Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ MÔN VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.56 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA VĂN HỌC & NGÔN NGỮ
KHOÁ 2010 - 2014
******

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ MÔN VĂN HỌC VIỆT
NAM 1930 -1945

NỖI ĐAU TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

Giảng viên: ThS. Lê Thụy Tường Vy
Nhóm thực hiện:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Nguyễn Thị Bảo Chăm
Lê Thị Mai Châu
Nguyễn Thị Luyên
Trần Thiên Lý
Huỳnh Thị Nga
Nguyễn Duy Phong
Lê Thị Kim Trang

1056010007


1056010009
1056010096
1056010100
1056010109
1056010143
1056010210

*********
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 5 năm 2013


MỤC LỤC

Mở Đầu
Trải qua một quá trình xây dựng và vun đắp, nền văn học Việt Nam được hình
thành và phát triển qua nhiều chặng đường. Chặng đường 1930 – 1945 là một trong
những mốc quan trọng hình thành và làm nổi bật tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ cùng
các tác phẩm của ông. Trong chặng đường gian nan và khó nhọc này, nhiều phong trào,
nhiều vần thơ được cất lên để làm nổi bật cái tôi cá nhân hay một nỗi niềm của bản thân
với cuộc sống. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của giai đoạn này với
nhiều vần thơ mang nhiều nỗi chua cay, xót xa. Nỗi niềm ấy phải chăng là của chính bản
thân ông hay là nỗi niềm của toàn bộ những con người cùng tầng lớp như ông?
Trong phạm vi của bài tiểu luận này, trên cơ sở tìm hiểu về tác giả và những sáng
tác của ông, chúng tôi không có ý định nghiên cứu về mọi khía cạnh và vấn đề rộng rãi
mà chỉ đi vào tìm hiểu và phân tích khía cạnh “Nỗi đau trong thơ Hàn Mặc Tử” để từ đó

2


có cái nhìn toàn vẹn và cơ bản nhất về vấn đề con người và thời đại cùng nỗi niềm mà tác

giả đã đặt trong những vần thơ đậm đà tính chất trữ tình của ông.

1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử
1.1 Cuộc đời

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh sinh 22 tháng 9/1912 – mất 11
tháng 11/1940. Ông là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện
đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Ông sinh ra ở làng Lệ Mỹ, Đồng
Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công
giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có
người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở
Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên
người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ NGuyễn theo mẫu
tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy ( con cụ Nguyễn Long,
ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con: 1-Nguyễn Bá Nhân ( tức nhà
3


thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn
Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử).
5- Nguyễn Bá Tín ( người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 1302-1959). 6- Nguyễn Bá Hiếu ; 2 người em út: Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích
giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông
ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã
theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923),
Pellerin Huế (1926).
Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp
gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu
giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học
bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định

vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi
ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi
thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn,
nên thơ nảy nở giữa hai người.
Khoảng đầu năm 1935, gia đình ông đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong
trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong
ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi
đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo
xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ
ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại
bệnh thuộc loại “phong ngứa” gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ
đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở
bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi.
Trải qua một quá trình khám và điều trị không thành công, ông bỏ tất cả quay về Quy
Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ
trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm1940 tại nhà thương này vì chứng
bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.
Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác
nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có
những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng
Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
1.2 Sự nghiệp

Tuy cuộc đời của Hàn Mặc Tử có nhiều bi thương, đau khổ về tinh thần lẫn thể
xác nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong
phong trào thơ mới. Ông đã bắt đầu sự nghiệp làm thơ của mình từ năm 14, 15 tuổi cùng
4



với các bút danh : Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh,…bắt đầu bằng thơ cổ điển
Đường luật, sau đó chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng thơ mới lãng mạn.
Năm 21 tuổi ông làm việc tại Sở Đạc Điền, sau đó đến Sài Gòn, ông làm phóng viên
phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận, cho đến những năm 1936 ông cho ra nhiều tác
phẩm chính.
 Tác phẩm chính của Hàn Mặc Tử, gồm có:
• Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật)
• Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc ông chưa qua đời)
• Thơ Điên (hay còn gọi là Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2.

Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên năm 1938.
• Xuân như ý
• Thượng Thanh Khí (thơ)
• Cẩm Châu Duyên
• Duyên kỳ ngộ (kịch thơ – 1939)
• Quần tiên hội (kịch thơ-đang viết dở năm 1940)
• Chơi Giữa Mùa Trăng (thơ văn xuôi – năm 1940)
Qua diện mạo thơ hết sức tạp và đầy bí ẩn của thơ Hàn Mặc Tử ta có thể cảm nhận
được tính chất thơ trong ông có sự đan xen, của những thứ gần gũi thân thuộc, thanh
khiết, thiêng liêng nhất, cả những gì gê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong đó có trăng,
hoa, nhạc … chen lẫn hồn, máu, yêu ma,…và chính đằng sau cái thế giới hình ảnh phức
tạp kia, vẫn hiện rõ một con người luôn thương yêu cuộc sống. Ngay cả lúc linh hồn
muốn rời bỏ trần gian để bay lên cõi siêu nhiên- mà ông gọi là cõi “Thượng thanh khí”
thì người ta vẫn thấy rõ ở đó là một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Đó là
cái cốt lõi trong thơ Hàn Mặc Tử.
2. Sự giằng xé về nỗi đau tinh thần trong thơ Hàn Mặc Tử
Nhắc đến Hàn Mặc Tử đã có nhiều ý kiến bình luận về thơ cùng nỗi niềm của ông.
Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng: “…Trong những bài thơ siêu thực của Hàn
Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế
gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới

cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy
và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so
sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị
đối với người đọc”.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, nỗi đau giằng xé giữa linh hồn gào thét muốn được vui sống
nhưng thể xác đã tàn tạ, giữa tâm hồn còn tươi mát yêu đời mà cơ thể đã tới hồi tan
biến... những phút cuối cùng của Hàn Mặc Tử đã gói gém nỗi khát khao yêu, khát khao
sống của thi nhân cả đời vì một chữ “thơ”. Ông đau đớn, bệnh tật và tủi phận, nhưng
5


chưa bao giờ Hàn Mặc Tử ngừng yêu thơ, yêu người. Rời xa cuộc sống bình thường ẩn
vào trại cùi sống đời con bệnh, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn thi sĩ, khát khao được cống
hiến, được vắt kiệt sức lực để làm ra những vần thơ lay động lòng người vẫn luôn cuộn
chảy. Trong con người của ông có một cảm giác của sự bải hoải muốn kết thúc mọi mệt
mỏi của thân xác đang ngày đêm cào cấu, giằng co với sức sống mãnh liệt, khát khao
được tồn tại của linh hồn. Thân xác đòi được giải thoát, nhưng linh hồn vẫn muốn được
sống để níu kéo những ước mơ chưa kịp hoàn thành. Tập thơ “Điên” trong 100 ngày
cuối cùng còn đang dang dở, là nỗi đam mê đầy cay đắng của thi nhân trước số mệnh
chịu nhiều trái ngang.
Nỗi đau tinh thần khi chứng kiến người yêu đi lấy chồng, cộng với cái đau bởi căn
bệnh "tứ chứng nan y" đã khiến Hàn Mặc Tử chới với. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt
nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa
linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma
quái và xa lạ với cuộc đời thực”.
Ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc, ông chỉ gào thét ở trong thơ mà
thô. Hàn Mặc Tử thể hiện nổi đau của mình vào trong thơ, thơ như là tiếng lòng của ông.
Mỗi tiếng thơ đều xuất phát từ một tiếng lòng riêng. Một loại hình thơ, xét một mặt nào
đó là một tiếng lòng được điêu thức hóa. Mà tiếng lòng là cảm xúc, cái nguồn cảm xúc
tìm đến thơ Hàn Mặc Tử chính là sự đau thương, sự giằng xé trong bản thân con người

ông. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trong tập “thơ điên” của ông có thể cho chúng ta thấy
được cảm xúc và tình yêu trong con người ông mãnh liệt nhưng không kém phần giằng
xé. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của
một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là
cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ
một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng
của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn
nhà thơ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
6


Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Bài thơ bồng bềnh trong sương khói hư ảo. Con người, cảnh vật dường như có
thật, mà cũng dường như là hư ảo, như có, như không. Cái hay của bài thơ là đã diễn đạt
một cách tinh tế cái mờ ảo của cảnh vật, con người bằng một nỗi nhớ thiết tha. Đọc bài
thơ người ta cảm tưởng có một nỗi lòng như đang nhớ, đang yêu, mà không rõ yêu ai,
nhớ ai cụ thể cả. Cái cảm xúc ấy cũng chìm lẫn vào sương khói khiến cho bài thơ có một
vẻ đẹp kỳ lạ. Những câu thơ đầu của bài thơ được tác giả vẽ lên rất đẹp nhưng thực tại
phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ khi gần về cuối, cái buồn sẵn có kết hợp với vần

thơ của tác giả đã làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường
của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên
không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm
trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó
là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Có thể
thấy được rằng Hàn Mặc Tử là con người đau đớn trong tình yêu nhưng lại có sức bay
bổng đến kì lạ khi làm thơ tình, chính vì sự giằng xé trong con người ông đã giúp chính
ông làm nên đều kì diệu ấy, một dòng thơ mà khó có ai “điên” theo đúng nghĩa của chữ
‘điên” như ông. Nỗi đau của người mang trong mình một tình yêu quá mãnh liệt, nhưng
lại vô vọng và tuyệt vọng. Thiết tha sống nhưng luôn phải đối mặt với việc chia lìa sự
sống, nên tuyệt vọng là trạng thái thường trực trong tinh thần Hàn Mặc Tử. Có thể nói
trong khoảng đời bệnh hoạn của Hàn Mạc Tử, thi sĩ có hai mối tình lớn, hai mối tình gây
thất vọng cho người thơ: đó là tình Mộng Cầm và tình Thương Thương.
Cô gái mang tên Thương Thương là một nàng thơ huyền diệu bởi Hàn Mặc Tử
không chỉ đơn thuần làm thơ về cô như những hình bóng giai nhân khác. Trong tâm
tưởng ông, Thương Thương không phải là người của cõi trần.
Trong bài Tiêu sầu, chàng đưa mình bay lên tận cung trăng để gặp "Hằng Nga
Thương Thương", còn trong vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Cẩm châu duyên, Thương
Thương trở thành tiên nữ. Chính vì vậy, một số tài liệu cho rằng Thương Thương không
phải là người có thật mà chỉ là cái tên mượn. Trần Thị Huyền Trang, cháu nhà thơ Quách
7


Tấn viết trong Hàn Mặc Tử - hương thơm và mật đắng: "Thương Thương không phải là
một nhân vật có thật. Tất cả mọi chuyện đều do Trần Thanh Địch sắp đặt ra". Hàn Mặc
Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều
hình bóng giai nhân đã đi vào thơ chàng. Ngoài Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình,
Thương Thương là người phụ nữ thứ tư ảnh hưởng sâu sắc tới thơ Hàn Mặc Tử. Trong
từng giai đoạn còn có những người phụ nữ khác để lại dấu ấn trong thơ ông. Đầu tiên là
Ngọc Sương, chị ruột của Bích Khê, bạn Hàn Mặc Tử, dì ruột của Mộng Cầm. Khi Mộng

