Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tieu luan triet cao hoc lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.07 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp
tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác Lênin. Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Phương
pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp
tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải
tạo thế giới.
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua
ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của
nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy
vật.
+ Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện
chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện
tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận.
Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa
phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
+ Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này
được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người
hoàn thiện là Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy
nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội
dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song theo họ biện chứng ở
đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao
chépý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy
tâm.
+ Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật
được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa
những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện
11


chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát


triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Trong lịch sử triết học, phép biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong
đời sống tinh thần xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử phát triển của
phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự
phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Từ đó, tôi chọn đề tài tiểu luận
về: “Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học” để nghiên cứu.

22


NỘI DUNG
PHẦN I. CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC MÁC – LÊNIN
1. Sự hình thành phép biện chứng thời kỳ cổ đại
Phép biện chứng tự phát tồn tại trong nền triết học cổ đại.Các nhà biện chứng
thời kỳ này đã thữa nhận rằng các sự vật hiện tượng trong thế giới không ngừng
sinh thành biến hoá vô tận. Đây là kết quả quan sát trực tiếp nên còn thể hiện
tính trực quan ngây thơ. Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát,
ngây thơ và mang nặng tính trực quan được hình thành trên cơ sở quan sát tự
nhiên, xã hội hoặc thông qua kinh nghiệm của bản thân. Ta sẽ đi theo chiều lịch
sử từ Triết học Trung Hoa cổ đại cho đến triết học ấn Độ cổ đại và triết học Hy
Lạp cổ đại. Phép biện chứng thời kì này tại ba nền Triết học chính có những
điểm giống nhau và cả những điểm khác nhau, tùy thuộc vào nền văn hóa, phát
triển của mỗi nơi.
1.1 Phép biện chứng trong Triết học Trung Hoa cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào bậc
nhất thế giới. Đó là một trong những trung tâm tư tưởng lớn nhất của nhân loại
thời cổ. Triết học Trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới
103 trường phái triết học. Với bối cảnh xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân cơ
cực, đạo đức suy đồi nên triết học Trung hoa cổ đại tập trung vào giải quyết các
vấn đề về chính trị - xã hội. Song cần phải khẳng định rằng, chủ nghĩa duy vật

và phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại là chủ nghĩa duy vật chất
phác và phép biện chứng tự phát.
Một trong những học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc là
Học thuyết Âm – Dương của Triết học phái Âm dương gia. Đây là một học
thuyết triết học được phát triển trên cơ sở một bộ sách có tên là Kinh Dịch. Nội
dung triết học căn bản của phái Âm -Dương là lý luận về sự biến dịch, được khái
quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan và tất yếu.
Một là, phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính
33


đồng nhất tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối
lập, gọi là sự thống nhất của Âm và Dương. Nói cách khác, Âm -Dương là đối
lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dương
còn thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã
bao hàm khả năng của mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về
sinh thành, về vận động.
Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ
và chu kỳ đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là
một nguyên lý tất định. Nguyên lý đó được khái quát bằng một lôgíc như sau:
Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái,
Bát quái tương thôi sinh vô cùng (vạn vật). Về bản thể luận, phái Âm - Dương
quy thế giới về những dạng vật chất cụ thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn
vật. Theo phái này, nguyên thuỷ của thế giới bao gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả Thổ.
Tóm lại, học thuyết Âm - Dương là kết quả của quá trình khái quát hoá
những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại. Mặc
dù còn những tính chất trực quan, chất phác ngây thơ và tồn tại những quan
điểm duy tâm thần bí về xã hội, nhưng học thuyết Âm - Dương đã bộc lộ rõ
khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm

về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã
hội.
Tiếp theo là quan điểm về phép biện chứng của Lão Tử (Triết học Đạo
gia). Những ý kiến luận giải về Đạo, coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối
trong sự vận hành của vũ trụ đã thể hiện rất sâu sắc quan điểm biện chứng của
Lão Tử. Trong đó nổi bật lên hai quan điểm về phép biện chứng của ông là quan
điểm về luật quân bình và quan điểm về luật phản phục. Luật quân bình để giữ
cho sự vận hành của vạn vật được cân bằng, không thái quá mà cũng không bất
cập. Phản phục là nói lên tính tuần hoàn, tính chu kỳ trong quá trình biến dịch
44


