Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận cao học triết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.99 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1


CNDV :

Chủ nghĩa duy vật

CNDT :

Chủ nghĩa duy tâm

CNXH :

Chủ nghĩa xã hội

PHẦN MỞ ĐẦU
2


Triết học là môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng
của tự nhiên và xã hội , nhằm tìm ra các quy luật của đối tượng nghiên cứu. Mục
đích cơ bản của Triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận
thức luận.
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội , hệ thống các quan
điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. Vấn đề
quan hệ giữa vật chất và ý thức ( tinh thần ) là vấn đề cơ bản của Triết học.
Vấn đề cơ bản của Triết học là vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy , giữa vật
chất và ý thức . Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để


giải quyết những vấn đề khác của Triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch
sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
Nó có 2 mặt : Mặt thứ nhất là giải quyết vấn đề vật chất và ý thức , cái nào
có trước, cái nào có sau; Mặt thứ hai giải quyết vấn đề con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không. Tùy theo cách giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ
bản mà các nhà Triết học chia làm hai phe chính : những người theo chủ nghĩa duy
tâm và những người theo chủ nghĩa duy vật.
Tùy theo cách giải quyết mặt thứ hai mà mà các nhà Triết học chia thành
những người thừa nhận con người có thể nhận thức được thế giới ( khả tri ) và
những người phủ nhận khả năng ấy ( bất khả tri)
Triết học ra đời rất sớm , ngay từ khi mới ra đời , Triết học đã phân làm
hai phe đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm , và sự đấu tranh
giữa hai phe ấy đã trở thành quy luật phát triển của Triết học. Cùng với cuộc đấu
tranh ấy, trong quá trình phát triển của Triết học cũng xuất hiện và ngày càng biểu
hiện sâu sắc hơn sự đối lập giữa hai phương pháp tư duy : biện chứng và siêu
hình .
3


Các trào lưu Triết học trong lịch sử đã có thể có những biện pháp khác
nhau nhưng không thóa t ra khỏi nhưng sự đôi tâm , giữa phương pháp biện chứng
và phương pháp siêu hình.
Chính cuộc đấu tranh giữa hai trường phái duy tâm và duy vật đã thể hiện
tính giai cấp của Triết học. Triết học là thể giới quan của một lực lượng xã hội ,
một giai cấp nhất định cho nên cuộc đấu tranh trên mặt trận triết học cũng phản
ánh cuộc đấu tranh về tư tưởng và chính trị.

PHẦN NỘI DUNG
I.


CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới
khoa học Mác – Lê nin ; là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, là
hệ thống quan điểm lý luận được xác lập trên cơ sở giải quyết theo quan điểm duy
vật biện chứng đối với vẫn đề cơ bản của triết học. Do đó, nắm vững những nội
dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là điều kiện tiên quyết để nghiên
cứu toàn bộ hệ thống quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê nin .
Vật chất và ý thức là những phạm trù cơ bản của triết học; là nền tảng của
CNDV biện chứng. Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ lẫn nhau. Chung quanh
các phạm trù này từ lâu đã trở thành nội dung luận bàn của các trường phái triết
học bởi làm rõ nội dung vật chất và ý thức cũng như mối quan hệ của nó có ý
nghĩa lớn lao về mặt lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vậy biện chứng

4


II. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC
2.1.

Tính thống nhất vật chất của thế giới
Các nhà triết học duy tâm tìm nguồn gốc , bản chất ở ý niệm tuyệt đối hoặc
ở ý thức con người ; ngược lại các nhà duy vật trước Mác có khuynh hướng chung
là tìm nguồn gốc , bản chất của Thế giới ngay trong bản thân nó. Nhưng do ảnh
hưởng của quan điểm siêu hình – máy móc nên họ cho rằng mọi hiện tượng của thế
giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau , thống nhất với nhau ,
cùng bị chi phối bởi một số quy luật nhất định. Quan điểm ấy không phản ánh

được tính nhiều vẻ, tính vô tận của Thế giới hiện thực
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, bản chất của thế giới là vật
chất , thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau đây :
Một là , chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan , có trước và độc lập với ý thức con người
Hai là , mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau , biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất
Ba là , thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn , vô hạn và vô tận, không được
sinh ra và không bị mất đi . Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình
vật chât đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau , là nguồn gốc , nguyên nhân và kết
quả của nhau.

2.2.

