TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
---------------------------
TIỂU LUẬN
KIẾN TRÚC CÔNG CỘNG
HỌC VIÊN:
TRƯƠNG THỊ THU THỦY
LỚP:
CH2015K1
Hà Nội, 3-2016
Mục lục
2
I. Giới thiệu Kiến trúc sư Santiago Calatrava
Kiến trúc sư Santiago Calatrava sinh năm 1951 tại Valencia, Tây Ban Nha.
Ông học nghệ thuật và kiến trúc tại trường Đại học Kiến trúc Valencia (19681973), sau đó làm tiến sĩ kỹ thuật tại Đại học ETH Zurich, Thuỵ Sỹ năm 1981.
Calatrava mở văn phòng riêng vào cùng năm 1981. Thời gian đầu, ông chủ yếu
hành nghề ở Thuỵ Sỹ và Tây Ban Nha, giờ đây, ông có công trình trên hầu hết các
nước châu Âu và Mỹ La tinh.
Các công trình của ông được so sánh với những tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp
với những kết cấu phỏng sinh học theo phong cách Vị lai mới (Neo-futurist). Bối
cảnh của bộ phim khoa học viễn tưởng Tomorrowland năm 2015 được lấy cảm
hứng từ chính những công trình của Calatrava. Ông cũng là kiến trúc sư bị khách
hàng kiện với những khoản bồi thường lớn nhất thế giới
Calatrava được theo học tại đại học Valencia cả kiến trúc và kết cấu. Sau khi
nhận học vị Tiến sĩ kết cấu tại Đại học Kỹ thuật liên bang Thụy sĩ về hệ kết cấu
gấp nếp ông chuyển sang hành nghề kiến trúc.
Những công trình nổi bật gần đây của ông có Thành phố Nghệ thuật và khoa
học tại Valencia, Viện bảo tàng Milwaukee, ga tàu điện ngầm tại Newyork hoặc
bảo tàng Yuan Ze tại Đài Loan. Ông còn là tác giả của hơn 50 cây cầu có hình
dáng cực kì độc đáo.
Phong cách kiến trúc Calatrava nằm ở sự kết hợp uyển chuyển và chưa từng
có ở nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc và kết cấu công trình. Calatrava
dùng các đường nét kết cấu để biểu hiện một hình ảnh kiến trúc mà hình ảnh kiến
trúc đó luôn mang một ý nghĩa. Kiến trúc của ông được ví như “bài thơ của kiến
3
trúc đương đại”, kết hợp nhuần nhuyễn ba lĩnh vực quan trọng của nghệ thuật kiến
trúc, không gian kiến trúc và kết cấu công trình. Mỗi tác phẩm kiến trúc của ông
được tạo hình như một tác phẩm điêu khắc hiện đại. Chất thơ cảu tạo hình kiến
trúc cô đọng trong biểu hiện và ngôn ngữ điêu khắc. Những biểu hiện kiến trúc của
ông đều dựa trên tính hợp lý của kết cấu, sự tận dụng ánh sáng hay sử dụng vật
liệu. Điều dễ nhận thấy là trong kiến trúc của ông xuất hiện nhiều loại đường nét
và mặt cong bậc hai. Các nét vận động theo một quỹ đạo nhất định làm nên hiệu
ứng động ảo. Bạn có thể nhận thấy hiệu ứng này khi quan sát lồng chắn của quạt
máy đang quay.
4
Không gian kiến trúc của Calatrava thường là phi hình học. Khó có thể nhận
thấy rõ ràng giới hạn của các phần tường, trần, sàn, mái…Sự đan quyện của các
không gian chức năng, sự xâm nhập của ánh sáng bên ngoài làm cho không gian
nội thất bên trong biến hoá, tạo thành một mảng không gian liên tục, liên thông thị
giác trong và ngoài. Vật liệu xây dựng được ông sử dụng dù là bêtông, kim loại
hay kính đều vượt khỏi các giới hạn vật lý vốn có. Các trụ, các dầm bêtông, các
mặt cong bêtông đều nhẹ và có cảm giác như thể có thể bay lên khỏi mặt đất. Các
thanh thép trong cấu trúc mái dù to hay nhỏ đều chuyển động khi hiện diện trước
mắt ta.
