Tải bản đầy đủ (.pdf) (271 trang)

TÂM lý học PHÁT TRIỂN vũ THỊ NHO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.37 KB, 271 trang )


TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN

TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN
Tác giả: Vũ Thị Nho
MỞ ĐẦU
Mọi sự vật của tự nhiên, xã hội cùng với con
người luôn luôn vận động, biến đổi. Đời sống tâm lý
một con người, một nhóm hay một cộng đồng người
cũng luôn luôn vận động, biến đổi, nghĩa là luôn luôn
phát triển. Tâm lý học không thể không nghiên cứu
quá trình đó của tâm lý con người trên cả bình diện cá
thể cũng như các nhóm lứa tuổi từ lúc nảy sinh, hình
thành, phát triển và tàn lụi.
Do những đòi hỏi của thực tiễn giáo dục trẻ
em, việc nghiên cứu sự phát triển tâm lý của con
người ra đời khá sớm và cho đến nay nó đã tích lũy
được những thành tựu về lý luận và thực tiễn khá
phong phú. Nhờ đó Tâm lý học phát triển có ý nghĩa
rất lớn trong quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ nói
riêng cũng như đối với
con người nói chung.
Thuvientailieu.net.vn


Dựa trên những thành tựu cơ bản của tâm lý
học phát triển mà thế giới đã thu được, giáo trình "Tâm
lý học phát triển" này tổng hợp, hệ thống, khái quát
những vấn đề về sự vận động, biến đổi, phát triển tâm
lý của con người theo các giai đoạn lứa tuổi khác
nhau. Trên cơ sở đó tìm ra những đặc điểm, những


động lực, những qui luật, những con đường hình
thành và phát triển đặc thù của sự phát triển tâm lý con
người. Từ đó cung cấp cho người học những tri thức
khoa học cơ bản về tâm lý học phát triển, nhằm hiểu
biết tâm lý con người và vận dụng sự hiểu biết đó vào
mọi hoạt động của cuộc sống cá nhân cũng như cộng
đồng theo phương châm "hiểu mình, biết người". Nhờ
đó con người biết sống có tình, có lý, có văn hóa và
hạnh phúc.
Giáo trình này được xây dựng nhằm đáp ứng
yêu cầu của cải cách giáo dục ở bậc đại học, tránh lặp
lại những vấn đề đã được đề cập đến ở nhiều cuốn
sách khác, cố gắng gợi mở cho sinh viên hướng suy
nghĩ về vấn đề được đặt ra; đồng thời cung cấp khối
lượng kiến thức tối thiểu cần thiết cho sinh viên về tâm
lý học phát triển.
Thuvientailieu.net.vn


Tâm lý con người rất đa dạng và phức tạp. Vì
vậy, giáo trình này khó có thể tránh được những sai sót
nhất định. Tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp
quý báu của độc giả xa gần để giáo trình này ngày
càng hoàn thiện hơn.
VŨ THỊ NHO
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC
PHÁT TRIỂN
Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ EM TỪ
0 ĐẾN 6 TUỔI
Chương 3: SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở TUỔI HỌC SINH

NHỎ (Từ 7 đến 12 tuổi)
Chương 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
TUỔI THIẾU NIÊN
Chương 5: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
CỦA HỌC SINH ĐẦU TUỔI THANH NIÊN
Chương 6: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
CƠ BẢN CỦA THANH NIÊN SINH VIÊN (từ 19 đến 25
tuổi)
Chương 7: NHỮNG NÉT TÂM LÝ ĐẶC TRƯNG CỦA
NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH VÀ NGUỜI GIÀ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thuvientailieu.net.vn


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN

I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT
TRIỂN
II. CÁC NHÂN TỐ VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
IV. GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
V. SỰ PHÂN CHIA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CÂU HỎI

Thuvientailieu.net.vn



I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ
HỌC PHÁT TRIỂN
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC
PHÁT TRIỂN