Cầm đi lấy chồng, Bích Khê thấy bạn buồn quá bèn tặng tấm hình của hai chị em cho
Hàn Mặc Tử và giới thiệu đôi chút về Ngọc Sương. Do đó mà Ngọc Sương cũng đã đi
vào thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên Ngọc Sương không hề có mối giao lưu nào với Hàn Mặc
Tử dù qua thư từ. Mãi đến khi Bích Khê mất vào năm 1946, Ngọc Sương soạn lại di cảo
của em mới biết rõ một số bài thơ Hàn Mặc Tử viết về mình.
Một người nữa là Thanh Huy, tên thật là Võ Thị Thu Huy, chị vợ nhà văn Trần
Thanh Địch, khi đó đang sinh sống ở Phan Thiết. Cũng như Ngọc Sương, Thanh Huy chỉ
làm quen qua thư chứ chưa gặp mặt Hàn Mặc Tử. Đó là lúc Tử đã phát bệnh nặng. Thanh
Huy cũng đang tập tành làm thơ, được Bích Khê khuyên nên viết thư động viên Hàn Mặc
Tử. Khi Tử đang chán nản buồn phiền, có bức thư bỏ trong phong bì màu xanh của
Thanh Huy gửi đến. Lập tức nhà thơ sáng tác bài “Bức thư xanh”:
"Thanh Huy hỡi nàng chưa là châu báu
Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ
Duyên làm sao cho Trí đến dại khờ
Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm
Ta đã nuốt và hình như đã cắn
Cả lời thơ cho vãi máu nàng ra".
Bài thơ viết một cách dữ dội, Thanh Huy đọc và thôi không liên lạc với Hàn Mặc
Tử nữa vì khiếp đảm. Mỹ Thiện cũng là một nàng thơ để lại dấu ấn mạnh trong thơ Hàn
Mặc Tử. Nàng người gốc Huế, ở cạnh nhà Hàn Mặc Tử tại thành phố Quy Nhơn. Nàng
sống với cha và bà mẹ kế xấp xỉ tuổi nàng. Mỹ Thiện rất giỏi âm nhạc dân tộc, nổi tiếng
là một cây đàn tỳ bà tài hoa, đặc biệt có thể chơi đủ năm cây đàn tranh, nhị, nguyệt, bầu,
tỳ bà. Những đêm khuya, nàng thường dạo đàn tranh réo rắt. Hàn Mặc Tử chưa một lần
8


gặp mặt Mỹ Thiện nhưng chàng bị ám ảnh bởi tiếng đàn mơ tưởng đến người ngọc. Mỹ
Thiện không thoát khỏi hồng nhan bạc phận. Sống với người mẹ kế, nàng thường xuyên
chịu đựng những ganh ghét. Và nàng đã kết thúc đời mình bằng những viên thuốc ngủ.
Cái chết của Mỹ Thiện đánh tan mọi ngờ vực của những người ác ý và bà mẹ kế là nàng

đã hoang thai. Các bác sĩ đã công bố nàng vẫn là cô gái trinh tiết. Cái chết ấy đã khiến
Hàn Mặc Tử đau buồn, tiếc thương, và bài thơ “Cô gái đồng trinh” ra đời tức khắc:
"Đêm qua trăng vướng trên cành trúc
Cô láng giềng bên chết thiệt rồi
Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới
Chưa hề âu yếm ở đầu môi
Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình".
Hình bóng Mỹ Thiện từ đó còn trở lại nhiều lần trong thơ chàng. Nguyễn Bá Tín
em chàng kể lại: "Cô gái đồng trinh từ đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ, một nàng thơ
dẫn dắt anh vào những nhớ thương bàng bạc bâng quơ, hoặc hòa nhập vào những lời thơ
quằn quại xót xa mà cuộc đời nàng đã đi qua ngắn ngủi".
Tình ái là phạm vi bí mật nhất, u ẩn nhất của một đời người. Những mối tình của
Hàn Mặc Tử trong cuộc đời khổ đau của anh vừa thực vừa hư, thực đến não nùng tuyệt
vọng như đối với Mộng Cầm, hư như sương khói, mơ hồ như đối với Ngọc Sương và
Thương Thương, nhưng tất cả đã để lại cho chính cuộc đời nhà thơ những nỗi đau giằng
xé tinh thần để đem đến thơ của Hàn Mặc Tử những tác phẩm tuyệt vời trong nền văn
học.
Gia đình và những người thân cũng là một phần tạo nên sự giằng xé tinh thần cho
Hàn Mặc Tử cũng như là trong thơ. Sống bên những người bạn mắc bệnh giống mình,
Hàn Mặc Tử dù được san sẻ, nhưng trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, anh vẫn
không giấu nổi sự hoang mang, lo sợ khi chứng kiến cái chết đang cận kề. Trong cùng
một con người Mặc Tử, sự bải hoải muốn kết thúc mọi mệt mỏi của thân xác đang ngày
đêm cào cấu, giằng co với sức sống mãnh liệt, khát khao được tồn tại của linh hồn. Thân
xác đòi được giải thoát, nhưng linh hồn vẫn muốn được sống để níu kéo những ước mơ
9


chưa kịp hoàn thành. Tập thơ Điên trong 100 ngày cuối cùng còn đang dang dở, là nỗi
đam mê đầy cay đắng của thi nhân trước số mệnh chịu nhiều trái ngang.