Quan niệm Vật chất

5


Coi vật chất là thực thể, cơ sở đầu tiên, bất biến của tất cả các sự vật, hiện
tượng tồn tại trong thế giới khách quan.
- Quan niệm duy vật cổ đại về vật chất mang tính trực quan, cảm tính, thể
hiện ở sự đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó, tức là những sự vật cụ thể,
coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại như: Đất, nước, lửa, không khí, apâyrôn...
Đỉnh cao trong quan niệm vật chất cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và
Đêmôcrit, thừa nhận thực thể của thế giới là nguyên tử.

Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát
triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất, tạo
cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những
phỏng đoán giả định.
- Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII - XVIII: Việc coi
nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, tách rời
vận động, không gian và thời gian vẫn là một quan niệm phổ biến. Chính Galilê,
Đềcác, Bêcơn, Hôpxơ...đã khẳng định và phát triển quan niệm này.
- Sang thế kỷ XIX, các nhà triết học và khoa học tự nhiên do không hiểu
phép biện chứng duy vật vẫn đồng nhất vật chất với nguyên tử, hoặc với một thuộc
tính phổ biến của các vật thể là khối lượng.
- Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong vật lý học hiện đại xuất hiện
những phát minh quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới, sâu sắc
về cấu trúc của thế giới vật chất.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử.
Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động, khối
lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi.
Những phát minh đó chứng minh rằng sự đồng nhất vật chất với những
6


dạng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như quan niệm duy vật
trước Mác đã không còn phù hợp nữa và trở thành căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi
dụng chống lại chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng "vật chất đã tiêu tan", và toàn bộ
nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã bị sụp đổ hoàn toàn. Cuộc “khủng hoảng của
vật lý học” xuất hiện.
Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ: Những phát minh có giá
trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật mà chỉ bác bỏ

quan niệm cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về mặt cấu trúc, rằng nguyên tử
hay khối lượng là giới hạn cuối cùng, bất biến của giới tự nhiên. Lênin đã chỉ ra
rằng, không phải "vật chất tiêu tan" mất, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc “khủng hoảng
của vật lý học” và phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật
chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất mà cho đến
nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận.
2.2.1. Định nghĩa vật chất của Lênin
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
- Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng
nhất mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được” nên không
thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp thông thường, đem quy nó về một vật
thể, một thuộc tính hoặc vào một phạm trù rộng lớn hơn được. Vì vậy, Lênin đã sử
dụng phương pháp mới để định nghĩa vật chất là đem đối lập vật chất với ý thức và
xác định nó “ là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây nên cảm
giác”.
Trước tiên, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các
quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các
7


dạng vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung,
vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
- Trong định nghĩa, Lênin đã chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong
nhận thức luận thì cái quan trọng nhất để nhận biết nó chính là thuộc tính khách
quan. "Vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác.. .và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý

thức và không phụ thuộc vào ý thức.
2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cái gây nên cảm giác ở
con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan con người.
3. Cảm giác, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ý thức con người là
sự phản ánh thực tại khách quan, nghĩa là con người có khả năng nhận thức được
thế giới.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường duy vật biện chứng, thừa nhận trong nhận thức luận thì vật
chất là tính thứ nhất, và con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như
vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất.
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn chống lại các quan điểm duy tâm về
vật chất, tạo cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn có vai trò định hướng cho sự phát triển
của nhận thức khoa học.
2.2.2.

Vật chất và vận động.

a. Vận động
Ăngghen viết:"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
8


mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy".
Theo quan điểm của triết học macxit, vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự
biến đổi nói chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự

tồn tại của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động;
bởi vì tất cả các dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các
mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn
đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm
duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở
chủ thể nhận thức.
Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất được nhận thức
thông qua sự vận động của chúng.
Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra và
cũng không thể tiêu diệt được. Nguyên lý này được chứng minh bằng định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng.
c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã
phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học.
- Vận động vật lý.
- Vận động hoá học.
- Vận động sinh học.
- Vận động xã hội.
Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:
9


Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những
trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.
Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng
bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.

Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân
loại các khoa học, cho khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học.
Đồng thời còn chống lại một khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy hình
thức vận động cao vào hình thức vận động thấp hơn.
d. Vận động và đứng im.
Theo Ăngghen, "đứng im tương đối của các vật thể... là điều kiện chủ yếu của sự
phân hoá của vật chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự
vật, hiện tượng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương
đối, tạm thời, thể hiện ở các điểm sau:
- Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
- Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ
không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương đối.
- Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó; còn
vận động nói chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.
2.2.3. Không gian và thời gian
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện những thuộc tính
như cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính như:
Độ lâu của sự biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái
10


khác nhau trong thế giới vật chất
- Không gian và thời gian tồn tại trong sự liên hệ thống nhất với nhau và
đều là hình thức cơ bản của vật chất đang vận động. Quan điểm này đối lập với
quan điểm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất đang
vận động.
Ví dụ: Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt đối, không biến đổi. Không

gian như cái hộp trống rỗng khổng lồ có thể xếp vào, lấy ra các sự vật; thời gian
như dải băng được trải ra một cách đều đặn.
Những phát minh trong toán học và vật lý học đã bác bỏ quan điểm trên.
Hình học phi Ơclít của Lôbasepxki, Riman; thuyết tương đối của Anhxtanh đã
chứng minh rằng không gian và thời gian có sự biến đổi cùng với sự vận động của
vật chất. Khi vật thể vận động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng thì kích thước
của nó rút ngắn lại, thời gian trôi chậm đi.
Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau:
1. Tính khách quan: Vì vật chất là thực tại khách quan nên không gian và
thời gian là những hình thức tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Điều đó phủ
nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian chỉ là sản phẩm
của ý thức con người.
2. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
3. Tính vĩnh cửu và vô tận
2.3.

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

2.3.1. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật
chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người.
11


Bộ óc con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật
- xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế
bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển
toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các

phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
Hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ
khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là chức năng của
bộ óc người, là hình ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan; nhưng ý thức
không diễn ra ở đâu khác ngoài hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc,
thần bí hoá hiện tượng tâm lý, ý thức. Còn chủ nghĩa duy vật tầm thường lại đồng
nhất vật chất với ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài
để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản
ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của
hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh
của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao với nhiều hình thức khác nhau.
- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
- Phản ánh sinh học trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau
ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật:
+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc
trước những tác động của môi trường.
+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh, xuất hiện do những
12


tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại. Nó hoàn thiện
hơn tính kích thích, được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển
mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
+ Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với các quá

trình hình thành các phản xạ có điều kiện, thông qua các cảm giác, tri giác, biểu tượng ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người.
Đó là hình thức phản ánh mới, đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất
là bộ óc con người.
Như vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần thiết nhưng chưa đủ.
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai
trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng 2 tay. Điều này
cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình
chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc chế tạo ra
công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục đích của hoạt
động biến đổi thế giới.
- Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực,
làm chúng bộc lộ những đặc tính và quy luật vận động của mình qua những hiện
tượng nhất định. Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con người gây nên
những cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không
phải là do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc con
người, mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động của con người cải tạo thế
giới khách quan nên ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người hoạt động xã hội.
13


Quá trình lao động của con người tác động vào thế giới đã làm cho ý thức không
ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về những thuộc tính mới của sự
vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu tượng của con người dần dần hình thành và phát
triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ

tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến
mức làm nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó",
tức là phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Đó là ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Theo Mác,
ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng; không
có ngôn ngữ thì con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các
quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
2.3.2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người,
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới
khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý
thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao
động. Vì vậy, ý thức ... là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những
cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những
cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo
ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu
14


tượng và có tính khái quát cao.
Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, bởi vì ý thức bao giờ cũng
chỉ là sự phản ánh tồn tại.
- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có
tính xã hội.
2.3.3. Kết cấu của ý thức

Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm
nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có thể chia cấu trúc của ý thức theo
hai chiều:
a. Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin,
lý trí, ý chí ..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
b. Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
III.

Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

Việc nghiên cứu định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa về mặt phương
pháp luận. Nghiên cứu định nghĩa vật chất của LêNin nhằm chống lại mọi hình
thức của CNDT cả trong quá khứ lẫn hiện tại và liên quan đến cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực tư tưởng triết học hiện nay. Bởi giải quyết được vấn đề cơ bản này của
Triết học thì sẽ giải quyết được cácvấn đề khác của Triết học và các môn khoa học
khác. Nghiên cứu phạm trù vật chất còn có ý nghĩa hết sức quán trọng là nó liên
quan trự tiếp đến công cuộc xây dựng CNXH ở nhiều nước. Cuối cùng là từng
bước khắc phục các tệ nạn xã hội, trước mắt là tệ nạn mê tín dị đoan.
Thông qua sự đối lập với ý thức - như là mặt đối lập biện chứng với vật chất,
định nghĩa phạm trù vật chất bao hàm điều kiện cần và đủ để phân biệt với những
phạm trù khác.
15


