu những kiến thức và những kỹ năng vận động cơ bản, còn có tác dụng chuẩn bị
tốt về mặt tâm lý và tinh thần của người cán bộ tương lai. Đồng thời giúp họ hiểu biết
phương pháp khoa học, để tiếp tục rèn luyện thể lực của sinh viên, giáo dục đạo đức xã
hội chủ nghĩa, cung cấp cho sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và
phương pháp tập luyện TDTT, góp phần duy trì và cung cấp sức khỏe của sinh viên.
Bộ Giáo Dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch tuyên
truyền nâng cao nhận thức đúng đắn của toàn xã hội về vị trí, vai trò, ý nghĩa tác dụng
to lớn của GDTC và hoạt động thể thao trường học trong mục tiêu giáo dục toàn diện
nhằm đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Việc xác định nhiệm vụ đào tạo giáo viên cho trường học, các chương trình
mục tiêu nâng cao chất lượng GDTC, sức khỏe và bồi dưỡng các nhân tài thể thao học
sinh, sinh viên trong nhà trường các cấp đã được đề cập quy hoạch và phát triển GDTC
của Ngành Giáo Dục – Đào Tạo giai đoạn 1996 – 2000 và định hướng đến năm 2025
đã được nhà nước phê duyệt.
Nền văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa gia đình và văn hóa nhà trường đã tạo
nên những thang bậc phát triển tri thức đa dạng. Trong đó nền văn hóa nhà trường luôn
giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt, nhà trường cần phải chú trọng bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
vốn tri thức và các giá trị khách quan của nền văn hóa thể chất. Hiện nay hệ thống tổ
chức quản lý GDTC đã được hình thành và phát triển trong nhà trường các cấp từ địa
phương đến trung ương, khẳng định vị thế quan trọng trong công tác GDTC trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta.
Công tác TDTT trong trường học hiện nay, đáng chú ý là những tồn tại, hạn chế
cần được bổ sung, chỉnh sửa sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng GDTC cũng như thể thao trong trường học. Đẩy mạnh công tác
GDTC và thể thao trường học, bảo đảm yêu cầu phát triển toàn diện, góp phần nâng
cao thể trạng, tầm vóc người Việt Nam, làm nền tảng cho phát triển thể thao thành tích
cao và xây dựng lối sống lành mạnh.
13
1.2. Đặc điểm lứa tuổi sinh viên
1.2.1. Đặc điểm về tâm lý
Thời kỳ này cơ thể phát triển đầy đủ các chức năng tâm lý, đã hình thành nhân
cách và có tính độc lập cao. Là thời kỳ thống nhất hài hòa gắn liền với sự nâng cao một
cách rõ rệt về năng lực làm việc. Xã hội đặt ra cho lứa tuổi sinh viên những yêu cầu
cao và cũng tạo cho họ phát triển nhân cách một cách hoàn thiện.
Phát triển tự ý thức là một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi
thanh niên – sinh viên. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái
độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo
hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao đẳng,
đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về năng lực, phẩm chất mức độ phù hợp với yêu
cầu của nghề nghiệp, qua đó học xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể
hiện bằng hành động học tập trong lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ
khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học
tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ và phương
pháp học của bản thân.
Ở sinh viên bước đầu đã hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề
cuộc sống, học tập sinh hoạt hằng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở tuổi
này sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh
viên trải nghiệm bản thân, vì thế sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới đồng thời
họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi trang bị vốn sống,
dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa
tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề
nghiệp một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ khi họ thực sự yêu thích và
đam mê với nghề mà mình lựa chọn.
Sinh viên lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là những lớp
người giàu nghị lực ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên do quy luật phát triển không đồng
đều về mặt tâm lý do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác
nhau, không phải sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy
nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực
14
hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó sự quan tâm đúng mực của gia
đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và
khắc phục những mặt hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên.