Con người cô đơn là một motif quen thuộc của thơ lãng mạn. Xuân Diệu, Nguyễn
Bính cô đơn vì không tìm thấy sự chia sẻ, cảm thông của ngoại giới “Thôn đoài ngồi nhớ
thôn Đông/ Cau thôn đoài nhớ giầu không thôn nào”. Hàn Mặc Tử cô đơn vì bị cách ly
khỏi thế giới:
“Anh nằm ngoài sự thực
Em nằm trong chiêm bao”.
Khoảng cách chia ly trong thơ ông không phải là sự chia cắt trong một không gian
giới hạn như bên ấy, bên này, thôn Đoài, thôn Đông mà là sự chia cắt trong hai không
gian hoàn toàn cách biệt ngoài sự thực, trong chiêm bao, ngoài mây nước, bên kia trời…
Chính vì khoảng cách không gian vô cùng như vậy mà nỗi cô liêu của con người càng trở
nên khủng khiếp “một vũng cô liêu cũ vạn đời”. Những đau thương thể xác và tinh thần
của ông bộ lộ thành tiếng nấc, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng rú. Đó là nỗi đau sâu sắc, trần
trụi, mang tầm vóc vũ trụ: “Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm/ Nhớ thương còn một
nắm xương thôi” (Muôn năm sầu thảm). Nỗi đau được diễn tả bằng nhịp điệu của sự
cuồng trí vô vọng:
Anh nuốt phứt hàng chữ
Anh cắn vỡ lời thơ
Anh cắn cắn cắn cắn
Hơi thở đứt làm tư.
(Anh điên)
Hoặc bằng nhịp điệu buồn thấm thía:
Rao rao gió thổi phương xa lại
Buồn đâu say ngắm áo xuân ai.
Lay bay lời hát, ơ buồn lạ
E buồn trong mộng có đêm nay.
(Buồn ở đây)
Từ điểm nhìn của con người bi quan các nhà Thơ mới hay nói đến cái chết. Trong
thơ Hàn Mặc Tử còn có những cái chết kì dị, lạ thường Mây chết đuối, trăng tự tử. Phải
10



chăng đó là nỗi ám ảnh về cái chết đang đến gần với tác giả, và phải chăng cũng từ thực
tế của thân xác đau thương mà trong thơ ông có nhiều hình ảnh máu đến thế? Làn môi
thiếu nữ tươi như máu, mặt nhật tan thành máu, gánh máu, máu đang tươi…
Cuộc đời trong quan niệm của các nhà thơ lãng mạn là sự dở dang, không trọn
vẹn. Thơ Hàn Mặc Tử cũng nằm trong cảm hứng ấy. Cũng như Xuân Diệu, ngay khi sự
sống đương hồi mơn mởn trong mùa xuân tươi thắm là thế Hàn Mặc Tử đã nhìn thấy cái
kết cục ảo não của nó:
Sóng cỏ xanh tươi gợm tới trời
Bao cô thiếu nữ hát bên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
(Mùa xuân chín)
Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tài năng nghệ sĩ là cái lạ, cái độc đáo. Sáu
mươi năm trước, đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh viết: “Ta chỉ thấy trong văn thơ cổ
kim không có gì kinh dị hơn”. Thơ ca Hàn Mặc Tử lạ trong cách suy nghĩ, lập ý, so sánh,
trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh. Và cái lạ nhất là một con người phải trải qua những nỗi
đau thể xác và tinh thần ghê gớm như vậy nhưng giọng thơ nói chung không bi quan mà
luôn mơ ước, hướng tới thế giới vĩnh hằng “tứ thời xuân non nước” và cũng là con người
đã viết ra một trong những vần thơ trong sáng nhất của thơ ca Việt Nam:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xuân sang
(Mùa xuân chín).
Chính sự mặc cảm cùng với sự cô đơn, trốn tránh quãng đời còn lại không người thân.
Gia đình, bạn bè nhiều đã tạo nên những cẩm xúc bi quan, buồn tủi, uể oải, muốn chết
của nhà thơ. Những cảm xúc ấy được ông dồn nén và đưa vào thơ chứ không kêu rên bất
kỳ một ai. Hai yếu tố tình yêu và gia đình tạo nên sự giằng xé tinh thần dữ dội trong nhà


11


thơ để ông viết nên những bài thơ nhiều cảm xúc dữ dội nhưng đầy tình cảm, xót thương,
tạo dấu ấn riêng cho thơ ca Việt Nam lúc bấy giờ và cho đến mai sau.
3. Sự tê tái về nỗi đau thể xác trong thơ Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có số phận kì lạ. Cuộc đời ông có biết bao người con gái,
đến rồi đi, để lại nhiều tang thương vì tình yêu dang dở. Tiếng thơ ông thống thiết nỗi bi
ai về tình yêu trắc trở, người phụ rẫy người. Tuy nhiên, thơ ông không chỉ tồn tại nỗi đau
về tinh thần. Thơ Hàn Mặc Tử trong nhiều bài thơ còn bộc lộ nỗi đau đớn khôn cùng. Từ
những bài thơ sáng tác trong lúc ông mới bắt đầu phát bệnh đến những bài thơ trong phần
cuối của tập “Thơ điên” người đọc dần bị nhấn chìm vào vũng đau thương của chính thi
sĩ, đắm mình trong đó và cảm thương chàng thi sĩ tài hoa bạc mệnh.
Nỗi đau đớn về thể xác của Hàn Mặc Tử đầu tiên xuất phát từ bệnh tật. Bệnh tật dày
vò, thơ ông vang lên tiếng kêu sầu khổ, thê lương. Trạng thái đau đớn nhìn chung có thể
chia ra làm ba cấp bậc. Ban đầu khi bệnh tật hành hạ, đau đớn được cảm nhận một cách
cụ thể, máu thịt. Vượt qua trạng thái đau đớn xác thịt là những mơ tưởng mông lung,
những ảo ảnh chập chờn. Cuối cùng khi nỗi đau đã lên tới cực đỉnh, nhà thơ điên cuồng
trong một thế giới khác xa rời mặt đất.
Ở trạng thái đầu tiên, thơ Hàn Mạc Tử nhuốm màu thê lương. Dường như niềm đau
của cả đời này, của cả thiên hạ này đều dồn hết vào từng câu từng chữ trong thơ Hàn Mặc
Tử. Bệnh tật tuy đã dần tàn phá thể xác, nhà thơ lúc này như còn “tỉnh trí”, ông nhận thức
được tình cảnh của mình, thốt lên những lời ảo não, khổ sầu:
Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt, bời bời ruột gan
(Muôn năm sầu thảm)
Bệnh tật dày vò ông từng cơn, bắt ông phải đối mặt với đau đớn thể xác:

Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết
Khi say sưa lượn sóng với triền miên
(Biển hồn ta)
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
(Hồn là ai)
12


Đến cả khi say sưa trong mộng ảo, nỗi đau thể xác vẫn cứ kéo ông về thực tại:
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
(Say trăng)
Từ những đau đớn về thể xác, bệnh tật đưa ông đến một trang thái khác, trạng thái
của những ám ảnh, cuồng dại và điên loạn. Thơ ông ban đầu đã có xuất hiện máu, hồn và
trăng. Nay ba hình ảnh đó ngày một trở nên dày đặc.
Ám ảnh đầu tiên là máu. Vì bệnh nên Hàn Mặc Tử thường xuyên trông thấy máu
của mình. Thơ ông bắt đầu có máu. Máu xuất hiện một cách kỳ lạ, phi thường từ những
thủ pháp phóng đại, cường điệu trong thơ:
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ si?
….
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu
(Những giọt lệ)
Máu tim ta tuôn ra làm biển cả
Mà sóng lòng rần rật như mây trôi
(Biển hồn ta)

Máu ám ảnh nhà thơ, sinh ra những tưởng tượng kỳ hoặc:
Lụa trời ai dệt với ai căng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn
Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang
(Cuối thu)
Từ tưởng tượng kỳ hoặc sinh ra những ước muốn cuồng loạn:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng nắm lại hồn thơ ta đang xiết
Cả lòng ta trong mớ chữ run rinh
13


Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng
Cho ngây người tê dại đến tâm can
Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng
Mà muôn năm rướm máu trong không gian
(Rướm máu)
Hình ảnh thứ hai xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử là “trăng”. Trăng xuấthiện dưới
nhiều khuôn dạng, đôi khi là một thực thể bình thường, đôi khi đ ẹp như một nàng tiên và
có đôi khi ma mị như yêu tinh. Trăng là hình ảnh tiêu biểu nhất cho những trạng thái đau
đớn của Hàn Mặc Tử, cho những xúc cảm khi nhà thơ đối mặt với bệnh tật. Một loạt
những bài thơ ông sáng tác về trăng như: Ngủ với trăng, say trăng, trăng tự tử, chơi trên
trăng, một miệng trăng… là một loạt điên cuồng và rồ dại. Những xúc cảm bình thường
của những con người bình thường dường như không còn dấu vết trong thơ Hàn Mặc Tử.

Xúc cảm của ông, rung động của ông vỡ ra trong không khí, như tiếng thét mơ hồ và ám
ảnh. Trăng trở thành cá thể thiêng liêng, là sở hữu của thi sĩ, là người tri kỉ để ông bộc
bạch nỗi đau của chính mình:
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng Trăng Trăng, Trăng!
Ai mua Trăng tôi bán TRăng cho
Không bán đoàn viên ước hẹn hò
(Trăng vàng trăng ngọc)
Hình ảnh thứ ba là hồn. Hồn xuất hiện khi nỗi đau thể xác đã phình to. Thế giới
thực không có khả năng chứa đựng nỗi đau quá lớn này, nên nhà thơ tìm cho mình một
thế giới khác, thế giới của linh hồn. Hồn nhà thơ xuất ra khỏi xác, rời xa đau thương
(nhưng thực ra là đi đến một trạng thái đau thương khác khó nắm bắt hơn).
Hồn là ai là ai tôi chẳng biết
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười
Hồn vội mướm cho tôi bao ánh sáng
Tôi chết giả và no nê vô vạn
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng
Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng
Hồn đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến
(Hồn là ai)
Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng
Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương
Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng
Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương
(Hồn lìa khỏi xác)
14


Hồn, Trăng và Máu ba hình ảnh mà đau đớn từ bệnh tật dồn nén thành đã tạo nên
sự tang thương trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ ba hình ảnh trên, những trạng thái điên cuồng,

man dại, những ám ảnh, ảo tưởng, những lo sợ, sầu muộn của ông đều hiện rõ trong thơ.
Và từ những xúc cảm đó, đau đớn trong thể xác đạt tới một trạng thái mới, cao hơn, càng
khó nắm bắt hơn nữa.
Mới nay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, lâu lắm, hãi dường bao!
Ai tới đó chẳng mê man thần trí
Tòa châu báu kết bằng hương kỳ dị
Của tình yêu rung động lớp hào quang
…..
A ha ha? Say sưa chê chán đã
Ta là ta hay không phải là ta?
Có gì đau, cả thế giới cao xa,
Như cội rễ của trăm nguồn đạo hạnh
Hướp rượu mạnh máu càng hăng sức mạnh
Ôi điên rồi! Khoái lạc đến ngất ngư
Thương là thương lòng mình giận chưa nư
Hồn vội thoát ra khỏi bờ trí tuệ
(Siêu thoát)
Khi con người đau đớn về thể xác quá mức, trong lòng hình thành mong muốn
vượt lên trên nỗi đau thể xác. Hàn Mặc Tử cũng vậy. Nhưng ở nhà thơ, với trí tưởng
tượng, tâm hồn của một người nghệ sĩ, mong muốn vượt qua nỗi đau thể xác trở nên kỳ lạ
vô cùng. Sự kỳ lạ xuất hiện trong từng vần thơ. Suy nghĩ của nhà thơ lúc này không đơn
thuần chỉ là suy nghĩ. Nó trở thành một hoạt động mơ hồ mê man vì nhà thơ đã không
còn ở trong thế giới thực.
Lụt Hồng Thuỷ trời không tái lại,
Khiến bồ cau bay bổng quá không gian.
- Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng.
Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ,
Nơi khí tượng bốc ngùn muôn tinh tú,