Trên thế giới, không có nhiều kiến trúc sư sáng tạo được nhiều hình thức kết
cấu mới. Trước đây, các kỹ sư – kiến trúc sư như Edourdo Torroja, Pier Luigi
Nervi, Feliz Candela hay kiến trúc sư Eero Saarinen đã tạo ra các hình thức kiến
trúc bêtông nhẹ và biểu hiện tự do. Từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay, các
kiến trúc sư lớn như Kenzo Tange, Renzo Piano, Richard Rogers, Norman Foster
cũng đã ứng dụng các thành tựu kết cấu công trình để sáng tạo các hình thức kiến
trúc mới. Nhưng nhuần nhuyễn và đầy ma thuật như Santiago Calatrava thì chỉ có
ông là người duy nhất. Không có kiến trúc sư nào thiết kế nhiều cây cầu nổi tiếng
như ông. Với hơn chục cây cầu có hình dạng động và khẩu độ lớn ở hầu hết các
nước châu Âu và Nam Mỹ, ông thực sự là kiện tướng trong việc thiết kế cầu.
Calatrava cho ta thấy tạo hình công trình là không có giới hạn, dù đó là công trình
kiến trúc hay cây cầu, đập chứa nước, bờ kè hay con mương và cả những con tàu
vượt đại dương. Các công trình dưới bàn tay ma thuật của Calatrava đều đầy cảm
xúc và ấn tượng. Trung thành với ngôn ngữ tạo hình kiến trúc động ảo, kết hợp
logic giữa tạo hình kiến trúc và tuyển hình kết cấu, Calatrava đã xoá nhoà ranh giới
giữa điêu khắc động và kiến trúc động ảo, được mệnh danh là “Chủ nghĩa Biểu
hiện duy lý”.
5
II. Cuộc đời và sự nghiệp của Calatrava
Trong cuộc đời làm nghề, hiếm có kiến trúc sư nào lại có nhiều công trình
được người ta nhớ đến nhiều như Calatrava. Điều đó có vẻ khá hiển nhiên bởi
những sản phẩm kiến trúc ông tạo ra có bề ngoài ấn tượng, thu hút, với các dạng
hình học chuyển động, mô phỏng các loài bò sát. Trong sự nghiệp của mình ông đã
giành được rất nhiều giải thưởng được liệt kê như hình dứoi đây.
6
II.1. Các giải thưởng của KTS Calatrava
7
II.2. Các công trình đã thực hiện bởi Calatrava:
8
9
10
11
II.3. Các ấn phẩm liên quan đến Calatrava
12
13
II.4. Các công trình tiêu biểu:
II.4.1. Nhà ga đường sắt Lyon – Satolas (1989-1994)
Nhà ga đường sắt Lyon – Satolas nằm ở phía Bắc, cách thành phố Lyon
30km. Đó là điểm nối giữa hai tuyến giao thông: đường sắt cao tốc nối mạng toàn
châu Âu và sân bay Lyon. Công trình này KTS Calatrava giành được quyền thiết
kế trong một cuộc thi thiết kế mô hình kiến trúc nhà ga này năm 1990. Nhà ga
hành khách rộng 5.600m2, gồm hai phần chính: phòng đợi và mái che 6 tuyến
đường sắt dài 500m.
Ý tưởng tạo hình của Calatrava là hình ảnh một cánh chim khổng lồ, sải cánh
120m, rộng 100m, cao 40m. Hình ảnh này giống hình tượng nhà ga hành khách sân
bay Kennedy (TVA) của KTS Eero Saarinen. Tuy nhiên, với hình thức kết cấu và
vật liệu thép kính hiện đại, chất sinh học kiến trúc hiển thị rõ hơn, ngôn ngữ hình
tượng lung linh hơn và công trình kỳ vĩ hơn. Ở đây ông dùng hai thuật trình diễn
hiện đại, bộ khung xương kết cấu cho phần lưng và cánh chim trùng với những nét
mang ý nghĩa của hình tượng; và thuật biến đều của hình ảnh thị giác tạo nên hiệu
quả động ảo. Calatrava từng nói về các tác phẩm của mình là: “Các sáng tác của tôi
thiên về tạo hình hơn là hữu cơ. Chủ ý mà tôi muốn đạt được là sự giao hoà của
điêu khắc, giải phẫu học…Sáng tạo hình tượng thường không thể thoát khỏi các sơ
đồ mà thiên nhiên đã có”.
Ý tưởng, nghiên cứu thiết kế nhà ga Satolas
14
15
16
II.4.2. Nhà hoà nhạc Tenerife (đảo Canary, Tây Ban Nha) (1991-2003)
Quần đảo Canary thuộc Tây Ban Nha là một quần đảo ở Bắc Phi, gần Maroc.