Những hạn chế chung ở lứa tuổi này là thiếu sự chín chắn trong suy nghĩ, hành
động đặc biệt trong tiếp thu học hỏi cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa hội nhập
quốc tế trong điều kiện phát triển thông tin, nền văn hóa của chúng ta có nhiều điều
kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa trên thế giới. Việc học tập tiếp thu những
tinh hoa, văn hóa của các nền văn hóa khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy
cảm ham thích những điều mới lạ, thiếu kinh nghiệm từ đó dễ dàng tiếp nhận cả những
nét văn hóa không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và không có lợi cho bản thân họ.
Đây là thời kỳ hoàn thiện căn bản quá trình trưởng thành và lâu dài cả về mặt tâm
lý, là thời kì phát triển mạnh nhất vì vậy trong quá trình giáo dục cần phải nghiêm túc,
thẳng thắn, động viên khen thưởng kỷ luật đúng mức để giúp các em phát triển tốt và
hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần.
1.2.2. Đặc điểm về sinh lý
Đặc điểm hình thái
Đây là lứa tuổi từ 18 đến 25. Cơ thể đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, các bộ
phận vẫn tiếp tục lớn lên nhưng chậm dần, các chức năng sinh lý đã phát triển tương
đối ổn định, khả năng hoạt động của các cơ quan, bộ phận cơ thể cũng được nâng cao
hơn ở bậc trung học cơ sở cơ thể phát triển theo chiều cao nhiều hơn, đến độ tuổi này
thì phát triển theo chiều ngang nhiều hơn, tuy chiều cao vẫn phát triển nhưng chậm
dần. Mặt dù phát triển theo hai hướng hoạt động sinh lý khác nhau, nhưng sự khác
nhau ấy càng rõ rệt về tầm vóc, sức chịu đựng và tâm lý. Độ tuổi này cơ bắp đã phát
triển, tạo điều kiện thuận lợi để tập luyện phát triển sức mạnh và sức bền. Cơ thể con
người có năng lực hoạt động cao.
Hệ cơ xương
Trong thời kỳ này hệ xương đã có sự phát triển hoàn chỉnh, số lượng và chất lượng
các sợi cơ tăng lên đạt tới 43-45 khối lượng chung, độ bền vững các sợi cơ hoàn thiện
hơn nên năng lực vận động cao. Hoạt động thể lực ở lứa tuổi này diễn ra một cách
15
thuận lợi so với các lứa tuổi khác. Tuy nhiên do cơ thể có xu hướng phát triển theo bề
ngang mạnh nên cơ phát triển tương đối nhanh, số lượng cơ tăng chưa đều, nên khi
hoạt động thể thao dễ dẫn đến mệt mỏi.
Hệ hô hấp
Hệ hô hấp phát triển tương đối hoàn thiện, nhịp thở khoảng 14-16 lần trên phút.
Lứa tuổi này vòng ngực nam trung bình 67,30 cm – 72,22 cm. Dung tích tiếp xúc
không khí của phổi khoảng 100 – 120 m 2 . Hoạt động cơ thể tăng nhờ tăng khối lượng
của phổi và sự phát triển lồng ngực cũng như các cơ hô hấp. Trong hoạt động TDTT
lượng thông khí phổi tăng dần lên phụ thuộc vào công suất hoạt động. Hoạt động với
công suất thấp, thông khí phổi tăng lên chủ yếu là do tăng khí lưu thông. Hoạt động với
công suất tăng dần thì tần số hô hấp tăng song song với thông khí phổi, khi lưu thông
tăng lên gần tới giới hạn của dung tích sống. Như vậy để có lượng khí lưu thông tăng
cao, sự tham gia của các cơ vào quá trình hô hấp là yếu tố tất yếu.
Hệ thần kinh
Trong thời kỳ này hệ thần kinh phát triển tương đối hoàn chỉnh, hệ thống tín hiệu
thứ hai chiếm ưu thế hơn hệ thống tín hiệu thứ nhất, tính linh hoạt của hệ thống thần
kinh ở lứa tuổi này tương đối cao, quá trình ức chế cũng được tăng cường nhưng vẫn
yếu hơn hưng phấn. Chức năng của hệ thống thần kinh trung ương thể hiện ở ba đặc
trưng chủ yếu của quá trình thần kinh là cường độ hưng phấn và ức chế; tính cân bằng
của quá trình hưng phấn và ức chế; tính sinh hoạt chuyển đổi giữa hai quá trình trên.