Ngoài dấu hiệu tồn tại ngoài ý thức, phạm trù vật chất còn có một dấu hiệu
quan trọng khác là tính có thể nhận thức được. Vật chất không phải tồn tại một
cách thần bí vô hình mà tồn tại một cách hiện thức được phản ánh vào cảm giác,
vào ý thức con người. Tồn tại vật chất là tồn tại với các dạng sự vật, hiện tượng
cảm tính, tức cụ thể và giác quan con người có thể nhận thức một cách trực tiếp

hoặc gián tiếp. Vì vậy về nguyên tắc không đối tượng nào không thể nhận thức
được, chỉ có những đối tượng chưa nhận thức được mà thôi.
Về ý thức, cũng như phạm trù vật chất, trong lịch sử Triết học đã không
ngừng diễn ra các cuộc tranh luận giữa CNDT và CNDV. Các nhà duy tâm cho
rằng ý thức quyết định vật chất, sinh ra vật chất, chi phối sự vận động và tồn tại
của vật chất. Họ cho rằng chúng ta không nhìn thấy đưọc ý thức cũng không chụp
ảnh được ý thức. ở các học thuyết triết học duy tâm khác nhau, quan niệm về ý
thức cũng có sự khác nhau nhất định. Song về thực chát, họ giống nhau chỗ tách ý
thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức làm điểm xuất phát để suy ra giới tự nhiên. Chúng
ta không nhìn thấy ý thức, cũng không chụp ảnh được ý thứ. Nhưng, ý thức không
phải là một hiện tượng siêu tự nhiên, tồn tại độc lập với vật chất và càng không thể
sản sinh ra thế giới vật chất. ý thức tách ra khỏi vật chất, bị tuyệt đối thành “vị thần
sáng tạo ra hiện thực”- đó là một sự trừu tượng chết, một sđiều bịa đặt phi lý kiểu
thần học.
Các nhà duy vật trước Mác cũng chỉ ra mối liên hệ khăng khít của ý thức với
vật chất. Họ có nhiều cố gắng chứng minh sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất.
Song do còn nhiều điểm hạn chế nên họ không giải thích nổi những vấn đề phức
tạp liên quan đến nguồn gốc và bản chất của ý thức.
CNDV tầm thường đã quy ý thức về vật chất, ngược lại CNDT quan niệm ý
thức như 1 thực thể độc lập, là thực tại duy nhất. Cả hai quan điểm đó về ý thức
đều sai lầm. Thực ra cả vật chất lẫn ý thức đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại
16


thực. Sự khác nhau giữa chúng chỉ ở chỗ vật chất là hiện thực khách quan, còn ý
thức là hiện thực chủ quan.
Theo chủ nghĩa Chủ nghĩa Mác-Lênin, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc tự nhiên là từ hiện thực khách quan và từ óc người.
Nguồn gốc xã hội là từ lao động và ngôn ngữ. Nếu thiếu hiện thực khách quan
hoặc óc người thì ý thức không thể xuất hiện. Có thể nói, ý thức là một dạng vật

chất sống có tổ chức cao, đó là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất
của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ xảy ra trong bộ óc người, trên cơ sở các quá
trình sinh lý- thần kinh của bộ óc. Không có các quá trình này thì không thể có ý
thức, và nói chung, không bất kỳ một hoạt động tư tưởng và tâm lý nào. Chính do
vậy, Mác nói ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người và
được cải biến đi ở trong đó. Nói cách khác ý thức là hình ảnh chủ quan của Thế
giới khách quan.
Và cũng có thể nói bản chất bản chất của ý thức chính là sự phản ánh thế giới
hiện thực khách quan vào óc người một cách tích cực, năng động và sáng tạo. ý
thức là hình thức phản ánh đặc trưng riêng của con người. Nó gắn với ngôn ngữ và
được phát triển từ thuộc tính phản ánh vốn có ở mọi dạng vật chất. Trước khi
chuyển thành ý thức, thuộc tính phố biến này của vật chất đã trải qua quá trình phát
triển lâu dài.
Sự phản ánh có cả thế giới vô cơ và hữu cơ. Sự phản ánh vô cơ thụ động
( như soi gương...); sự phản ánh hữu co là có chắt lọc, định hướng ( hoa hướng
dương hướng về mặt trời...).
ý thức là hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao hàm nhiều yếu tố
khác nhau như tri thức, tình cảm, lòng tin, ý chí.... Trong đó tri thức là yếu tố căn
bản nhất. Quá trình hình thành và phát triển ý thức cũng chính là quá trình con
người tìm kiếm, tích lũy tri thức xung quanh. Nếu không dựa vào tri thức thì ý thức
là 1 sự trừu tượng trống rỗng thuần túy, không giúp ích cho con người trong hoạt
17