1. Khái niệm phát triển tâm lý
Nói đến phát triển, nhiều khi người ta chỉ
quan tâm đến những kết quả cuối cùng của một giai
đoạn hoặc một quá trình nào đó thể hiện ở hình thức
bề ngoài hoặc hành vi cá nhân. Xem xét sự phát triển
như vậy là thiếu biện chứng và phiến diện, dễ dẫn đến
sai lầm.
Trên thực tế, sự phát triển tâm lý của mỗi cá
nhân hoặc một nhóm người nào đó bao giờ cũng diễn
ra trong một quá trình: từ sự phát sinh, hình thành,
phát triển đến tàn lụi; từ mức độ này đến mức độ khác;
từ hình thái này đến hình thái khác. Đó là quá trình vận
động, biến đổi của một thực thể. Nó bao hàm hàng
loạt thay đổi có sự ràng buộc bên trong với nhau, có
lúc từ từ, tiệm tiến, có lúc nhảy vọt, nhưng cũng có lúc
dẫm chân tại chỗ, thậm chí thụt lùi lạm thời. Đó là một
quá trình phức tạp như phép duy vật biện chứng đã
khẳng định.

Thuvientailieu.net.vn


V.I.Lênin viết: "Phát triển là sự giảm đi và tăng
lên, là sự lặp đi, lặp lại, là sự thống nhất giữa các mặt
đối lập" (cái thống nhất, gồm có 2 mặt: mặt đối lập loại

trừ lẫn nhau và mặt quan hệ giữa chúng với nhau).
Tuy nhiên tính chất chung của sự phát triển là
một quá trình có chiều hướng tích cực, đi lên nhằm tạo
ra cái mới ở mức độ ngày càng cao hơn, phức tạp
hơn, phong phú và tinh tế hơn so với cái cũ.
Quá trình phát triển tâm lý của con người đi từ
cái chưa bị phân hóa đến cái bị phân hóa. Từ chỗ
phân hóa rồi lại tích hợp lại thành các yếu tố, các bộ
phận để tạo thành một cơ cấu mới với những phẩm
chất, đặc điểm mới. Những phẩm chất và đặc điểm
này qui định bộ mặt tâm lý của từng giai đoạn, từng độ
tuổi trong quá trình phát triển.
Tâm lý của mỗi cá thể, mỗi nhóm tuổi được
phát triển như là một hệ thống phức tạp nhất của
những cơ cấu khác nhau (nhận thức, tình cảm, trạng
thái, hành vi, v.v...) có liên quan, tác động phụ thuộc lẫn
nhau. Những cơ cấu đó được sắp xếp theo một thứ
bậc để đảm bảo cho hoạt động bên trong và bên ngoài
của con người. Ví dụ:Thuvientailieu.net.vn
lúc mới sinh, đứa trẻ hoạt động


là do những nhu cầu sơ đẳng nhất của cơ thể đòi hỏi.
Những nhu cầu đó được người lớn thỏa mãn nên
không bao lâu sau những nhu cầu thứ cấp được hình
thành. Tiếp đến là những tình cảm, hứng thứ, động cơ
mới xuất hiện. Những nhu cầu, động cơ mới này một
mặt thúc đẩy hoạt động của đứa trẻ, mặt khác ngày
càng được phát triển trong nhân cách của nó. Nghĩa là
đứa trẻ được phát triển theo chính những cơ chế phức

tạp, đan xen, hòa quyện vào nhau một cách biện
chứng. Phát triển tâm lý chính là sự phát triển các cơ
chế ngày càng phức tạp, tinh vi của những nhu cầu,
động cơ, hoạt động, hành động của con người từ mức
độ này đến mức độ khác, phù hợp với những đòi hỏi
ngày càng cao của xã hội.
Từ những phân tích trên chúng tôi định nghĩa:
Phát triển tâm lí là một quá trình bao gồm từ sự phát
sinh, hình thành. Phát triển của những yếu tố, những
quá trình, những thuộc tính, những trạng thái tâm lí của
mỗi cá thể, từ đơn giản đến phức tạp, từ chỗ chưa bị
phân hóa đến chỗ bị phân hóa theo những qui luật có
liên quan, tác động phụ thuộc lẫn nhau tạo thành
những đặc điểm tâm lý khác nhau theo giai đoạn. Đó
là một hoạt động có tính hệ thống được sắp xếp có
Thuvientailieu.net.vn


