Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

tiểu luận Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.76 KB, 37 trang )

Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

MỤC LỤC

Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.1. Giới thiệu chung về tài nguyên nước

Tài nguyên nước là các nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể sử dụng vào
những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt động nông nghiệp, công
nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các hoạt động trên đều cần sử dụng
nước.
Nước bao phủ 71% diện tích của quả đất trong đó có 97% là nước mặn, còn lại



nước ngọt. Nước giữ cho khí hậu tương đối ổn định và pha loãng các yếu tố gây ô nhiễm
môi trường, nó còn là thành phần cấu tạo chính yếu trong cơ thể sinh vật, chiếm từ 50%trọng lượng cơ thể và
97% trọng lượng của cơ thể, chẳng hạn như ở người nước chiếm 70%
ở Sứa biển nước chiếm tới 97%. Trong 3% lượng nước ngọt có trên quả đất thì có khoảng
hơn 3/4 lượng nước mà con người không sử dụng được vì nó nằm quá sâu trong lòng đất,
bị đóng băng, ở dạng hơi trong khí quyển và ở dạng tuyết trên lục điạ... chỉ có 0, 5% nước
ngọt hiện diện trong sông, suối, ao, hồ mà con người đã và đang sử dụng. Tuy nhiên, nếu ta
trừ phần nước bị ô nhiễm ra thì chỉ có khoảng 0,003% là nước ngọt sạch mà con người có
thể sử dụng được và nếu tính ra trung bình mỗi người được cung cấp 879.000 lít nước ngọt
để sử dụng (Miller, 1988).

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
1




Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
Hình 1: Tỉ lệ giữa các loại nước trên thế giới
Theo nghiên cứu hiện nay thì nước trên hành tinh của chúng ta phát sinh từ 3
nguồn: bên trong lòng đất, từ các thiên thạch ngoài quả đất mang vào và từ tầng trên của
khí quyển; trong đó nguồn gốc từ bên trong lòng đất là chủ yếu. Nước có nguồn gốc
bên trong lòng đất được hình thành ở lớp vỏ giữa của quả đất do quá trình phân hóa các lớp
nham thạch ở nhiệt độ cao tạo ra, sau đó theo các khe nứt của lớp vỏ ngoài nước thoát dần
qua lớp vỏ ngoài thì biến thành thể hơi, bốc hơi và cuối cùng ngưng tụ lại thành thể lỏng và
rơi xuống mặt đất. Trên mặt đất, nước chảy tràn từ nơi cao đến nơi thấp và tràn ngập các
vùng trủng tạo nên các đại dương mênh mông và các sông hồ nguyên thủy.

Hình 2: Vòng tuần hoàn nước trên Trái Đất
Theo sự tính toán thì khối lượng nước ở trạng thái tự do phủ lên trên trái đất khoảng
1,4 tỉ km3 nhưng so với trử lượng nước ở lớp vỏ giữa của trái đất (khoảng 200 tỉ km3) thì
chẳng đáng kể vì nó chỉ chiếm không đến 1%. Tổng lượng nước tự nhiên trên thế giới
theo ước tính có khác nhau theo các tác giả và dao động từ 1.385.985.000 km3 (Lvovits,
Xokolov - 1974) đến 1.457.802.450 km3 (F.Sargent - 1974)
Bảng 1. Trữ lượng nước trên thế giới (theo F. Sargent, 1974)
Trữ lượng (km3)

Loại nước

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
2



Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
Biển và đại dương

1.370.322.000

Nước ngầm

60.000.000

Băng và băng hà

26.660.000

Hồ nước ngọt

125.000

Hồ nước mặn

105.000

Khí ẩm trong đất

75.000
14.000

1.2. Phân loại tài nguyên nước
1.2.1. Nước ngọt
Nước ngọt hay nước nhạt là loại nước chứa một lượng tối thiểu các muối hòa tan,
đặc biệt là clorua natri (thường có nồng độ các loại muối hay còn gọi là độ mặn trong