Thời gian phản xạ là chỉ tiêu thăm dò đặc tính kết cấu và chức năng phản xạ vận động.
Nó gián tiếp phản ánh loại hình thần kinh, trực tiếp phản ánh trạng thái tức thời và khả
năng điều khiển của vỏ não đối với các cơ quan vận đông của con người. Nhìn chung
lứa tuổi này thể hiện sự hiếu động theo ước mơ hoài bão, đôi khi thiếu thực tế nhưng
có khát vọng đạt kết quả cao nhất trong mọi hoạt động.
Hệ tuần hoàn
Đang phát triển và hoàn thiện, lượng và sức chứa của tim phát triển tương đối hoàn
chỉnh. Tim của nam mỗi phút đập 70 – 80 lần, của nữ từ 75 – 80 lần. Huyết áp tối đa từ
100 – 150mmHg, huyết áp tối thiểu từ 65 – 80mmHg.
1.2.3. Đặc điểm các tố chất thể lực của sinh viên
16
Tố chất thể lực của con người là tổng hòa các chất lượng của cơ thể biểu hiện
trong từng điều kiện cụ thể của đời sống, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học và
hoạt động thể dục thể thao. Hoạt động thể lực có thể phát triển các mặt khác nhau của
năng lực hoạt động thể lực. Được chia làm năm loại cơ bản: Sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, mềm dẻo và khéo léo.
Tố chất sức nhanh
Sức nhanh là khả năng hoạt động với tốc độ cực hạn. Sức nhanh là một tổ hợp
thuộc tính chức năng của con người, nó quy định đặc tính tốc độ động tác, tần số động
tác cũng như phản ứng vận động.
Sức nhanh là một trong những tố chất tổng hợp của ba yếu tố cấu thành là: tốc độ
phản ứng, tốc độ động tác, tần số động tác. Yếu tố quyết định tốc độ của tất cả các hình
thức sức nhanh là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của
quá trình thần kinh thể hiện ở khả năng biến đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức
chế trong các trung tâm thần kinh. Sự thay đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế
làm các noron vận động có khả năng phát xung động với tần số cao làm cho đơn vị vận
động thả lỏng nhanh, đó là các yếu tố tăng cường tốc độ và tần số động tác. Tốc độ co
cơ trước tiên phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó cơ. Các bó cơ
có tỷ lệ sợi cơ nhanh và phụ thuộc vào hàm lượng ATP (Adenozin Tri Photphat) và CP
(Creatin Phophat). Đây là nguồn năng lượng có sẵn trong cơ giúp cho quá trình co cơ
được thực hiện nhanh.
Bằng sự dùng lực cao nhất, bằng biên độ và tần số động tác tối ưu phù hợp với cấu
tạo cơ thể của vận động viên phải tìm cách đạt được hoặc vượt được tốc độ cao nhất
hiện có của mình. Trước khi vận động với tốc độ tối đa vận động viên phải củng cố và
nắm vững kỹ thuật tốc độ trung bình và gần tối đa để phòng ngừa hiện tượng chuột rút.
Vì trong phần lớn các trường hợp chuyển hóa kỹ thuật thành yêu cầu tối đa rất phức
tạp, nên ngay từ đầu cần phải tìm cách củng cố kỹ thuật ở một mức độ động tác tăng
lên.
Thực hiện sức nhanh với các bài tập đơn điệu kéo dài không đề ra các yêu cầu cao
đối với cơ thể, đối với sự phát triển các tố chất thể lực và phẩm chất ý chí sẽ dẫn đến
việc kìm hãm sự phát triển tốc độ.
17
Tố chất sức mạnh
Sức mạnh là khả năng con người khắc phục lực cản bên ngoài hoặc chống lại lực
cản bằng sự nỗ lực của cơ bắp. Khả năng thực hiện sức mạnh phụ thuộc khả năng phối
hợp thần kinh cơ, khả năng nỗ lực ý chí, số lượng cơ bắp tham gia.