tính thứ bậc và ngày càng tinh tế, tạo ra những đặc
điểm đặc trưng cho mỗi thời kỳ, mỗi lứa tuổi khác
nhau, đảm bảo cho con người sống, hoạt động và
phát triển với tư cách là một chủ thể có ý thức của xã
hội.
Khi nói đến khái niệm phát triển, người ta
thường hay đề cập đến các khái niệm có sự liên quan
như tăng trưởng, chín muồi.
Tăng trưởng là khái niệm đề cập đến sự gia
tăng về số lượng (chiều dài, dung tích, khối lượng...)
của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: sự gia tăng về chiều cao,
cân nặng, sự tăng lên của tế bào thần kinh, sự tăng

lên về số lượng tế bào cảm giác của trẻ em trong năm
thứ nhất v.v... Còn chín muồi được dùng khi sự tăng
trưởng đạt đến "độ". Ví dụ: "Trăng đến rằm trăng tròn".
Ông cha ta thường nói: "Nữ thập tam, nam thập lục để
chỉ sự chín muồi về mặt sinh học (sự dậy thì) của con
người. Nói đến phát triển là nói đến sự thay đổi chuyển
hóa về mặt chất lượng, nói đến một trình độ mới khác
về chất so với cái cũ. Chẳng hạn sự phát triển tâm lý
của con người, đi từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác
đến tư duy v.v... Tri giác là một trình độ khác về chất so
với cảm giác; tư duy là
trình độ mới khác về chất so với
Thuvientailieu.net.vn


tri giác v.v...
Quan hệ giữa tăng trưởng, chín muồi với phát
triển là quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Tăng
trưởng, chín muồi dẫn đến sự tăng trưởng về chất
(phát triển); chất lượng mới lại tạo tiền đề cho sự tăng
trưởng và chín muồi ở mức cao hơn. Đó là mối quan
hệ biện chứng có tính nhân quả của sự vật, hiện
tượng. Sự phát triển tâm lý của con người được vận
động cũng không ngoài quy luật đó.
2. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học phát triển
a. Đối tượng
Tâm lý học phát triển là một trong những
chuyên ngành cơ bản, quan trọng của tâm lý học. Đối
tượng nghiên cứu của nó là những động lực, điều
kiện, những qui luật phát triển, những sự biến đổi của

các quá trình, các thuộc tính, các phẩm chất tâm lý
trong sự hình thành nhân cách con người với tư cách
là một thành viên của xã hội, theo sự trưởng thành của
lứa tuổi.
b. Tâm lý học phát triển bao gồm các ngành sau
* Tâm lý học trong thời kỳ bào thai (còn gọi là
Thuvientailieu.net.vn


thai giáo). Tâm lý học tuổi thơ (tuổi hài nhi).
* Tâm lý học trước tuổi đi học (tuổi vườn trẻ).
* Tâm lý học học sinh tiểu học.
* Tâm lý học tuổi thiếu niên.
* Tâm lý học người trưởng thành.
* Tâm lý học người già.
* Tâm lý học của những em phát triển không
bình thường.
Tâm lý học phát triển có mối liên quan với
nhiều chuyên ngành tâm lý học khác như Tâm lí học
đại cương, Tâm - sinh lý học, Tâm lý học nhân cách,
Tâm lý học sư phạm... Trong đó mối liên quan giữa
Tâm lý học phát triển và Tâm lý học sư phạm (gồm cả
dạy học và giáo dục) là chặt chẽ nhất. Giữa hai ngành
tâm lý học này có sự tác động qua lại và qui định lẫn
nhau một cách rất biện chứng: Tâm lý học phát triển và
Tâm lý học sư phạm giống hai đứa con sinh đôi khác
trứng của một bào thai. Mối quan hệ giữa hai ngành
tâm lý học này đều có chung khách thể nghiên cứu, đó
là trẻ em các lứa tuổi. Bởi thế cả hai ngành lâm lý này
Thuvientailieu.net.vn