Thành phố lớn nhất của Canary là Santa Cruz, vốn là một đô thị công nghiệp phát
triển. Đây cũng là một địa danh du lịch nổi tiếng châu Âu. Người ta đến đây để tắm
nắng và tiêu tiền trong các vũ trường. Chính quyền thành phố đã bỏ ra 75 triệu
USD để thuê tư vấn thiết kế quy hoạch và kiến trúc nhằm biến Canary thành một
đô thị văn hoá trong thế kỷ XXI. Calatrava nhận được hợp đồng thiết kế nhà hát
Tenerife năm 1992.
Nhà hát gồm 2 thính phòng: thính phòng giao hưởng với 1600 chỗ và thính
phòng nhạc nhẹ gồm 428 chỗ. Phòng đợi chính có diện tích 1.170m2 với ba lối tiếp
cận chính từ thành phố, trên núi và ngoài biển. Ngoại cảnh nhà hát còn có một
quảng trường rộng 15.570m2, một công viên hải dương. Gần đó là bến cảng và
khu phố Cabo Llanos cũ kỹ.
Điều đáng nói ở công trình này là ma lực tạo hình của Calatrava. Người ta ví
nhà hát này là con mắt khổng lồ đang chớp mi trước đại dương, là những cánh
buồm đang chuẩn bị ra khơi, là chiếc lá huyền thoại trong cổ tích xa xưa…mỗi
cảm nhận đều nói lên sự tinh tế và mê hoặc trong sáng tác của ông. Calatrava mê
những biến ảo động sinh ra từ các khối cong, tròn, lồi lõm, được ánh sáng mặt trời
vẩy nhuộm sáng tối, tạo nên nhịp động ảo đầy ma lực. Ông tạo cho nhà hát các
17
khối cong bêtông uốn quyện nhau, tiếp nối nhau trong các quỹ đạo phát triển, để
lại trong cảnh quan những biến điệu tạo hình mới lạ. Calatrava giải phóng các mặt
cong nội thất bằng một hệ thống phản âm dạng gấp nếp. Phần trên các gấp nếp là
hệ các mặt tam giác trổ đều các băng ánh sáng. Tất cả chụm lại trên đỉnh và ánh
sáng ùa vào nội thất, bùng ra như pháo hoa. Đây là một kiệt tác nghệ thuật dành
cho Canary.
II.4.3. Tòa nhà Turning Torso, Malimo Thụy Điển
18
II.4.4. Nhà ga hàng không Oriente, Lisbon, Bồ Đào Nha (1993-1998)
Là một phần trong dự án phát triển cho hội trợ thương mại Expo năm 1998 tại
Lisbon, Bồ Đào Nha, nhà ga hàng không Oriente nằm cách thủ đô cổ kính của Bồ
Đào Nha khoảng 5km, bên bờ sông Tagus. Điểm nổi bật của công trình này chính
là tạo hình của kết cấu sắt thép. Diện tích mà “các cây sắt thép trên đồi” che phủ là
78x238m. Nhà ga là điểm hội tụ của các tuyến giao thông toả đi trong thành phố.
19
II.4.5. Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee, Wiscosin, Mỹ (1996-2002)
Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee là tác phẩm đỉnh cao của kiến trúc động ảo,
phong cách kiến trúc hiện đại được kiến trúc sư Santiago Calatrava khởi xướng
trong những năm cuối thế kỷ XX. Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee là công trình
đầu tiên được xây dựng ở Mỹ của KTS Santiago Calatrava, cũng là công trình bảo
tàng đầu tiên mà ông thiết kế. Đúng ra, đây là côgn trình mở rộng bảo tàng
Milwaukee, trước đây đã được KTS Eero Saarinen thiết kế và KTS David Kahler
bổ sung đồ án. Tuy nhiên, Calatrava đã khiến thành phố Milwaukee có được một
biểu tượng, nước Mỹ có thêm một tượng đài kiến trúc, người dân Michigan có
thêm một niềm tự hào ngoài bia Brewing và xe máy Harley Davison.