của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện
chứng độc đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và khó
tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau
theo nhau. Trong đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập, không có
mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tương đối. Tuy nhiên, sự
đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng không theo
khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật
phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu
tranh của các mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái vô vi để tạo thành
sự chuyển hoá theo luật quân bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ông mang
tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một cách tuần hoàn.
Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận
thức, triết học Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất
phác, cảm tính và phép biện chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm
biện chứng trong cách kiến giải về vũ trụ quan, có thể nói triết học Trung Quốc
cổ đại đã đặt cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các tư tưởng biện chứng của triết
học nhân loại.

1.2 Phép biện chứng trong Triết học Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc nam châu Á có điều kiện khí hậu hết sức
khắc nghiệt và địa hình tách biệt với các quốc gia, do đó Ấn Độ cổ đại trở thành
một nền văn minh khép kín. Các tư tưởng tôn giáo rất phát triển trong xã hội Ấn
Độ thường xuyên đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù riêng của triết học
Ấn Độ cổ đại. Đây là hệ thống triết học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học
với tôn giáo và giữa các trường phái khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể
hiện dưới hình thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống, triết học
ấn Độ cổ đại có 9 trường phái, trong đó có 6 trường phái là chính thống và 3
trường phái phi chính thống. Trong tất cả các học thuyết triết học đó thì học
55


thuyết triết học thể hiện trong Phật giáo là học thuyết mang tính duy vật và biện
chứng sâu sắc tiêu biểu của nền triết học ấn Độ cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI TCN do Tất Đạt Đa, tên hiệu là Thích
Ca Mầu Ni (563 - 483 TCN), khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật trong thế
giới không do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà được tạo ra bởi hai yếu tố là
Danh (tinh thần) và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao gồm tâm và thức, còn
Sắc bao gồm 4 đại (đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong). Chính nhờ tư tưởng
nêu trên mà Phật giáo được coi là tôn giáo duy vật duy nhất chống lại thứ tôn
giáo thần học đương thời.
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết
học, Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện
chứng, với tư cách là học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự biến đổi
của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những tư tưởng biện chứng
của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô thường và nhân
quả. "Vô ngã" nghĩa là "không có cái ta, cái tôi bất biến", theo đó không có cái
gì là trường tồn là bất biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt lập. "Vô
thường" tức là biến, biến ở đây được hiểu như là sự biến đổi của vạn vật theo

chu kỳ: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đối với sinh vật); Thành - Trụ - Hoại - Không
(con người).
Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người thời
kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình
thành các tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này
cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay
phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina.
1.3 Phép biện chứng trong Triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở kinh tế
của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người
nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán
học, vật lý học, thiên văn học,... Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính
66


chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Mặc dù hãy còn nhiều tính "cắt
khúc", nhưng triết học Hy Lạp cổ đại đã có những phát hiện mới đối với phép
biện chứng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế thời kỳ chiếm hữu nô lệ,
Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về văn hoá, nghệ thuật, mà
trước hết là các thành tựu trong khoa học tự nhiên như: Thiên văn học, vật lý
học, toán học đã làm cơ sở thực tiễn cho sự phát triển của triết học trong thời kỳ
này. Triết học Hy Lạp cổ đại đã phát triển hết sức rực rỡ, trở thành nền tảng cho
sự phát triển của triết học phương Tây sau này.
Tư tưởng biện chứng sơ khai đầu tiên của Triết học cổ đại Hi lạp đó là tư
tưởng của Talét. Theo Ta lét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh
ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể
thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nền tảng là nước. Tuy
nhiên, các quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc
mạc, thô sơ, cảm tính.
Còn theo Anaximăngđrơ, khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học, ông

cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất,
vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta không thể trực quan thấy
được. Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bước tiến xa hơn trong sự khái quát
trừu tượng về phạm trù vặt chất.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng là Heraclit.
Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác - Lênin thì Heraclit là người sáng lập
ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng dựa
trên lập trường duy vật.
Tư tưởng biện chứng của Heraclit được thể hiện:
- Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít,
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Ông
nói: "Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không
77