Nơi không cho hồn lai vãng quan chiêm.
Sách vô cùng, sáng láng cả mọi niềm,
Không u ám như cõi lòng ma quỉ.
15


Vì có Đấng Hằng Sống, Hằng Ngự Trị,
Nhạc thiêng liêng dồn khắp hư linh.
Ồ say sưa trên hết các tục tình,
Ồ thú lạ, những phút giây thanh thoát
Hương cho thơm ứ đầy hơi khoái lạc,
Máu cho cuồng run giật đến miên man.
Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian.
Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực.
Mộng là mộng tràn trề muôn vạn ức.
Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên.
Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên,
Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng.
Ca những điệu ngọc vàng ca sang sảng,
Lời vang xa truyền nhiễm đến vô song.
Bầu hạo nhiên lồng lộn một màu trong,
Không rung động bởi tơ huyền nao nức.
Hồn hỡi hồn, bay ra ngoài kia mức,
Nơi thiên sầu địa thảm giới Lâm Bồ
Say máu ngà, say nữa tới chừng mô
Cả vũ trụ ta theo ngày phán xét
Là khủng khiếp cả Trời Đất tiêu diệt.
(Ngoài vũ trụ)
Ngoài những lo toan, trăn trở về bệnh tật, Hàn Mặc Tử còn phải gồng mình lên để hứng
chịu những khó khăn cho cuộc sống của mình. Ông Sinh ra trong một gia đình trí thức

có 6 người anh em, Hàn Mặc Tử từ nhỏ đã ốm yếu, ăn mặc giản dị nhưng rất hiếu học.
Cha mất sớm gánh nặng gia đình đặt lên vai mẹ, cũng vì hoàn cảnh khó khăn 1930 nhà
thơ phải thôi học về Quy Nhơn giúp đỡ mẹ và các em, trong thời gian chưa tìm được
việc thì ông ở nhà đọc sách làm thơ. Trong thời gian này ông đã sáng tác và cho phát
hành tập thơ “Gái Quê”, đây là tập thơ được đánh giá cao và thực sự đậm chất “quê” nói
lên hoàn cảnh sống hiện tại của ông :

16


“Mây trắng ngang trời bay vẩn vơ
Đời anh lưu lạc tự bao giờ
Đi đi... đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường cái ước mơ
Ở chốn xa xôi em có hay
Nắng mưa đã trải biết bao ngày
Nụ cười ý vị như mai mỉa
Mỉa cái nhân tình lúc đổi thay
Trên đời gió bụi, anh lang thang
Bụng đói như cào lạnh khớp răng
Không có nhà ai cho nghỉ bước
Vì anh là kẻ chẳng giàu sang
Ban đêm anh ngủ túp lều tranh
Chỗ tạm dừng chân khách bộ hành
Đến sáng hôm sau anh cất bước
Ra đi với cái mộng chưa thành.”
(Đời phiêu lãng, trích trong tập “Gái quê”, 1936)
Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu cho những chật vật lo toan của Hàn Mặc Tử.
Cuộc đời của ông cũng như làn mây kia, bơ vơ lạc lỏng, không có một điểm tựa cố
định, đứng nhìn thời gian trôi, nhìn nhân thế đổi thay, một người luôn muốn cống hiến

tất cả vì nghệ thuật, vì cái đẹp nhưng lại bị “cơm áo gạo tiền ghì sát đất”.Đó là cái nợ
muôn thuở luôn đeo lấy họ thậm chí nhà thơ còn kêu rằng:
“Trên đời gió bụi, anh lang thang
Bụng đói như cào lạnh khớp răng”.
Đói và lạnh, có ai hiểu được rằng họ phải chịu những cảnh như thế, họ buộc phải có
nghị lực để vượt qua, để thực hiện ước mơ và lý tưởng của mình. Trong cái xã hội ấy,
17


cái xã hội mà đồng tiền là đại diện của quyền lực, có tiền là có tất cả, họ trọng cái vẻ bề
ngoài hơn là trí thức, bởi vì trí thức không thể sản sinh ra tiền, đó là sự nghịch lý của xã
hội. Họ đã ví như nghèo là một cái tội, nghèo thì không thể thực hiện ước mơ của mình
nên đành phải “ra đi với cái mộng chưa thành”.
Cuộc đời của ông cũng có giai đoạn làm báo nhưng không thành công, làm thơ nhưng
xuất bản khó khăn vì ông luôn bị từ chối.
Cảnh sống khổ sở thiếu hụt, nghèo khổ kéo theo sự thất vọng trong sự nghiệp nhưng
chưa dừng lại ở đó, ông lại gặp biến cố tiếp theo trong cuộc đời đó là căn bệnh nan y
bao nhiêu tiền bạc điều lo chạy thuốc, khiến ông càng nghèo túng, phải sống nhờ vào số
tiền mỗi tháng mười đồng của Quách Tấn. Căn bệnh hành hạ khiến ông phải gào thét
trong thơ, tìm lối thoát trong ảo mộng :
“Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi ?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?”
(Những giọt lệ, trích trong tập Đau Thương)
Ông mòn mỏi đợi chờ cái chết đến từng ngày, ông khao khát được yêu thương,
được sống. Cuộc đời dường như thật bất công với nhà thơ tài hoa, gia đình, tiền bạc,
nghèo túng và giờ đây là căn bệnh nan y đang bào mòn lấy thân xác và hơi thở của ông.
4. Sự chuyển hóa giữa nỗi đau tinh thần và nỗi đau thể xác trong thơ Hàn Mặc