Sức mạnh được phát triển thông qua việc sử dụng các bài tập mang đặc điểm cấu
trúc giống với môn thể thao tự chọn, có thể toàn bộ hoặc từng phần. Các bài tập phát
triển sức mạnh được sử dụng nhiều trong thời kỳ chuẩn bị và giảm trong thời kỳ thi
đấu.
Dựa trên hoạt động của cơ bắp được chia thành: sức mạnh đơn thuần, sức mạnh
tốc độ, sức mạnh bộc phát. Riêng trong hoạt động TDTT thì sức mạnh được chia thành
3 hình thức: năng lực sức mạnh tối đa, năng lực sức mạnh nhanh, năng lực sức mạnh
bền. Sức mạnh là điều kiện quan trọng để nâng cao thành tích thể thao. Tuổi từ 18 – 25
là độ tuổi rất thuận lợi cho sự phát triển của cơ bắp nên trong quá trình huấn luyện cần
chú ý phát triển sức mạnh một cách hợp lý.
Tố chất sức bền
Sức bền là khả năng duy trì hoạt động trong thời gian dài chống lại mệt mỏi. Sức
bền đảm bảo cho người tập đạt được một cường độ tốt nhất (tốc độ, dùng lực, nhịp độ
chơi hoặc thi đấu, sử dụng sức lực) trong thời gian vận động kéo dài. Sức bền đảm bảo
chất lượng động tác cao, sức bền không những là nhân tố xác định và ảnh hưởng lớn
đến thành tích thi đấu mà còn là một nhân tố xác định việc tập luyện và khả năng chịu
đựng lượng vận động. Sức bền phát triển tốt cũng là một điều kiện quan trọng để phục
hồi nhanh.
Sức bền chung: là sức bền trong các hoạt động kéo dài với cường độ thấp, có sự
tham gia phần lớn các hệ thống các cơ. Được phát triển thông qua các bài tập thể lực.
Phương tiện tốt nhất để phát triển sức bền chung là chạy cự ly dài với cường độ điều
hòa. Bởi vì khi tập như vậy trong cơ thể các cơ quan được cải thiện, nhất là hệ thống
tim – mạch và hô hấp; ngoài ra cơ chân cũng được tốt hơn. Sức bền chung là cơ sở
vững chắc của vận động viên điền kinh trong huấn luyện chuyên môn. Vì sức bền là
thành phần tất yếu của nhân tố thể lực, nên nó quan hệ chặt chẽ với các tố chất thể lực
khác.
18
Sức bền chuyên môn: là năng lực duy trì khả năng vận động cao trong những loại
hình bài tập nhất định. Sức bền chuyên môn phục vụ trực tiếp cho việc hình thành và
thể hiện thành tích trong thể thao.
Sức bền tốc độ: là khả năng duy trì nhịp vận động cao để chuyển động nhanh nhất
trong thời gian nhất định.
Sức mạnh bền: là khả năng duy trì hoạt động với một lượng mang vác lớn.
Sức bền là tố chất ảnh hưởng rất nhiều đến các tố chất còn lại. Sức bền là yếu tố tất
yếu cần thiết cho cuộc sống học tập và hoạt động hằng ngày.
Tố chất mềm dẻo
Tố chất mềm dẻo là khả năng tiến hành các động tác với một biên độ lớn. Vì vậy,
biên độ động tác tối đa là thước đo cho mềm dẻo. Trong các công trình nghiên cứu
khoa học, khả năng mềm dẻo được biểu lộ chung bằng các độ góc hoặc cm. Trong thực
tiễn thể thao người ta thường đo khả năng mềm dẻo bằng những tiêu chuẩn chắc chắn
về độ lớn động tác trong các bài tập khác nhau như: gập thân về phía trước ở tư thế
ngồi; bàn tay chạm mũi chân khi đùi duỗi thẳng; thân chạm đùi khi đùi duỗi thẳng.