tạo thành một thể thống nhất khó tách bạch, dẫn đến
tình trạng nhiều khi ranh giới trình bày các vấn đề của
Tâm lí học phát triển và Tâm lí học sư phạm trở nên có
tính tương đối. Tuy nhiên Tâm lý học pháttriển chủ yếu
nghiên cứu động lực, qui luật cũng như các đặc điểm
phát triển của con người theo sự trưởng thành của
từng giai đoạn. Còn Tâm lý họ (sư phạm ghiên cứu
những con đường, những qui luật hình thành của
nhận thức, nghiên cứu những vấn đề thuộc về dạy học
và giáo dục con người.
Theo nghĩa đầy đủ, nghiên cứu sự phát triển
tâm lý không phải là nghiên cứu những cái gì đã có
sẵn mà là nghiên cứu tâm lý trong quá trình vận động,
biến đổi không ngừng của nó. Blônxki, nhà tâm lý học
Nga nổi tiếng đã viết: "Chỉ có thể hiểu được hành vi khi
ta hiểu nó như lịch sử hành vi".
Nếu Tâm lý học sư phạm nghiên cứu nhằm
tìm ra những con đường, những quy luật, những điều
kiện giúp con người lĩnh hội nhanh nhất, có chất lượng
và hiệu quả nhất nền văn hóa nhân loại, thì Tâm lý học
phát triển sẽ nghiên cứu quá trình phát sinh, hình
thành, phát triển tâm lý con người trong sự vận động
của chính sự tiếp thu,
lĩnh hội đó. Ví dụ: chiến lược
Thuvientailieu.net.vn


hướng vào người học của Tâm lý học sư phạm đề cao

nguyên tắc tôn trọng đặc điểm và năng lực của chủ thể
(người học) nhằm phát huy tốt nhất tính tích cực hoạt
động của người học, giúp họ lĩnh hội một cách chủ
động, tự giác hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ, chuẩn
mực hành vi được xã hội loài người tích lũy được từ
trước đến nay; Chiến lược này đã làm biến đổi, phát
triển đời sống tâm lý của người học so với những
chiến lược dạy học khác. Sự vận động, biến đổi và
phát triển của chiến lược hướng vào người học diễn ra
như thế nào, diễn biến ra sao, theo quy luật nào và nó
đòi hỏi những điều kiện nào... thì Tâm lý học phát triển
phải nghiên cứu.
Song, như đã nói ở trên, hai chuyên ngành
Tâm lý học sư phạm và Tâm lý học phát triển liên
quan rất mật thiết với nhau, tác động qua lại một cách
chặt chẽ, biện chứng và hỗ trợ đắc lực cho nhau trong
tính độc lập tương đối của nó. Ra đời chủ yếu vào nửa
sau thế kỷ XIX, Tâm lý học phát triển coi những quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử về phát triển là điểm xuất phát, là kim chỉ
nam cho việc nghiên cứu của mình. Chẳng hạn, các
qui luật lượng đổi chất đổi, qui luật phủ định của phủ
Thuvientailieu.net.vn