Yếu tố giúp công trình trở nên bất hủ chính là tấm hệ che nắng di động được
thiết kế từ 72 thanh chắn dài nhờ hệ thống 22 xilanh thuỷ lực đẩy lên và khép
xuống. Trước khi khánh thành, không ít nhà phê bình kiến trúc cho rằng, “cỗ máy
kỳ cục này” không khả thi và tốn kém vô lối. Nhưng chính điều này lại hấp dẫn các
nhà đầu tư (nâng vốn từ 35 triệu USD lên thành 75 triệu USD) và thu hút hơn
32.000 người vào bảo tàng nhân ngày khai trương (14/10/2002)
Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee có ba yếu tố chính: nhà trưng bày, cầu đi bộ
nối vào bảo tàng với trung tâm Milwaukee và tấm mành che nắng di động. Cái làm
cho công trình trở nên bất hủ chính là tấm mành che nắng di động. Nếu như ở các
công trình trước, cái động chỉ là độgn ảo thì ở đây, cánh buồm hay mành che nắng
với 72 thanh chắn dài từ 8-31m chuyển động thật nhờ hệ thống 22 xilanh thuỷ lực
đẩy lên hay khép xuống. Bộ vây này nặng 110 tấn. Trước khi khánh thành, không
ít KTS, nhà phê bình kiến trúc cho rằng “cỗ máy kỳ cục này” không khả thi và tốn
kém vô lối. Cái mành nhiệt đới kia không thích hợp với khí hậu lạnh lẽo của
Milwaukee. Nhưng sau đó, vẻ tạo hình của cái mành động này đã hấp dẫn các nhà
20
đầu tư, nâng vốn từ 35 triệu USD lên thành 75 triệu USD. Công trình đã lôi kéo
32.000 người vào bảo tàng nhân ngày khai trương 14/10/2002.
Santiago Calatrava đã vượt qua hai KTS Nhật Bản là Arata Isozaki và
Fumihiko Maki trong cuộc thi chung kết để có được hợp đồng thiết kế công trình
này. Với bảo tàng nghệ thuật Milwaukee, ông đã trả được “món nợ kiến trúc” cho
người Tây Ban Nha bởi mấy năm trước, KTS người Mỹ Frank Gehry đã tặng cho
thành phố Bilbao, Bắc Tây Ban Nha, một món quà kiến trúc độc đáo là Bảo tàng
nghệ thuật Guggeheim, Bilbao.
II.4.6. Thành phố nghệ thuật và khoa học
Ý tưởng thành phố nghệ thuật và khoa học (Ciutat de les Arts i les Ciències /
tên tiếng Anh: City of the Arts and Sciences) là một khu liên hợp giải trí văn hóa
và kiến trúc cực kỳ hiện đại được xây dựng ở hạ lưu sông Turia. Đây được xem là
điểm đến du lịch quan trọng nhất hiện nay của thành phố Valencia, Tây Ban Nha.
Toàn cảnh thành phố nghệ thuật và khoa học thuộc Valencia, Tây Ban Nha
Toàn bộ khu phức hợp được thiết kế bởi hai kiến trúc sư tên tuổi tài ba lừng
danh khắp Tây Ban Nha, Santiago Calatrava và Félix Candela. Sau chín năm thi
công, ngày 9-10-2005, thành phố Valencia tự hào chào đón một trong những công
trình vĩ đại nhất của kiến trúc Tây Ban Nha: thành phố nghệ thuật và khoa học.
Đây là một khối kiến trúc đề cao giá trị đóng góp vô hạn của khoa học kỹ
thuật và sức ảnh hưởng to lớn của thiên nhiên, văn hóa và nghệ thuật, được tạo
thành bởi năm khu vực: khu Hemisfèric, khu Umbracle, Viện bảo tàng khoa học
21
Príncipe Felipe, Bảo tàng hải dương học Oceanográfico và lâu đài nghệ thuật
Queen Sofia.
Cả thành phố được xây dựng với ý tưởng chủ đạo xuyên suốt là tạo nên một
trung tâm văn hóa nghệ thuật và khoa học kỹ thuật lớn nhất châu Âu. Nhằm khẳng
định tầm vóc vĩ đại của dự án, Calatrava và Candela đã dựa trên tri thức của bốn
lĩnh vực nòng cốt, đó chính là vũ trụ, sinh quyển, con người và văn hóa để cấu
thành nền tảng cơ bản cũng như phần mở rộng nâng cao.
Tháng 5-1991, hội đồng thông qua việc chuyển giao mặt bằng, bốn tháng sau
dự án được giao cho Santiago Calatrava lên bản thiết kế. Có một vài thay đổi cho
đến khi Calatrava tìm được Félix Candela, cả hai tạo thành một bộ đôi ưng ý hoàn
hảo nhất cho một công trình vĩ đại. Đến cuối năm 1994, dự án chính thức ra mắt
công chúng. Tuy nhiên mãi đến năm 1996 công trình mới chính thức động thổ và
khởi công.
Tháng 4-1998, khu phức hợp mở cửa cho công chúng tham quan phần khu
Hemisfèric. 11 tháng sau, Tổng thống Tây Ban Nha Eduardo Zaplana khánh thành
Viện bảo tàng khoa học Príncipe Felipe dù công trình này vẫn chưa hoàn tất. Phải
mất 20 tháng sau đó bảo tàng mới được chính thức mở cửa cho công chúng.