Mềm dẻo là tiền đề quan trọng để đạt được các yêu cầu về số lượng và chất lượng
động tác. Mềm dẻo được phát triển sớm nhất là ở lứa tuổi thiếu niên, đặc biệt là lứa
tuổi 11 đến 14, trước khi hệ vận động phát triển chưa hoàn chỉnh. Có thể tập mềm dẻo
khi tập thể dục buổi sáng, trong giờ khởi động. Các động tác làm tăng độ linh hoạt của
các khớp có tác dụng tích cực để chuẩn bị bước vào phần trọng động, đồng thời còn
ngăn ngừa chấn thương trong tập luyện. Tuổi trưởng thành tập mềm dẻo rất khó khăn
vì xương, cơ, khớp, giây chằng và hệ thần kinh đã phát triển hoàn thiện.
Tố chất khéo léo
Khéo léo là khả năng tiến hành những động tác phối hợp phức tạp và khả năng
hình thành những động tác mới phù hợp với yêu cầu vận động. Tố chất khéo léo là một
phức hợp các tiền đề của vận động viên để thực hiện thành công một hoạt động thể
thao nhất định. Năng lực này được xác định trước tiên là ở khả năng điều khiển động
tác và được hình thành phát triển trong tập luyện.
Khéo léo là tố chất vận động phụ thuộc vào mức độ phát triển của các tố chất khác
như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Mức độ phát triển khéo léo liên quan chặt chẽ với
19
trạng thái chức năng của thần kinh trung ương. Tập luyện phát triển sự khéo léo lâu dài
làm tăng độ linh hoạt của quá trình thần kinh, làm cho cơ hưng phấn và thả lỏng nhanh
hơn. Tập luyện các bài tập chuyên môn có thể làm tăng sự phối hợp hoạt động giữa các
vùng não khác nhau, do đó hoàn thiện sự phối hợp với các nhóm cơ đối kháng cũng
như hưởng ứng.
1.3. Đặc điểm xu hướng huấn luyện và hệ thống kỹ thuật cơ bản trong môn cầu
lông
1.3.1. Đặc điểm xu hướng thi đấu Cầu Lông hiện đại
Cầu Lông là môn thể thao đa dạng, thuộc loại hình các môn bóng không va chạm
trực tiếp bởi quy luật ngăn cách sân lưới và không gian trên lưới. Tính đối kháng căng
thẳng gay cấn giữa tấn công và phòng thủ được thể hiện ở những tình huống ghi được
điểm, đánh cầu hỏng thậm chí là tình huống phạm luật.
Đặc trưng thi đấu của môn Cầu Lông là sự hoạt động của cơ thể với phương,
chiều, tốc độ, độ vòng, điểm rơi, các cự li khác nhau nhằm tổ chức chiến thuật biến hòa
để đối phương không kịp đối phó.
Đặc điểm kỹ thuật, chiến thuật của Cầu Lông là: Nhanh, mạnh, chuẩn xác và luôn
có sự biến đổi, nên ngoài việc phát triển các tố chất thể lực chung, còn phải phát triển
năng lực các tố chất chuyên môn như: Tốc độ, mạnh tốc độ và mạnh bền. Bên cạnh đó
cần chú trọng hoàn thiện các kỹ thuật chiến thuật thi đấu thông qua động tác quay
người, nghiêng người, nghiêng vặn mình với tốc độ nhanh, sự biến đổi, phối hợp các
bộ phận cơ thể nhanh chóng, nhịp nhàng động tác đánh cầu phái nhanh, mạnh, chính
xác.
Thi đấu Cầu Lông hiện đại thường được thể hiện với tốc độ cao và cường độ lớn, đặc
biệt ở các giải lớn càng vào vòng trong càng mang tính chất căng thẳng và quyết liệt.
Vì vậy mỗi vận động viên đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về kỹ thuật chiến thuật, tâm
lý và thể lực. Bởi vì trong suốt thời gian diễn ra trận đấu hoặc ngay trong tình huống cụ
thể, thì vận động viên phải di chuyển hợp lý trên sân, bật nhảy tấn công liên tiếp, thực
hiện động tác rồi lại thực hiện kỹ thuật khác. Đặc điểm nổi bật của thi đấu Cầu Lông
hiện đại là tốc độ và tính linh hoạt cùng với kỹ thuật, chiến thuật đa dạng, chính xác, ổn
20
định và nhanh chóng biến hóa cách đánh, tạo ra thế mạnh cho mình. Đồng thời khai
thác điểm yếu đối phương để giành chiến thắng trong mọi tình huống.