định, qui luật phát triển không đồng đều của sự vật,
hiện tượng... của chủ nghĩa duy vật biện chứng có giá
trị soi sáng khi xem xét, nghiên cứu những qui luật
phát triển tâm lý trẻ em theo lứa tuổi. Các nhà tâm lý
học, giáo dục học lỗi lạc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

như
K.Đ.Usinxki,
I.M.Séchénôv,
L.X.Vưgôtxki,
X.L.Rubinstêin, A.N.Lêônchicv, J.Piagct, H.Walon v.v...
đã có công lớn trong việc xây dựng nền Tâm lý học
phát triển.
Ngày nay, tâm lý học phát triển đã thu được
những thành tựu đáng kể, đã thu thập được một khối
lượng tư liệu phong phú. Sự trưởng thành của nó gắn
liền với tên tuổi của nhiêu nhà tâm lý học hiện đại ở
nhiều nước, đặc biệt nổi bật trong đó là những nhà
tâm lý học Liên Xô như B.G.Ananhev, L.I.Bôzhôvic, L.N.
Landa, N.A.Menchinskaja, Đ.B. Elkônin v.v... ở Tây âu
có thể kể: Luyxiêng, Sevơ Febơrơ, J.Watson, D.Bruner,
B.F.Skiner.v.v....
Có thể nêu ra đây vài quan điểm cơ bản mà
tâm lý học phát triển lấy làm cơ sở nền tảng cho việc
xây dựng và phát triển chuyên ngành của mình.
Vào những năm 20, 30 của thế kỷ này,
Thuvientailieu.net.vn


L.X.Vưgôtxki đã nêu ra nguyên tắc về tính gián tiếp của
hoạt động tâm lý người, tính xã hội - lịch sử, tính có ý
thức của tâm lý người là những nét khác về bản chất
so với tâm lý động vật. Tiếp đó ông nêu ra quan điểm
bản chất tâm lý người có nguồn gốc hoạt động. Ông
cho rằng hoạt động tâm lý bên trong của trẻ em được
xây dựng theo mẫu hoạt động bên ngoài.

Kế cận những quan điểm của L.X.Vưgôtxki,
X.L.Rubinstêin đã nêu: nguyên lý phát triển là sự thống
nhất giữa cái bên ngoài (hiện thực khách quan) tác
động thông qua những điều kiện bên trong. Nguyên lý
này nêu bật quan điểm phản ánh tâm lý được thực
hiện trong quá trình tác động qua lại giữa chủ thể và
khách thể, trong đó hoạt động tích cực của chủ thể là
khâu trung gian cho tác động của thế giới khách quan.
-

Phát

triển

những

luận

điểm

của

L.X.Vưgôtxki, A.N.Lêônchiev và các cộng sự đã đưa ra
cấu trúc vĩ mô của hoạt động, đưa ra lý thuyết "chuyển
vào trong", rồi đến P.Ia.Galperin, Đ.B.Elkônin đã tìm ra
cơ chế của việc chuyển hoạt động bên ngoài của chủ
thể thành hành động trí tuệ theo giai đoạn.
- Những lý luận về phân chia lứa tuổi của
Thuvientailieu.net.vn



II.Wallon và J.Piaget góp phần làm cơ sở nghiên cứu
và làm phong phú cho tâm lý học phát triển mà ta
nghiên cứu. Điều lý thú là mặc dù xuất phát điểm
nghiên cứu khác nhau, nhiều nhà tâm lý học phát triển
Âu, Mỹ cũng đi đến thừa nhận một thành tựu của tâm
lý học hiện đại là mỗi hiện tượng tâm lý đều có nguồn
gốc từ hành động, hoạt động của con người, đều chứa
đựng yếu tố xã hội - lịch sử cao.
c. Nhiệm vụ của tâm lý học phát triển
Nhiệm vụ của tâm lý học phát triển là nghiên
cứu những đặc điểm phát triển của các quá trình tâm
lý, những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách,
những khả năng, điều kiện phát triển theo lứa tuổi
cũng như qui luật, những con đường hình thành, phát
triển của chúng.
Mục đích của việc nghiên cứu đó nhằm phục
vụ cho thực tiễn giáo dục trẻ em nói riêng, giáo dục
con người nói chung, nhằm phát triển những nhân
cách ngày càng hoàn thiện để sống và phát triển hài
hòa trong xã hội hiện đại; đồng thời làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của khoa học giáo dục nói
chung, khoa học tâm lý học phát triển nói riêng.
Thuvientailieu.net.vn