ngừng chảy trên sông"; "Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới"
- Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi
sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò
của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi
của những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập. Ông nói:
"cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng
cái này biến đổi là cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành cái này ...".
- Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế
giới do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách
quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học
thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos
khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ
khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết

học khác không có được tư tưởng biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là những
tư tưởng biện chứng sơ khai của Heraclit sau này đã được các nhà biện chứng cổ
điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học Macxít đánh giá cao. C.Mác và
Ph.Ănghen đã đánh gía một cách đúng đắn giá trị triết học của Heraclit và coi
ông là đại biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm
về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan
niệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan
niệm ấy là Heraclit".
Còn đối với Pácmênít, ông cho rằng bản chất của mọi vật trong thế giới là
tồn tại. Học thuyết về tồn tại của Pácmênít đánh dấu một bước tiến mới trong sự
phát triển tư tưởng triết học Hy Lạp, mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, hạn
chế trong học thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ ông đã đồng nhất tuyệt đối giữa
tư duy và tồn tại và mang tính chất siêu hình vì ông cho rằng tồn tại là bất biến.

88


Đêmôcrít là một trong những người đã phát triển thuyết nguyên tử lên một
trình độ mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến của
Pácmênít khi coi các nguyên tử là bất biến, mặt khác, ông kế thừa quan điểm của
Hêraclít cho rằng mọi sự vật biến đổi không ngừng. Ông cho rằng còn khoảng
trống hay còn "chân không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy
nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động. Về mặt bản thể
luận, Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới.
Khác với nhiều nhà triết học trước đó, phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính,
tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã chia nhận thức thành hai
dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý. Mặc dù triết học của Đêmôcrít
còn mang tính chất thô sơ, chất phác song những đóng góp của ông về các tư
tưởng biện chứng và thế giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
Sau Đêmôcrit là Arixtốt, xu hướng duy vật và tư tưởng biện chứng trong triết

học tự nhiên của ông thể hiện ở việc ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có
một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất của sự vật
tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ
với các sự vật khác. ông cho rằng vận động gắn liền với các vật thể với mọi sự
vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận động là không thể bị
tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động". Arixtốt là người đầu tiên
đã hệ thống hoá các hình thức vận động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay
đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí . Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy
tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa
biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết nguyên tử
của Đêmôcrít, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát, Platôn và phép biện chứng
chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao chứa mầm mống của tất cả
thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong lịch
sử triết học nhân loại. Chính vì vậy, Lênin coi phép biện chứng của các nhà triết
99


học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng.
2. Lịch sử phát triển phép biện chứng thời kỳ Phục Hưng và Cận Đại ở
Tây Âu.
Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Tây Âu là thời đại phục hưng, lịch
sử triết học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần học.
Do đó, chủ nghĩa kinh viện trở thành nét chủ đạo của triết học Tây Âu thời
trung cổ. Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành
của tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng
trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình.
2.1. Phép biện chứng thời kỳ Phục Hưng ở Tây Âu
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều gắn

với đạo Thiên chúa. Triết học thời kỳ Phục Hưng, chủ nghĩa duy vật được khôi
phục và biến đổi cùng với sự biến đổi của khoa học tự nhiên và dựa vào những
thành tựu của khoa học tự nhiên để tiến hành cuộc đấu tranh chống thế giới quan
thần học. Nhiều học thuyết triết học thời kỳ này đã phục hồi phép biện chứng tự
phát thời cổ đại và khái quát thành những thành tựu của khoa học tự nhiên tiên
tiến. Một số tư tưởng biện chứng nổi bật của thời kỳ này được thể hiện trong
triết học của Kudan và "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Brunô. Theo
G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật chất
nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia
ra đời. Nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp với nhau" thì dù là
nhà toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc được.
2.2 Phép biện chứng thời kỳ cận đại ở Tây Âu
Triết học thời kỳ này gắn chặt với các thành tựu của khoa học tự nhiên. Nếu
như triết học cổ đại dựa trên cơ sở quan sát và các phỏng đoán thiên tài thì thời
kỳ này triết học lại dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát các
thành tựu của khoa học tự nhiên và được chứng minh bằng khoa học tự nhiên.