Hiện nay Cầu Lông đỉnh cao đã thực hiện chiến thuật lấy công làm chính để giành
thắng lợi thì việc sử dụng kỹ thuật đập cầu trong mọi tình huống là rất quan trọng nó là
cơ sở tiền đề cho việc thực hiện các kỹ thuật khác.
1.3.2. Hệ thống các kỹ thuật cơ bản của Cầu Lông
- Nhóm kỹ thuật di chuyển:
Dựa trên nguyên lí về di chuyển và tác dụng của từng loại mà phân ra các kỹ thuật
di chuyển sau:
+ Kỹ thuật di chuyển đơn bước.
+ Kỹ thuật di chuyển đa bước.
+ Kỹ thuật di chuyển bước nhảy.
- Nhóm kỹ thuật phòng thủ:
Dựa trên nguyên lý và tác dụng của kỹ thuật phòng thủ mà phân kỹ thuật phòng
thủ làm hai loại:
+ Kỹ thuật phòng thủ phải thấp tay.
+ Kỹ thuật phòng thủ trái thấp tay.
- Nhóm kỹ thuật giao cầu:
Căn cứ vào mặt vợt tiếp xúc khi giao cầu mà phân kỹ thuật giao cầu làm hai loại:
+ Kỹ thuật giao cầu bằng mặt phải của vợt (giao cầu thuận tay).
+ Kỹ thuật giao cầu bằng mặt trái của vợt (giao cầu trái tay).
- Nhóm kỹ thuật tấn công:
Căn cứ vào yếu lĩnh kỹ thuật động tác và tác dụng của kỹ thuật mà phân thành các
kỹ thuật cơ bản:
+ Kỹ thuật đánh cầu phải cao tay.
+ Kỹ thuật đánh cầu trái cao tay.
+ Kỹ thuật đập cầu thuận tay.
+ Kỹ thuật đánh cầu trên đầu.
+ Kỹ thuật bỏ nhỏ cầu rơi gần lưới.
+ Kỹ thuật đánh cầu trên lưới.
21
+ Kỹ thuật chém cầu 2 góc lưới.
+ Kỹ thuật chặn cầu.
Trên là những kỹ thuật cơ bản, mỗi một kỹ thuật tấn công cơ bản trên khi tập luyện
đòi hỏi người tập phải đạt đến mức độ kỹ năng, kỹ sảo thì mới có thể thực hiện biến
dạng nhiều kỹ thuật khác và được vận dụng một cách linh hoạt.
1.4. Vai trò của kỹ thuật đập cầu trong tập luyện và thi đấu
1.4.1. Kỹ thuật đập cầu trong cầu lông
Kỹ thuật đập cầu trong tập luyện và thi đấu trong cầu lông là hết sức quan trọng
đối với các vận động viên. Trước hết là phân tích kỹ thuật đập cầu.
Tư thế chuẩn bị của kỹ thuật này là chân trái đứng trước, chân phải đứng sau, trọng
tâm dồn vào chân trước, lưng hơi cong, mắt dõi theo cầu, tay phải cầu vợt ở phía trước
mặt, vợt cao ngang chán, góc giữa cẳng tay và cánh tay khoảng 90 độ, tay trái thả lỏng
tự nhiên. Khi thấy đối phương đánh cầu sang cao trên đầu thì từ tư thế chuẩn bị nhanh
chóng di chuyển đến vị trí thích hợp để chuẩn bị đập cầu. Khi hai chân đã cố định để
thực hiện động tác thì chân trên nhanh chóng quay sang phải, trọng tâm chuyển từ chân
trước ra chân sau, đầu vợt trúc xuống, lúc này vai trái hơi cao hướng về hướng đánh
cầu, vai phải hạ thấp hơn phía sau. Sau đó nhanh chóng đạp mạnh mũi chân phải, kiễng
gót duỗi thẳng khớp gối, xoay lưng lật vai, tay phải đưa vợt từ dưới lên trên và ra
trước, lúc này toàn thân uốn cong hình cánh cung. Khi tiếp xúc cầu cơ thể vươn cao hết
mức, điểm tiếp xúc ở trước chán, khoảng cách bằng chiều dài tay cầm vợt. Quá trình
thực hiện động tác trọng tâm lại được chuyển từ chân sau ra chân trước, đồng thời gập
nhanh thân người để phối hợp lúc đập cầu, sau khi tiếp xúc vợt theo đà đưa từ trên
xuống dưới, sang trái, thân người có xu hướng lao về phía trước thì nhanh chóng bước
chân phải lên một bước nhỏ để giữ thăng bằng sau đó lại về tư thế chuẩn bị để đánh
quả cầu tiếp theo.