d. Những phương pháp nghiên cứu cơ bản của Tâm
lý học phát triển
Để nghiên cứu sự phát triển tâm lý của con
người, cần phối hợp nhiều phương pháp khác nhau,

nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau vì mỗi phương pháp
đều có những điểm mạnh, điểm yếu nhất định. Các
phương pháp nghiên cứu tâm lý học phát triển cũng
không nằm ngoài những phương pháp nghiên cứu
tâm lý học nói chung mà chúng ta đã biết. Có thể kể
những phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt
động.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi
cùng trứng hoặc khác trứng v.v...
Điều phải lưu ý trong khi sử dụng các
phương pháp để nghiên cứu sự phát triển tâm lý con
Thuvientailieu.net.vn


người là ở chỗ, nhà nghiên cứu phải đặt đối tượng,
khách thể nghiên cứu của mình trong quá trình vận
động và phát triển của nó.
Những kết quả nghiên cứu có giá trị đối với
tâm lý học phát triển thường được tiến hành một cách
trường diễn, công phu theo cách nghiên cứu dọc trong
một thời gian dài. Những quan sát, những thực
nghiệm liên tục của J.Piaget trong nhiều năm, những
thực nghiệm tâm lý - giáo dục kéo dài từ đầu đến cuối
mỗi cấp học của nhiều nhà khoa học khác nhau trên
thế giới là những dẫn chứng điển hình cho phương

pháp nghiên cứu tâm lý học phát triển. Những công
trình như vậy đã đóng góp những thành quả to lớn cho
tâm lý học phát triển cũng như các chuyên ngành tâm
lý học khác.

Thuvientailieu.net.vn


II. CÁC NHÂN TỐ VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ
PHÁT TRIỂN
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC
PHÁT TRIỂN

Vấn đề nhân tố và động lực của sự phát triển
tâm lý luôn luôn là vấn đề trung tâm của bất cứ ngành
tâm lý học nào, đặc biệt là với tâm lý học phát triển.
Trong lịch sử tâm lý học, đây là vấn đề
thường xuyên được đề cập, bàn luận và có nhiều luận
điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Tổng hợp,
khái quát lại có thể nêu lên các trường phái điển hình
sau đây về nguồn gốc, động lực phát triển tâm lý cá
nhân.
1. Quan điểm của thuyết nguồn gốc sinh vật về phát
triển
Những người theo trường phái nguồn gốc
sinh vật coi những đặc điểm bẩm sinh di truyền có sẵn
của trẻ em là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển
tâm lý cá thể. Theo họ, di truyền là yếu tố có tác dụng
quyết định đến phát triển tâm lý trẻ, coi môi trường là
yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di truyền.

Thuvientailieu.net.vn


Xuất phát điểm của những người theo dòng
phái nguồn gốc sinh vật về phát triển bắt nguồn từ qui
luật tiến hóa nổi tiếng do Heackel đưa ra vào nửa đầu
thế kỷ XIX. Qui luật này cho rằng: Sự phát triển cá thể là
sự lặp lại sự phát triển của loài dưới dạng rút gọn,
tương tự như bào thai người ở thời kỳ sống trong bụng
mẹ, lặp lại tất cả những giai đoạn phát triển từ một
thực thể đơn bào tới con người. Theo quan điểm này,
trong quá trình phát triển, trẻ con cũng tái tạo lại tất cả
những giai đoạn cơ bản của lịch sử loài người. Ví dụ
người ta đã nêu ra 5 giai đoạn phát triển mà đứa trẻ
bắt buộc phải trải qua:
- Giai đoạn man rợ.
- Giai đoạn săn bắn.
- Giai đoạn chăn nuôi.
- Giai đoạn trồng trọt.
- Giai đoạn thương nghiệp - công nghiệp.
Mỗi giai đoạn phát triển này được những
người theo thuyết nguồn gốc sinh vật lý giải và chứng
minh trong quá trình phát triển của mỗi trẻ em. Chẳng
hạn khi mới ra đời, đứa trẻ là một sinh vật man rợ và
Thuvientailieu.net.vn