động thực tiễn. Nhưng tri thức mà không thông qua tình cảm, không chuyển thành
lòng tin thì vẫn chưa thể là ý thức trong hành động.
Vậy giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng
Một là, vật chất có vai trò quyết định ý thức. Tính quyết định ở đây bao gồm
cả nguồn gốc và bản chất. Vật chất là yếu tố có trước, ý thức là yếu tố có sau. Vật
chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não

người là 1 dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức.
ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản
ánh thế giới khách quan.
Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức.
Vì vật chất như thế nào thì ý thức phản ảnh như thế ấy, đồng thời vật chất luôn
luôn vận động biến đổi nên nhận thức cũng phải vận động và biến đổi theo.
Mặc dù chịu sự quyết định của vật chất về nguồn gốc và nội dung, song ý
thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất nên có tính năng động sáng
tạo, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có nghĩa là ý thức tích
cực, khoa học, đúng đắn có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn theo khuynh
hướng đi lên trong quá trình cải tạo thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức phản
ánh không đúng hiện thực khách quan, có nghĩa ý thức tiêu cực, phản khoa học ở
mức độ nhất định có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn theo khuynh hướng đi xuống
của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội. Sự tác động của ý thức đối
với vật chất phải thông qua hoạt động con người. Con người dựa trên những tri
thức của mình về thế giới khách quan, từ đó đề ra mục tiêu phương hướng, biện
pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy. Vai trò sáng tạo chủ động, tích cực
của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế giới hiện thực đươc phát triển đến
mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên sự phản ảnh của thế giới khách quan và
các điều kiện khách quan. Cho nên ý thức, tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng,
18


có tác dụng quyết định làm cho con người phát triển, hoạt động đúng hay sai, thành
công hay thất bại khi thực hiện những khả năng nào đó..
Với nội dung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức giúp chúng ta rút ra
được ý nghĩa về phướng pháp luận trong nhận thức cũng như trong chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Vật chất quyết định, do đó chúng ta phải xây dựng nguyên tắc khách quan

trong sự xem xét. Nguyên tắc này thể hiện ở mấy vấn đề sau:
Một là đòi hỏi tư duy của chúng ta phải nhận thức sự vật với tư cách là cái
khách quan, tồn tại và phát triển ngoài ý thức của con người, nó đòi hỏi khi xem
xét sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng đó, đòng thời
phải tôn trọng quy luật trong sự phản ánh, khong được lấy ý muốn chủ quan của ta
làm điểm xuất phát.
Hai là không coi nhẹ vai trò của nhân tố chủ quan, không coi nhẹ tính năng
động của ý thức mà nguyên tắc khách quan đòi hỏi sự phát huy tính nanưg động
chủ quan, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức trong việc tìm ra những
con đường, những phương pháp để từng bước thâm nhập vào bản chất của sự vật.
Ba là, tránh chủ nghĩa khách quan. Đặc trưng của chủ quan là đề cao, thổi
phồng, tuyệt đối hóa yếu tố kách quan, đồng thời hạ thấp vai trò của con người
trước thế giới hiện thực. Bốn là, đòi hỏi sự trung thực trong sự phản ánh, điều đó
có tác dụng ngăn ngừa tư duy của chúng ta vấp phải những sai lầm do việc chủ thể
đưa vào khách thể một số yếu tố khách quan vốn không có trong bản thể khách thể
đó. Nguyên tắc khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí. Nguyên
nhân vi phạm nguyên tắc khách quan là do xa ròi thực tiễn, do hạn chế về trình độ
chuyên môn, trình độ lý luận; do thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch, do sự cố
tình của chủ thể nhận thức.
Nghiên cứu mối quan hệ vật chất và ý thức giúp chúng ta trong nhận thức
cũng như trong chỉ đạo hành động thực tiễn, nhất là khi đề ra chủ trương
19