Kỹ thuật đập cầu đòi hỏi vận động viên phối hợp các động tác một cách nhuần
nhuyễn từ chân chuyển lên thân thể người, lên tay cầm vợt và cuối cùng, ở giai đoạn
này cần sử dụng độ linh hoạt của khớp cổ tay. Quan trọng nhất là giai đoạn ra sức cuối
cùng, ở giai đoạn này cần sử dụng độ linh hoạt của khớp cổ tay để cầu đi được nhanh
hơn, gây cho đối phương rơi vào thế bị động.
22
1.4.2. Vai trò của kỹ thuật đập cầu
Cầu Lông là môn thể thao đối kháng gián tiếp mà trong các môn đối kháng thì bao
giờ cũng có hệ thống kỹ thuật tấn công và hệ thống kỹ thuật phòng thủ. Kỹ thuật đập
cầu nằm trong hệ thống kỹ thuật tấn công. Đập cầu không chỉ giúp chúng ta giành điểm
trực tiếp mà còn tạo cơ hội quan trọng để giành thắng lợi trong các trận đấu.
Kỹ thuật đập cầu đòi hỏi VĐV phải có kỹ - chiến thuật, thể lực, tâm lý, năng lực
phán đoán và phản xạ linh hoạt. Ngoài ra còn có các yếu tố có liên quan như: sức
mạnh, điểm rơi, động tác.
Trong thi đấu, kỹ thuật đập cầu thường được các VĐV sử dụng khi đối phương
thực hiện những đường cầu bổng, cao cho nên việc phán đoán điểm rơi và khả năng di
chuyển của VĐV có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp cho VĐV thực hiện kỹ thuật một
cách tốt nhất.
Từ thực tế trên mà kỹ thuật đập cầu cần được quan tâm và tập luyện nhiều hơn
trong quá trình giảng dạy và huấn luyện của giáo viên đối với những người tập.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật đập cầu
Cầu Lông là một môn thể thao đối kháng cá nhân gián tiếp, nó đòi hỏi VĐV phải
hoàn thiện các kỹ thuật cơ bản là: phát cầu, đập cầu, chém cầu,… Vì vậy việc hoàn
thiện kỹ thuật cơ bản luôn được các HLV và VĐV coi trọng. Một trong những yêu cầu
của hệ thống kỹ thuật trong các môn đối kháng và các môn bóng là sức nhanh phản
ứng vận động. Đối với môn Cầu Lông nói chung và kỹ thuật đập cầu nói riêng thì sức
nhanh phản ứng vận động phức tạp và sức mạnh tốc độ có ý nghĩa quyết định. Tuy
nhiên để nâng cao được kỹ thuật này trong thi đấu cần phát triển toàn diện các tố chất:
thể lực, tâm lý, kỹ - chiến thuật.
1.5.1. Huấn luyện kỹ thuật
Việc chuẩn bị kỹ thuật, huấn luyện thể lực toàn diện cần được xem như là nền tảng
của thành tích thể thao cao. Trong huấn luyện kỹ thuật Cầu Lông việc chuẩn bị kỹ
thuật được xem như là một nền tảng để có thành tích cao, việc nắm vững kỹ thuật trong
từng giai đoạn huấn luyện ở mỗi VĐV là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công tác
huấn luyện. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, đối tượng tập luyện khác nhau thì việc huấn
luyện cùng những yêu cầu cũng khác nhau. Đòi hỏi các vận động viên phải tuân thủ
23