khoảng 0,01 - 0,5 ppt hoặc tới 1 ppt), vì thế nó được phân biệt tương đối rõ ràng với nước lợ
hay các loại nước mặn và nước muối. Tất cả các nguồn nước ngọt có xuất phát điểm là từ
các cơn mưa được tạo ra do sự ngưng tụ tới hạn của hơi nước trong không khí, rơi xuống ao,
hồ, sông của mặt đất cũng như trong các nguồn nước ngầm hoặc do sự tan chảy của băng
hay tuyết. Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy vậy mà việc cung cấp nước ngọt
và sạch trên thế giới đang từng bước giảm đi. Nhu cầu nước đã vượt cung ở một vài nơi
trên thế giới, trong khi dân số thế giới vẫn đang tiếp tục tăng làm cho nhu cầu nước càng
tăng. Sự nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ nguồn nước cho nhu cầu hệ sinh
thái chỉ mới được lên tiếng gần đây. Trong suốt thế kỷ 20, hơn một nửa các vùng đất
ngập nước trên thế giới đã bị biến mất cùng với các môi trường hỗ trợ có giá trị của
chúng. Các hệ sinh thái nước ngọt mang đậm tính đa dạng sinh học hiện đang suy giảm
nhanh hơn các hệ sinh thái biển và đất liền.
1.2.2.

Nước mặn

Nước mặn là thuật ngữ chung để chỉ nước chứa một hàm lượng đáng kể các
muối hòa tan (chủ yếu là NaCl). Hàm lượng này thông thường được biểu diễn dưới dạng
phần nghìn (ppt) hay phần triệu (ppm) hoặc phần trăm (%) hay g/l.
Các mức hàm lượng muối được USGS Hoa Kỳ sử dụng để phân loại nước mặn thành
ba thể loại. Nước hơi mặn chứa muối trong phạm vi 1.000 tới 3.000 ppm (1 tới 3 ppt).
Nước mặn vừa phải chứa khoảng 3.000 tới 10.000 ppm (3 tới 10 ppt). Nước mặn nhiều
chứa khoảng 10.000 tới 35.000 ppm (10 tới 35 ppt) muối.
Trên Trái Đất, nước biển trong các đại dương là nguồn nước mặn phổ biến nhất
và cũng là nguồn nước lớn nhất. Độ mặn trung bình của đại dương là khoảng 35.000
ppm hay 35 ppt hoặc 3,5%, tương đương với 35 g/l. Hàm lượng nước mặn tự nhiên cao
nhất có tại hồ Assal ở Djibouti với nồng độ 34,8%.
1.2.3.

Nước mặt


Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập nước. Nước
mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất đi khi chảy vào đại
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
3


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
dương, bốc hơi và thấm xuống đất. Lượng giáng thủy này được thu hồi bởi các lưu vực,
tổng lượng nước trong hệ thống này tại một thời điểm cũng tùy thuộc vào một số yếu
tố khác. Các yếu tố này như khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập nước và các hồ
chứa nhân tạo, độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước này, các đặc điểm của dòng
chảy mặt trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc độ bốc hơi địa phương. Tất cả các
yếu tố này đều ảnh hưởng đến tỷ lệ mất nước.
Sự bốc hơi nước trong đất, ao, hồ, sông, biển; sự thoát hơi nước ở thực vật và động
vật..., hơi nước vào trong không khí sau đó bị ngưng tụ lại trở về thể lỏng rơi xuống mặt đất
hình thành mưa, nước mưa chảy tràn trên mặt đất từ nơi cao đến nơi thấp tạo nên các
dòng chảy hình thành nên thác, ghềnh, suối, sông và được tích tụ lại ở những nơi thấp
trên lục địa hình thành hồ hoặc được đưa thẳng ra biển hình thành nên lớp nước trên bề
mặt của vỏ trái đất.
Trong quá trình chảy tràn, nước hòa tan các muối khoáng trong các nham thạch nơi
nó chảy qua, một số vật liệu nhẹ không hòa tan được cuốn theo dòng chảy và bồi lắng ở nơi
khác thấp hơn, sự tích tụ muối khoáng trong nước biển sau một thời gian dài của quá
trình lịch sử của quả đất dần dần làm cho nước biển càng trở nên mặn. Có hai loại nước mặt
là nước ngọt hiện diện trong sông, ao, hồ trên các lục địa và nước mặn hiện diện trong
biển, các đại dương mênh mông, trong các hồ nước mặn trên các lục địa.
1.2.4.