chỉ khi tuần tự trải qua ba giai đoạn ở giữa để tiến đến
giai đoạn 5 - tức là giai đoạn công - thương nghiệp thì
trở nên thích thú trao đổi, buôn bán, yêu tiền tài. Đó là

mẫu người của chế độ tư bản.
Theo thuyết nguồn gốc sinh vật, sự phát triển
của trẻ em là do những tố chất di truyền đã được ghi
lại sẵn trong phôi của bào thai ngay từ đầu. Phát triển
chẳng qua là sự bộc lộ dần dần những thuộc tính ấy.
Tất cả do di truyền quyết định. Tính tích cực cá nhân,
giáo dục, giáo dưỡng v.v... chẳng qua chỉ làm tăng lên
hay giảm đi những yếu tố tiền định trước đó mà thôi.
Đó chính là cơ sở lý luận của "giáo dục tự phát", "giáo
dục tự do". Mặt khác nó là chỗ dựa cho chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp, coi thường, khinh
rẻ những người lao động, những dân tộc chậm tiến
dẫn đến sự lý giải phản khoa học về cái gọi là "dân tộc
thượng đẳng", "dân tộc hạ đẳng" đều do các gen di
truyền quyết định.
Thực tiễn lịch sử của nhiều dân tộc đã bác bỏ
những luận điểm sai lầm thiếu khoa học đó. Sau khi
được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân, giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, nhiều dân tộc vốn bị coi là
hạ đẳng, nhiều người
vốn bị liệt vào loại "dân đen" đã
Thuvientailieu.net.vn


hấp thụ những nền văn hóa phát triển và trong một thời
gian ngắn đã đạt được trình độ phát triển cao (Liên Xô
trước đây, Nhật Bản, những con rồng châu á hiện nay).
2. Quan điểm của thuyết nguồn gốc xã hội về phát
triển
Những người theo thuyết này cho rằng môi

trường xã hội là nhân tố quyết định sự phát triển của
trẻ em. Môi trường xung quanh như thế nào thì hành vi,
nhân cách của con người sẽ như thế ấy. Bởi thế muốn
nghiên cứu trẻ em thì chỉ cần phân tích cấu trúc môi
trường xã hội xung quanh là hiểu được. Thuyết này còn
có tên là thuyết duy cảm, coi trẻ em lúc sinh ra như tờ
giấy trắng (tabula rasa), rồi ảnh hưởng của hoàn cảnh
điều kiện môi trường, xã hội mà những phẩm chất,
thuộc tính được vẽ lên đó.
Thuyết nguồn gốc xã hội coi trẻ em chỉ là một
tồn tại hoàn toàn thụ động, chịu sự tác động và chi
phối của môi trường xung quanh và không thể thoát
khỏi cái vòng kiềm tỏa đó. Bởi vậy mọi thành công hay
thất bại của đứa trẻ đều được giải thích bằng môi
trường bên ngoài. Tuy nhiên thực tiễn xã hội đã cho
thấy trong cùng những điều kiện, hoàn cảnh xã hội
Thuvientailieu.net.vn


như nhau lại hình thành những nhân cách hoàn toàn
khác nhau, trái ngược nhau. Trái lại trong những hoàn
cảnh điều kiện môi trường xã hội khác nhau lại hình
thành những nhân cách có nhiều nét tương đồng về
thế giới nội tâm, phong thái hành vi, nhân phẩm v.v...
Rõ ràng cũng giống thuyết nguồn gốc sinh vật, thuyết
nguồn gốc xã hội cũng không thể giải thích được thực
tiễn sống động trong việc hình thành nhân cách con
người, nó phủ nhận tính tích cực của con người, phủ
nhận giáo dục và thể hiện sự vô trách nhiệm, vì cuối
cùng người ta đều đổ mọi tội lỗi cho hoặc do môi