1010


Các nhà khoa học tự nhiên thời kỳ này cũng đồng thời là nhà triết học. Tuy
nhiên, triết học Tây Âu thời cận đại lại rơi vào siêu hình, máy móc.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn.
Về cơ bản, P. Bêcơn là một nhà duy vật, ông thừa nhận thế giới là sự kết hợp
những biến đổi khác nhau của vật chất và đã có vật chất thì nó luôn vận động,
biến đổi. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu
hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song
cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận
động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo
toàn vật chất của thế giới.

Xpinôda là một nhà tư tưởng duy vật xuất sắc của Hà Lan. Triết học của
ông chứa đựng một số yếu tố biện chứng, thể hiện qua nguyên lý Causasui
(nguyên nhân tự nó). Trong đó, ông cho rằng quan hệ giữa thực thể và dạng thức
là sự thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất, giữa cái duy nhất và cái đa
dạng. Tư tưởng này đã đi gần tới quan điểm về mối liên hệ phổ biến và sự ràng
buộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên. Về nhận thức
luận, ông cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới song ông lại rơi
vào quan điểm siêu hình khi cường điệu hoá nhận thức kinh nghiệm, hạ thấp vai
trò của tư duy trừu tượng và khái quát khoa học.
Rơnê Đêcáctơ là đại biểu xuất sắc nhất của triết học Pháp thế kỷ XVII.
Đêcáctơ cho rằng không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể, vận
động là không thể bị tiêu diệt, nó luôn luôn gắn liền với các vật thể, vật thể luôn
vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận động trong không gian. Tuy nhiên, trong
giai đoạn này khoa học chưa phát triển đến trình độ cho phép phát hiện ra các
hình thức vận động khác nhau của vật chất cho nên Đêcáctơ hiểu vận động của
vật chất chỉ là vận động cơ giới hay chuyển dịch vị trí trong không gian. Về
nhận thức luận, Đêcáctơ đã tách rời hai giai đoạn cảm tính và lý tính của nhận
thức nên ông vẫn là một nhà duy vật siêu hình.
1111


Như vậy, ngay cả trong giai đoạn phương pháp tư duy siêu hình giữ vị trí
thống trị thì trong các học thuyết triết học vẫn xuất hiện những yếu tố biện
chứng sâu sắc. Phương pháp siêu hình trong triết học Tây Âu thời kì Phục hung
và Cận đại đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá trình nhận thức giới tự
nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập, mô tả giới tự nhiên.
Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển
của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ những hạn chế. Vì vậy nó không tránh
khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là
phép biện chứng Hêghen.

3. Lịch sử phát triển phép biện chứng trong Triết học cổ điển Đức
Như Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hoá duy tâm, nhưng phép biện
chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng và logic học và
lý luận nhận thức. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trước sự đòi hỏi của sự
phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học
tự nhiên đã phát triển đạt đến trình độ cao. Phương pháp tư duy siêu hình đã
bộc lộ những hạn chế và bất lực trong việc giải quyết các vấn đề về tự nhiên và
xã hội. Triết học cổ điển Đức ra đời đem lại cái nhìn mới về bản chất các hiện
tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của các tri thức triết
học trong thời kỳ này đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là một
phương pháp lý giải các vấn đề cấp bách của triết học và hơn thế nâng nó lên
thành một khoa học thật sự. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức bắt đầu
được hình thành ở Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen.
Kantơ được đánh giá là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển Đức.
Ông là tác giả của hai phát minh quan trọng về khoa học tự nhiên: “Sự hình
thành thế giới và Sự lên xuống của thủy triều”. Ý nghĩa lớn lao của hai phát
minh này thể hiện ở chỗ nó xuất phát từ chính bản thân những tính chất của vật
chất để giải thích giới tự nhiên mà không cần cầu viện đến một thứ lực lượng
thần bí siêu tự nhiên nào. Hơn nữa, hai phát minh này còn đem lại một quan
1212