Đến ngày 12-12-2002, khu Oceanográfico khai trương, trở thành viện hải dương
học lớn nhất châu Âu. Lâu đài nghệ thuật Queen Sofia, dù được dự trù trở thành
“đại bản doanh” thư viện phim ảnh của Valencian, nhưng sau đó lại là một trong
những nhà hát opera có cấu trúc xây dựng lớn nhất thế giới được hoàn thành vào
tháng 8-2005, hoàn thiện phần cuối cùng trong chuỗi quy mô của cả thành phố
nghệ thuật và khoa học.
Các tấm chắn nắng phía trước và dọc hai bên hông của Hemisfèric lúc mở ra đón
ánh sáng. Cấu trúc mái vòm vỏ sò ôm lấy và che phủ một cấu trúc nhỏ hơn bên
trong được gọi là cung thiên văn (Planetarium), trông như con ngươi bên trong
tròng mắt.
22
Mái vòm cong nghệ thuật của khu Umbracle
Toàn cảnh Viện bảo tàng khoa học Príncipe Felipe, với mô phỏng theo bộ xương
của loài khủng long thời tiền sử.
Bên trong Viện bảo tàng Príncipe Felipe
23
Bảo tàng hải dương học Oceanográfico
Đây là công viên hải dương học lớn nhất châu Âu quy tụ hơn 45.000 sinh vật thuộc
hơn 500 chủng loài thủy sinh với tổng diện tích trưng bày lên đến 110.000m2, có
thể chứa được hơn 42 triệu lít nước.
Cả thành phố nghệ thuật và khoa học ở Valencia được xem là một đại công trình
của các vị pharaoh vĩ đại. Tất cả đều là những thành tựu khoa học và nghệ thuật kỹ
thuật số đỉnh cao, tạo nên một kiệt tác thỏa mãn sự hiếu kỳ cũng như nhu cầu giải
trí của du khách ở tất cả lĩnh vực về văn hóa, nghệ thuật và khoa học kỹ thuật đến
nhiều thế kỷ sau. Đây là một biểu tượng chứa đựng hình ảnh tương lai của cả nhân
loại: một thành phố hiện đại trong lòng một thành phố cổ. Toàn bộ dự đã nhận
được rất nhiều lời khen ngợi cũng như gây nên nhiều cuộc tranh cãi.
II.4.7. Bảo tàng của thế hệ mai sau- Museum of Tomorrow (thành phố
Rio de Janeiro, Brazil) MUSEU DO AMANHÃ
24
Bảo tàng Ngày mai nằm trên Pier Maua, vị trí rất nổi bật trong khu vực cảng
Rio de Janeiro. Bảo tàng và khu vườn xung quanh của nó hình thành phần trung
tâm của Porto Maravilha - Marvellous Port, dự án phát triển đô thị lớn nhất trong
cả nước và là một trong những cam kết phục hồi thành phố Rio de Janeiro và phục
vụ cho Thế vận hội Olympic 2016. Cảng Maravilha hoạt động bao gồm sự phục
hồi, tái phát triển và phát triển kinh tế xã hội của một khu vực 5 triệu m 2, ví dụ như
đưa ra các tiêu chuẩn mới cho các dịch vụ đô thị, thực hiện thu rác chọn lọc, đường
chiếu sáng hiệu quả, xây dựng vỉa hè và làn đường xe đạp, cũng như việc trồng
15.000 cây xanh.
Sự hồi sinh của khu vực cảng ở Rio de Janeiro sẽ tái nhập nó với trung tâm
thành phố. Các cơ sở văn hóa mới như Museu do Amanhã sẽ làm cho nó trở thành
một trong những khu vực hấp dẫn nhất của thành phố. Tôn trọng và bổ sung những
điểm mốc lịch sử nước láng giềng, như Mosteiro de São Bento do Rio de Janeiro,
lớp vỏ Bảo tàng được hạn chế đến độ cao 18 m so với mực bến tàu. Điều này cho
phép bảo tàng này có thể sắp đặt hiện vật trên 2 tầng, trong khi giữ lại tối đa không
gian cho các khu vườn công cộng. Khoảng 5000 m 2 không gian triển lãm tạm thời
và vĩnh viễn và các khu vực bổ sung, tổng hợp với diện tích khoảng 12.600 m 2.
Tầng trên sẽ trưng bày các hiện vật dài hạn, không gian triển lãm với trần ngoạn
mục cao hơn 10 m và cung cấp tầm nhìn toàn cảnh vịnh Guanabara.
25