Tử
Từ nỗi đau thể xác là căn bệnh nan y hiểm nghèo, đã làm cho ông phải đau khổ quằn
quại vì những vết sưng tấy, sần xùi, sự ghẻ nở trên cơ thể ông. Hẳn nó đã làm cho ông
phải đau đớn biết chừng nào...thế nhưng thực tế thì sao? Ông không hề kêu than một lời
bằng miệng lưỡi, bằng lời nói âm thanh, và người ngoài chẳng thể biết được là ông đang
phải quằn quại đau đớn như thế nào cả. Bởi tất cả những nỗi đau ấy đã được ông chuyển
tải một cách rất mạnh dạn và trong những câu thơ của ông. Đó là:
Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết
Khi say sưa lượn sóng với triền miên

18


(Biển hồn ta)
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
(Hồn là ai)
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
(Say trăng)
Cho đến nay, đọc bất cứ tiếng thơ nào trong đó ta vẫn thấy gai người:
“Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”.
“Hồn là ai ? là ai ? Tôi không biết
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười
Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng
Tôi chết giả và no nên vô hạn

Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng
Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng
Hồn đã cắn, đã cào, nhai ngấu nghiến”…
Chính những sự chuyển hóa từ những nỗi đau của thể xác như thế mà ta có thể
thấy được một sự điên cuồng, loạn đến lạ lùng trong thơ ông. Bởi những lối thơ rất
“điên”, bởi cách mà ông dùng ngôn từ:
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ si?
19


(Những giọt lệ)
Máu tim ta tuôn ra làm biển cả
Mà sóng lòng rần rật như mây trôi
(Biển hồn ta)
Đến mức ai trong chúng ta trên đất nước này không một lần từng nghe thấy những
tiếng rao bán một thứ bất diệt như thế này: “Ai mua Trăng tôi bán Trăng cho...”. Đến
trăng ông cũng có thể rao bán được thì quả là táo bạo.
“Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười
Hồn vội mướm cho tôi bao ánh sáng...”
“Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng
Hồn đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến...”
“Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng
Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương...”
Còn rất nhiều những hình ảnh khiến ta phải liên tưởng một cách phi thường nữa.
Tất cả đều do một yếu tố đó là nỗi đau mà ông đang phải hứng chịu. Những nỗi đau ấy đã
làm cho ông trở nên ngông cuồng hơn, trở nên mạnh mẽ hơn trong những lời thơ, trở nên
tự do tự tại hơn, nói như chưa bao giờ được nói vì mỗi ngày sống là một ngày Hàn Mạc
Tử chuẩn bị ra đi.
Từ nỗi đau về tinh thần: trước hết ta có thể thấy được nỗi đau tinh thần của Hàn

Mặc Tử ở đây là gì: ông sinh ra trong một gia đình đông anh em, gia đình không được
khá giả thay vì nói là nghèo khổ, cộng thêm việc cha ông mất sớm, ông không có tiền đã
phải bỏ học để phụ giúp cho gia đình. Tất cả những yếu tố đó ngay từ nhỏ đã gây ra cho
Hàn Mặc Tử một nỗi đau có lẽ là sâu thẳm ở trong lòng đó là nỗi đau của sự nghèo khổ.
Điển hình cho nỗi đau về sự nghèo khổ từ cuộc sống dẫn đến niềm đau về tinh thần cũng
được Hàn Mặc Tử chuyển hóa một cách rõ nét và bài thơ “Đời phiêu lãng” trích trong tập
“Gái quê” là một ví dụ điển hình:
“Mây trắng ngang trời bay vẩn vơ
Đời anh lưu lạc tự bao giờ
...
20


Trên đời gió bụi, anh lang thang
Bụng đói như cào lạnh khớp răng
Không có nhà ai cho nghỉ bước
Vì anh là kẻ chẳng giàu sang
Ban đêm anh ngủ túp lều tranh
Chỗ tạm dừng chân khách bộ hành
Đến sáng hôm sau anh cất bước
Ra đi với cái mộng chưa thành.”
Có lẽ ai cũng nghĩ rằng thơ Hàn Mặc Tử là sự cào xé, giày vò bởi những nỗi đau
về thễ xác mà ông đã phải chịu đựng. Nhưng thự tế thơ ông như là một trường ca mà ở đó
hội tụ đầy đủ những yếu tố nội dung xuất phát từ tầm hồn. Thơ là tiếng nói của tầm hồn,
của con tim. Mỗi câu thơ là một nỗi niềm, một lời nói được đúc kết sâu thẳm nơi trái tim.
Tất cả những điều đó đều hội tụ trong thơ ông. Hàn Mặc Tử là một con người đa sầu, đa
cảm, phong lưu, lãng tử chính vì thế mà trong đời ông đã trải qua không ít những mối
tình mà thường là “dang dở”. Thậm chí có những mối tình còn đang trong thai ngén, mối
tình từ những dòng thư dù chưa một lần gặp mặt. Nói như thế để thấy rằng ông là một
con người luôn muốn yêu, khao khát yêu, thậm chí là cuồng yêu. Và chính vì thế ông đã

luôn phải sống trong đau khổ vì những mối lương duyên không thành của mình. Trong
thơ ông viết về tình yêu thì hầu như gần hết đều là nỗi đau cả và những nhân vật luôn
được Hàn Mặc Tử nhắc đến trong tâm thức đó là: Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình,
Thương Thương.
Từ những nỗi đau cùng cực của thể xác đến tình thần như thế ta có thể thấy được
một kết cục của một nhân tài được chính ông chuyển hóa trong hoảnh khắc “trút linh
hồn” cũng là khi mở lòng để lắng nghe, để đợi chờ và được sống cùng những khát vọng
khắc khoải. Nhưng rồi cũng là lúc nhà thơ tự cảm được nỗi thất vọng vì đón đợi một tấm
lòng mà không gặp. Khi ấy hồn thơ như cạn kiệt sinh khí thành “lời thảm thương rền giữa
nẻo mơ”, giữa lúc “máu đã khô rồi, thơ cũng khô”:
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả?
21