điểm có tính chất biện chứng về giới tự nhiên. Nó cho thấy giới tự nhiên tác
động qua lại lẫn nhau và vận động chuyển hoá không ngừng. Mặc dù còn nhiều
hạn chế nhưng trong vấn đề này Kantơ đã tiến gần đến phép biện chứng.
Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông là một tiền đề lý
luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng rất mạnh
đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được
gọi là "tinh thần Phổ". Ông viết: "Phép biện chứng nói chúng là nguyên tắc của
mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện

chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính". Luận điểm xuyên
suốt trong hệ thống triết học của Hêghen là: "Tất cả cái gì là hiện thực đều là
hợp lý và tất cả những gì hợp lý đều là tồn tại".
Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người
đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy một cách biện chứng,
có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong logic
học, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như lượng - chất, vật
chất - vận động mà còn đề cập đến các quy luật khác như lượng đổi dẫn đến
chất đổi, quy luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận
động, phạm trù của tư duy, của khái niệm.
Trong tác phẩm “Triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu lên những tư tưởng
biện chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và vận động; về tính chất mâu
thuẫn của những phạm trù không gian, thời gian và vận động; về sự phụ thuộc
của những đặc tính hoá học vào những thay đổi về lượng...
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng biện
chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể hiện
ở: Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt đối) sinh
ra. Do đó mà C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: "Phép biện chứng đi
lộn đầu xuống đất". Vì vậy, cần phải đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất
hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy vật.
1313


Tóm lại, Hêghen đã khái quát một cách sâu sắc và có hệ thống về những
vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng và cần phải thừa nhận rằng những tư
tưởng biện chứng của ông là những tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Song hệ thống
triết học của ông lại duy tâm, bảo thủ và đi ngược lại sự tiến bộ, cách mạng.

PHẦN II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
MÁC XÍT.

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được
Mác và Ăngghen sáng lập nên và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ
XX. Tuy nhiên cần phải thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật biện
chứng của Mác và Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, dựa trên
các tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên.
1. Tiền đề cho sự ra đời của Phép biện chứng duy vật.
- Tiền đề kinh tế - xã hội: đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó mà biểu
hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra song còn mang tính chất tự
phát, cảm tính và thiếu tổ chức. Nó đòi hỏi phải có một vũ khí lý luận sắc bén
soi đường cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác
nói chung và triết học Mác nói riêng ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
- Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị
trong các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện chứng của
Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phơbách là một trong những tiền đề lý luận
trực tiếp của triết học Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Ba phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời kỳ này
là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết về tế bào và thuyết
tiến hoá của Darwin. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải
khái quát về mặt triết học để chỉ ra các mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra
1414


trong tự nhiên, trên cơ sở đó nhận thức đúng đắn và toàn diện về bản chất của
các quá trình phát triển đó. Điều này tất yếu dẫn tới sự thay thế thế giới quan duy
tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật. Chính Mác và
Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu của khoa học tự
nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật Mác xít

Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con người.
Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học,
đó là cho ra đời một hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật.
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách
quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt
phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng
trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến
trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng
là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về
tính tương đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng
tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau
nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát
triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử - hệ
thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của
phủ định).

1515


Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi
đó các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng
được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng

với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành
động.
Các tư tưởng về phép biện chứng được thể hiện rõ rang qua 1 loạt các phẩm:
Tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói đầu”
vào cuối năm 1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật biện chứng sâu
sắc. Cuối năm 1844, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia đình thần
thánh”, “Chống Brunô Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên Mác và
Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Mùa xuân năm 1845, Mác viết tác phẩm “Luận cương về Phơbách”, qua
đó Mác phê phán những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật Phơbách cũng như
những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung. Đó là sự phê phán
có tính kế thừa của Mác để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới là chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Năm 1845 - 1846, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức”, đánh dấu bước tiến mới của Mác và Ăngghen trong việc phát triển
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ăngghen được viết vào năm 1876 1878 là một trong những tác phẩm quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của
triết học Mác. Trong tác phẩm “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê
phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”, Lênin đã phát triển làm
phong phú thêm nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng về mối liên hệ
hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. “Bút ký triết học” của Lênin là một tác phẩm
tiếp tục phát triển phép biện chứng Mácxít. Trong đó, Lênin phân tích sâu sắc tư
tưởng coi phép biện chứng như là khoa học về sự phát triển.
1616