Nước ngầm

Nước ngầm hay còn gọi là nước dưới đất, là nước ngọt được chứa trong các lỗ rỗng
của đất hoặc đá. Nó cũng có thể là nước chứa trong các tầng ngậm nước bên dưới mực
nước ngầm. Đôi khi người ta còn phân biệt nước ngầm nông, nước ngầm sâu và nước
chôn vùi. "Nước ngầm là một dạng nước dưới đất, tích trữ trong các lớp đất đá trầm tích
bở rời như cặn, sạn, cát bột kết, trong các khe nứt, hang caxtơ dưới bề mặt trái đất, có thể
khai thác cho các hoạt động sống của con người".
Nước ngầm cũng có những đặc điểm giống như nước mặt như: nguồn vào (bổ cấp),
nguồn ra và chứa. Sự khác biệt chủ yếu với nước mặt là do tốc độ luân chuyển chậm (dòng
thấm rất chậm so với nước mặt), khả năng giữ nước ngầm nhìn chung lớn hơn nước mặt
khi so sánh về lượng nước đầu vào. Nguồn cung cấp nước cho nước ngầm là nước mặt
thấm vào tầng chứa. Các nguồn thoát tự nhiên như suối và thấm vào các đại dương.
Theo độ sâu phân bố, có thể chia nước ngầm thành nước ngầm tầng mặt và
nước ngầm tầng sâu. Ðặc điểm chung của nước ngầm là khả năng di chuyển nhanh
trong các lớp đất xốp, tạo thành dòng chảy ngầm theo địa hình. Nước ngầm tầng mặt thường
không có lớp ngăn cách với địa hình bề mặt. Do vậy, thành phần và mực nước biến đổi
nhiều, phụ thuộc vào trạng thái của nước mặt. Loại nước ngầm tầng mặt rất dễ bị ô
nhiễm. Nước ngầm tầng sâu thường nằm trong lớp đất đá xốp được ngăn cách bên trên và
phía dưới bởi các lớp không thấm nước. Theo không gian phân bố, một lớp nước ngầm
tầng sâu thường có ba vùng chức năng:


Vùng thu nhận nước.



Vùng chuyển tải nước.

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2


GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
4


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước


Vùng khai thác nước có áp.

Khoảng cách giữa vùng thu nhận và vùng khai thác nước thường khá xa, từ vài chục
đến vài trăm km. Các lỗ khoan nước ở vùng khai thác thường có áp lực. Ðây là loại nước
ngầm có chất lượng tốt và lưu lượng ổn định. Trong các khu vực phát triển đá cacbonat
thường tồn tại loại nước ngầm caxtơ di chuyển theo các khe nứt caxtơ. Trong các dải cồn cát
vùng ven biển thường có các thấu kính nước ngọt nằm trên mực nước biển.
*Có hai loại nước ngầm: nước ngầm không có áp lực và nước ngầm có áp lực.
Nước ngầm không có áp lực: là dạng nước được giữ lại trong các lớp đá ngậm nước
và lớp đá nầy nằm bên trên lớp đá không thấm như lớp diệp thạch hoặc lớp sét nén chặt.
Loại nước ngầm nầy có áp suất rất yếu, nên muốn khai thác nó phải thì phải đào giếng
xuyên qua lớp đá ngậm rồi dùng bơm hút nước lên. Nước ngầm loại nầy thường ở không sâu
dưới mặt đất,ì có nhiều trong mùa mưa và ít dần trong mùa khô.
Nước ngầm có áp lực: là dạng nước được giữ lại trong các lớp đá ngậm nước và
lớp đá nầy bị kẹp giữa hai lớp sét hoặc diệp thạch không thấm. Do bị kẹp chặt giữa hai lớp
đá không thấm nên nước có một áp lực rất lớn vì thế khi khai thác người ta dùng khoan
xuyên qua lớp đá không thấm bên trên và chạm vào lớp nước này nó sẽ tự phun lên mà
không cần phải bơm. Loại nước ngầm nầy thường ở sâu dưới mặt đất, có trử lượng lớn và
thời gian hình thành nó phải mất hàng trăm năm thậm chí hàng nghìn năm.
1.3. Vai trò của Tài nguyên nước

Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các sinh vật trên trái đất.

Nếu không có nước thì chắc chắn không có sự sống xuất hiện trên trái đất này, thiếu nước
thì cả nền văn minh hiện nay cũng không tồn tại được. Từ xưa, con người đã biết đến
vai trò quan trọng của nước; các nhà khoa học cổ đại đã coi nước là thành phần cơ bản
của vật chất và trong quá trình phát triển của xã hội loài người thì các nền văn minh lớn của
nhân loại đều xuất hiện và phát triển trên lưu vực của các con sông lớn như: nền văn minh
Lưỡng hà ở Tây Á nằm ở lưu vực hai con sông lớn là Tigre và Euphrate (thuộc Irak hiện
nay); nền văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông Nil; nền văn minh sông Hằng ở Ấn Ðộ; nền văn
minh Hoàng hà ở Trung Quốc; nền văn minh sông Hồng ở Việt Nam ...
1.3.1. Vai trò của nước đối với con người

Nước có vai trò đặc biệt quan trọng với cơ thể, con người có thể nhịn ăn được vài
ngày, nhưng không thể nhịn uống nước. Nước chiếm khoảng 70% trọng lượng cơ thể, 6575% trọng lượng cơ, 50% trọng lượng mỡ, 50% trọng lượng xương. Nước tồn tại ở hai
dạng: nước trong tế bào và nước ngoài tế bào. Nước ngoài tế bào có trong huyết tương
máu, dịch limpho, nước bọt… Huyết tương chiếm khoảng 20% lượng dịch ngoài tế bào
của cơ thể (3-4 lít). Nước là chất quan trọng để các phản ứng hóa học và sự trao đổi chất
diễn ra không ngừng trong cơ thể. Nước là một dung môi, nhờ đó tất cả các chất dinh
dưỡng được đưa vào cơ thể, sau đó được chuyển vào máu dưới dạng dung dịch nước. Một
người nặng 60 kg cần cung cấp 2-3 lít nước để đổi mới lượng nước của có thể, và duy trì
các hoạt động sống bình thường.
1.3.2. Vai trò của nước đối với sinh vật

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
5


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
Nước chứa trong cơ thể sinh vật một hàm lượng rất cao, từ 50 - 90% khối lượng cơ thể
sinh vật là nước, có trường hợp nước chiếm tỷ lệ cao hơn, tới 98% như ở một số cây mọng

nước, ở ruột khoang (ví dụ: thủy tức, sứa…).
Nước là dung môi cho các chất vô cơ, các chất hữu cơ có mang gốc phân cực (ưa nước)
như hydroxyl, amin, các boxyl… Nước là nguyên liệu cho cây trong quá trình quang hợp tạo
ra các chất hữu cơ. Nước là môi trường hoà tan chất vô cơ và phương tiện vận chuyển chất vô
cơ và hữu cơ trong cây, vận chuyển máu và các chất dinh dưỡng ở động vật.
Nước bảo đảm cho thực vật có một hình dạng và cấu trúc nhất định. Do nước
chiếm một lượng lớn trong tế bào thực vật, duy trì độ trương của tế bào cho nên làm
cho thực vật có một hình dáng nhất định. Nước nối liền cây với đất và khí quyển góp
phần tích cực trong việc bảo đảm mối liên hệ khăng khít sự thống nhất giữa cơ thể
và môi trường. Trong quá trình trao đổi giữa cây và môi trường đất có sự tham gia tích cực
của ion H+ và OH- do nước phân ly ra.
Nước tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng và điều hòa nhiệt độ cơ thể. Ngoài ra,
nước còn là môi trường sống của rất nhiều loài sinh vật.
Cuối cùng nước giữ vai trò tích cực trong việc phát tán nòi giống của các sinh vật, nước
còn là môi trường sống của nhiều loài sinh vật.
1.3.3. Vai trò của nước đối với sản xuất phục vụ cho đời sống con người