đường lối chính sách cần phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
Trong nhận thức và hành động con người phải dựa vào điều kiện khách quan,
lấy khách quan làm cơ sở, làm phương tiện cho hành dộng có mục đích của mình
nhưng phải biết nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động
sáng tạo với ý chí không ngừng cải tạo hiện thực theo nhu cầu tiến bộ xã hội. Tinh

thần cách mạng và khoa học trong việc vận dung mối quan hệ vật chất và ý thức
đòi hỏi chúng ta phải chống lại thái độ tiêu cực, thụ động vin vào điều kiện khách
quan ngồi chờ, không dám hành động; đồng thời phải chống lại chủ quan duy ý
chí, là biểu biểu hiện là hành động bất chấp quy luật, điều kiện cụ thể. Trong hoạt
động động của con người, nhân tố vật chất và và yếu tố tinh thần có mối liên hệ
chặt chẽ hữu cơ với nhau, tác động qua lại thành thể thống nhất chặt chẽ. Sức
mạnh ý thức của con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất, thoát ly
hiện thực khách quan mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy
luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan. Đồng thời phải nâng cao tính năng
động chủ quan. Để nâng cao tính năng động, chủ quan, phải nâng cao trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị Mác-Lênin, nâng cao lòng
nhiệt tình cách mạng, rèn luyện cả tài lẫn đức.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta luôn xác định: Một trong những điều kiện
cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo của đúng đắn của mình là phải luôn luôn đề ra các
chủ trương chính sách xuất phát từ các yêu cầu bức xúc cần giải quyết của thực
tiễn, đồng thời trong quá trình thực hiện phải tôn trọng và thực hiện theo đúng quy
luật khách quan.
Thực tiễn họ thấy ở đâu và khi nào, con người rơi vào chủ quan duy ý chí, coi
thường thực tiễn khách quan thì ở đó việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội sẽ gặp khó
khăn, thậm chí thất bại. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu là minh chứng cho việc không đánh giá đúng thực tiễn. Thực tiễn quá
20


trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã có lúc trước đây, trong một thời gian
dài đã mắc phải sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đế sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Những sai lầm này thể hiện cụ thể ở
việc xác định mục tiêu và bước đi trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Với suy nghĩ và hành động giản
đơn, lại nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan”, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu kinh

tế- xã hội xa rời với thực tế khách quan, trong khi trình độ quản lý kinh tế xã hội
còn hạn chế, bị các thế lực đế quốc và phản động bao vây, cô lập. Hậu quả làm nền
kinh tế- xã hội bị khủng hoảng, trì trệ, và ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác, uy tín
nước ta trên trường quốc tế bị giảm sút... Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật,
đánh gía đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã thẳng thắn vạch rõ những nguyên
nhân và bài học kinh nghiệm rút ra từ tực trạng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh:
“ Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm
về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý, lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội
chạy theo hành động chủ quan” ( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.26), đồng thời chủ trương đổi mới, trước mắt là đổi
mới tư duy trên cơ sở kiên định và lấy nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Tiếp theo,
Đảng đã có nhiều chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, chủ động hội nhập với thế giới... Tất cả những chủ trương đổi mới
này qua thành tựu của hơn 16 năm cho đến nay đã chứng tỏ chúng ta vừa có bước
đi thích hợp và chọn điểm xuất phát đúng đắn, phù hợp hoàn cảnh điều kiện thực tế
của đất nước, vừa nắm vững và không chệch hướng với quan điểm nền tảng của
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thành tựu của công
cuộc đổi mới đã là một minh chứng hùng hồn cho việc kết hợp hài hòa, nhuần

21


nhuyễn của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trên quan điểm của
Chủ nghĩa Mác-Lênin.

KẾT LUẬN
Tóm lại, thế giới vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con
người; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan; giữa vật chất và ý thức

có mối quan hệ biện chứng với nhau. Con người xuất phát từ thế giới làm căn cứ
cho hoạt động có mục đích của mình. Con người càng phản ánh đầy đủ và đúng
đắn về thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả theo nhu cầu của
mình. Sức mạnh ý thức của con người không phải ở chỗ tách rời hiện tựợng vật
chất thoát ly hiện thực khách quan mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản
ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan. Xuất phát từ ý nghĩa
đó, Đảng ta luôn xác định, một trong những diều kiện cơ bản để đẩm bảo sự lãnh
đạo đúng dắn của mình là phải” luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan”. Thiết nghĩ với việc hiểu đầy đủ phạm trù -Mối quan hệ
vật chất và ý thức sẽ giúp chúng ta xây dựng niềm tin, hy vọng vào sự thắng lợi
của Chủ nghĩa Mác-Lênin trên lĩnh vực đấu tranh tư tưởng lý luận, vận dụng sáng
tạo vào hoàn cảnh và điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam, góp phần cùng
toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu “Vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin / NXB HN 2009
22


2. C.Mac và Ănggen : toàn tập NXB chính trị quốc gia Hà Nội , 1995
3. Web :



23




×