Tóm lại, chủ nghĩa Lênin là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để chủ
nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Sự phát triển
phép biện chứng của Lênin gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề cách mạng,
phong trào công nhân, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến lược và sách lược của
Đảng cộng sản. Với những cống hiến quý báu vào kho tàng triết học Mác, có thể

nói Lênin đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong việc bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mácxít.
PHẦN III. Ý nghĩa cửa việc nghiên cứu Lịch sử phát triển của Phép biện
chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay.
Phép biện chứng là một phương pháp nghiên cứu xem xét các sự vật hiện
tượng trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện tượng đó và trong
sự đứng im tương đối.
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của
CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường
quá độ lâu dài, mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn
giữa xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa
xã hội. Trong xu thế của nền kinh tế mở hiện nay, nước ta không thể tồn tại biệt
lập và đứng ngoài sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Để hoà nhập vào
nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế khu vực nói riêng đòi hỏi chúng ta
phải nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng để nhận
thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, trên cơ sở đó đáp ứng
những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn
CNTB, không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong
CNXH, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình CNXH ở nước khác để
xây dựng nước ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển.
1717


Do đó, để xây dựng thành công CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác Lênin làm kim chi nam cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình
hình thực tế của các XHCN, TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại

gặp phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển
kinh tế và phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoạt
động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là phát huy
được tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng nhu
cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích
thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị trường, gây ra khủng hoảng kinh tế,
thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của
nền kinh tế XHCN là xây dựng một Nhà nước "của dân, do dân, vì dân", xây
dựng một xã hội "công bằng văn minh". Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá
không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại
tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay
cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Để giữ vững bản chất CNXH trong
phát triển kinh tế Nhà nước cần sử dụng các công cụ của mình để tiến hành điều
tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội
được hưởng thành quả trong phát triển kinh tế. Quán triệt phép biện chứng duy
vật và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng nước ta là điều kiện tiên quyết
bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công và đưa sự nghiệp cách mạng nước ta
đến thắng lợi hoàn toàn.

1818


Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học,
có thể khẳng định: Phép biện chứng đã trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử hình
thành và phát triển. Mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể đánh dấu một bước phát triển của
phép biện chứng. Khởi nguồn là phép biện chứng tự phát cổ đại, sau đó là phép
biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn và có lúc bị phép siêu hình thế kỷ
XVII - XVIII phủ định, rồi đến phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và cuối

cùng là phép biện chứng duy vật - giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện
chứng. Phép biện chứng duy vật Mácxít ra đời là sự kế thừa hợp quy luật những
thành tựu tư tưởng triết học của loài người và được minh chứng bởi các thành
tựu của khoa học đương thời. Mác - Ăngghen đã sáng lập ra phép biện chứng
duy vật và được Lênin bảo vệ và tiếp tục phát triển, làm cho nó trở thành
phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Tiến trình đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay ngày càng đặt ra
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải nắm vững phép
biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng để xác định phương pháp nhận
thức và hành động đúng đắn. Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại
trong quá trình nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía
cạnh của một vấn đề lớn đặc biệt là phép biện chứng duy vật mác-xít. Chính vì
vậy, với đề tài tiểu luận nghiên cứu: “Lịch sử phát triển của phép biện chứng
trong Triết học”, tôi mong rằng sẽ khái quát được một phần nào đó tầm quan
trọng của phép biện chứng trong công cuộc phát triển con người, đất nước Việt
Nam hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn!

1919


Tài liệu tham khảo

1. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên nghành triết học. NXB Chính trị quốc gia 1997
2. Giáo trình Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học tập 1, tập 2, tập 3. Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia.
3. Giáo trình Đại cương lịch sử Triết học. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội,

1997.
4. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2005.

2020


MỤC LỤC

2121



×