Xin để tang anh đến vạn ngày
Thường trực trong Hàn Mặc Tử là nỗi ám ảnh của hư vô, hiện lên “sượng sần”, “tê
điếng” từng giác quan, trong chính cuộc sống phải đấu tranh với bệnh tật để giành giật sự
sống của thi nhân. Đi tìm sự hiện hữu của Hồn trong khi phải vượt lên nỗi đau của Xác,
đó chẳng phải là ý nghĩa thiêng liêng làm nên giá trị đời người sao, cớ sao phải phủ nhận
nó để đi tìm một cái thi học tột cùng xa lạ nào? Với Hàn Mặc Tử, thơ là điểm tựa duy
nhất để chống chọi nỗi cô đơn, nhưng có khi thơ lại là hiện hữu của nỗi đau dày vò, của
sự bất lực:
“Này đây lời ngọc song song,
Xin dâng muôn sóng tơ đồng vơi vơi.
Xin dâng này máu đang tươi,
Này đây nước mắt, giọng cười theo nhau”.
Một sự chuyển hóa nữa trong thơ Hàn Mặc Tử đó là từ những yếu tố tác động bên
ngoài. Chính bởi ông có một tâm hồn rất đa cảm cho nên ông luôn bị cuốn vào những cái

đẹp xung quanh. Cái đẹp ở đây có thể là hình thể đẹp, nhân cách đẹp, hay là tiếng đàn
hay, ý thơ đẹp. Theo tài liệu cho thấy xuất phát từ những bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng
Cúc gửi cho Hàn. Đây chính là bàn đạp để ông cho ra đời một “đây thôn Vĩ dạ” mà đến
nay nhắc đến Hàn là người ta phải nghĩ ngay tới thôn Vĩ ấy. Rồi nào cũng xuất phát từ
một lá thư của Thanh Huy được bọc trong một chiếc phong bì màu xanh mà “Bức thư
xanh” đã được ra đời:
"Thanh Huy hỡi nàng chưa là châu báu
Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ
Duyên làm sao cho Trí đến dại khờ
Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm
Ta đã nuốt và hình như đã cắn
Cả lời thơ cho vãi máu nàng ra".
Hay khi một người một người con gái vẹn toàn về nhạc cụ dân tộc như Mỹ Thiện,
một cô gái ở cạnh nhà Hàn mà ông mới chỉ được gặp qua tiếng đàn chứ chưa hề gặp mặt.
Ông cũng có những xúc cảm đặc biệt và vì thế ngay sau cái chết của cô mà “Cô gái đồng
trinh” ra đời tức khắc:
22


"Đêm qua trăng vướng trên cành trúc
Cô láng giềng bên chết thiệt rồi
Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới
Chưa hề âu yếm ở đầu môi
Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình".
Để tưởng nhớ và khắc ghi cho một người con gái còn nguyên trinh tiết. Tồn tại ở
ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc
vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông đã tạo ra cho thơ mình một thế
giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực. Thông qua những sự
chuyển hóa như thế ta có thể thấy được một nguồn thơ vô tận những ý tưởng, những cái

hay, cái mới, cái lạ và những cái điên mà chỉ có ở ông mới có.

Kết Luận
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ trong
những quan điểm và hình thức tư duy nghệ thuật của các nhà văn. Những trào lưu văn
học mới ra đời, thay thế cho những trào lưu đi trước. Các nhà văn đã có những bước thử
nghiệm thành công trong công cuộc sáng tác của mình. Đời sống con người được phản
ánh trong văn học là những lát cắt, những mảnh ghép rời rạc…với những kỹ thuật mới
mẻ.
Tiêu biểu cho cuộc thử nghiệm mới này là Hàn Mặc Tử, ông đã cất lên tiếng nói cho
nỗi niềm của mình qua ngôn từ mộc mạc và giản dị trên những câu thơ. Những nỗi niềm
ấy là những khát khao được sống, được yêu được cống hiến cho đời. Chúng ta bắt gặp
những nhân vật với tâm trạng cô đơn, níu kéo quá khứ vàng son hay một không gian
huyền thoại, bí ẩn được tô đậm với những yếu tố kỳ dị, lạ thường. Đồng thời nói lên
23


những cảm xúc của con người về cuộc sống, tình yêu và gia đình đang bao trùm xung
quanh chúng ta.

Tài Liệu Tham Khảo
1. Tinh tuyển Văn học Việt Nam , nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Tập 7, Quyển 1.
2. Hoài Thanh, Hoài Chân; Thi nhân Việt Nam; NXB.Văn học, Hà Nội, 2006.
3. Nhiều tác giả, Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục,

Hà Nội, 1997.
4. Trần Ngọc Vương, Loại hình học tác giả văn học: nhà nho tài tử và văn học Việt

Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.
5. Hội nhà văn, 1993, Thơ tình hay nhất.

6. Tôn Thảo Miên tuyển chọn, Hàn Mặc Tử: Tác phẩm và lời bình, NXB Văn Học,
2007.
7. Trang web: />
24



×