trường, hoặc do di truyền bẩm sinh.
3. Thuyết hội tụ hai yếu tố
Theo thuyết này, mối tác động qua lại giữa
môi trường và di truyền quyết định sự phát triển tâm lý
trẻ em. Tuy nhiên trong hai yếu tố đó, di truyền giữ vai
trò chủ yếu còn môi trường là điều kiện để biến những
yếu tố có sẵn của di truyền thành hiện thực.
Thuyết này nhằm loại bỏ sự phiến diện của
thuyết nguồn gốc sinh vật và thuyết nguồn gốc xã hội
do nhà tâm lý học người Đức V.Stecnơ nêu lên.
Tưởng rằngThuvientailieu.net.vn
khi kết hợp (hội tụ) 2 yếu tố phiến


diện: di truyền và môi trường thì có thể giải quyết được
vấn đề động lực phát triển trẻ em. Song những kết quả
nghiên cứu về trẻ em sinh đôi cùng trứng và sinh đôi
khác trứng được tiến hành vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX đã bác bỏ thuyết trên. Với phương pháp nghiên
cứu trẻ em sinh đôi trong nhiều năm, được tiến hành
bởi nhiều nhà sinh - tâm lý học như J.Gacne,
II.Niumen, I.I.Caraep v.v... người ta thấy rằng: hóa ra
những đứa trẻ sinh đôi cùng trứng, cùng có môi
trường sống như nhau (ví dụ: Natasa và Ema), khi lớn
lên cũng không hoàn toàn giống nhau về sự phát triển
tâm lý, nhân cách. Do trong quá trình sống Natasa vốn
hiếu động hơn, thường chủ động bày ra các trò chơi,
giữ vai trò chỉ huy, còn Ema thì thụ động hơn, làm theo
những "sai khiến" của Natasa nên tính cách của hai
em khác nhau, đến nỗi I.I Caraep viết: "Sự phân hóa

của các cháu sinh đôi này đạt đến mức gây ra tác hại
cho cả hai, vì nó làm cho mỗi cháu phát triển theo một
mặt riêng đặc thù của từng cháu" (trang 415, theo
Elkônin - Tâm lý học Liên Xô). Nhiều kết quả nghiên
cứu khác chứng tỏ: ngay cả với các cháu sinh đôi cùng
trứng, lớn lên trong cùng một gia đình, cũng không
phát triển như nhau. Mỗi cháu ở vào một hoàn cảnh
phát triển có một không
hai, riêng cho mình nó, trong
Thuvientailieu.net.vn


đó khâu trung tâm không phải là môi trường mà là
quan hệ của đứa trẻ với những yếu tố nhất định của
môi trường ấy. Nghĩa là cháu có một "môi trường cỏn
con" của riêng mình trong phạm vi môi trường chung.
Chỉ có những yếu tố nào của môi trường mà trẻ tích
cực quan hệ, tích cực tác động qua lại với chúng mới
tạo thành các điều kiện cụ thể có ảnh hưởng đến phát
triển của trẻ (theo Đ B.Elkônin, tr. 111-116).
4. Quan điểm của phái Nhi đồng học về trẻ em
Bên cạnh những quan điểm sai lầm, phiến
diện về động lực phát triển tâm lý trẻ em, vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, còn một dòng phái thứ tư ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý học, đó là phái
Nhi đồng học. Phái Nhi đồng học tự coi mình là những
nhà khoa học duy nhất Mácxít về trẻ em. Họ coi Nhi
đồng học là một khoa học phức hợp, tổng hợp nghiên
cứu về trẻ em, giữ độc quyền nghiên cứu về trẻ em, lấn
át cả giáo dục học và sinh lý học lứa tuổi. Họ coi tâm lý

học là "khoa học về yếu tố chủ quan", dẫn đến say mê
các trắc nghiệm để xác lập hệ số năng khiếu trí tuệ (hệ
số IQ) của học sinh một cách máy móc, phiến diện.
Những quan niệm và việc làm thiếu căn cứ
Thuvientailieu.net.vn


×