Trong nông nghiệp: tất cả các cây trồng và vật nuôi đều cần nước đề phát triển.
Từ một hạt cải bắp phát triển thành một cây rau thương phẩm cần 25 lít nước; lúa cần
4.500 lít nước để cho ra 1 kg hạt. Dân gian ta có câu: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống”, qua đó chúng ta có thể thấy được vai trò của nước trong nông nghiệp. Theo
FAO, tưới nước và phân bón là hai yếu tố quyết định hàng đầu là nhu cầu thiết yếu, đồng
thời còn có vai trò điều tiết các chế độ nhiệt, ánh sáng, chất dinh dưỡng, vi sinh vật, độ
thoáng khí trong đất, làm cho tốc độ tăng sản lượng lương thực vượt qua tốc độ tăng dân số
thế giới. Đối với Việt Nam, nước đã cùng với con người làm lên nền Văn minh lúa nước tại
châu thổ sông Hồng – các nôi Văn minh của dân tộc, của đất nước, đã làm nên các hệ sinh
thái nông nghiệp có năng xuất và tính bền vững vào loại cao nhất thế giới, đã làm nên
một nước Việt Nam có xuất khẩu gạo đứng nhất nhì thế giới hiện nay.
Trong Công nghiệp: Nước cho nhu cầu sản xuất công nghiệp rất lớn. Nước dùng để
làm nguội các động cơ, làm quay các tubin, là dung môi làm tan các hóa chất màu và các

phản ứng hóa học. Để sản xuất 1 tấn gang cần 300 tấn nước, một tấn xút cần 800 tấn nước.
Người ta ước tính rằng 15% sử dụng nước trên toàn thế giới công nghiệp như: các nhà máy
điện, sử dụng nước để làm mát hoặc như một nguồn năng lượng, quặng và nhà máy lọc dầu,
sử dụng nước trong quá trình hóa học, và các nhà máy sản xuất, sử dụng nước như một dung
môi. Mỗi ngành công nghiêp, mỗi loại hình sản xuất và mỗi công nghệ yêu cầu một lượng
nước, loại nước khác nhau. Nước góp phần làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nếu
không có nước thì chắc chắn toàn bộ các hệ thống sản xuất công nghiệp, nông nghiệp…trên
hành tinh này đều ngừng hoạt động và không tồn tại.
Từ 3.000 năm trước công nguyên, người Ai Cập đã biết dùng hệ thống tưới
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
6


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
nước để trồng trọt và ngày nay con người đã khám phá thêm nhiều khả năng của nước đảm
bảo cho sự phát triển của xã hội trong tương lai: nước là nguồn cung cấp thực phẩm và
nguyên liệu công nghiệp dồi dào, nước rất quan trọng trong nông nghiệp, công nghiệp,
trong sinh hoạt, thể thao, giải trí và cho rất nhiều hoạt động khác của con người. Ngoài ra
nước còn được coi là một khoáng sản đặc biệt vì nó tàng trữ một nguồn năng lượng
lớn và lại hòa tan nhiều vật chất có thể khai thác phục vụ cho nhu cầu nhiều mặt của con
người.
1.4. Chức năng tài nguyên nước

Chức năng tài nguyên nước là cung cấp các dịch vụ, sản phẩm, hàng hóa và mang lại
lợi ích cho xã hội, cộng đồng và môi trường. Có thể tạm thời phân chia chức năng nguồn
nước thành các nhóm:
- Chức năng cung cấp nước: Cung cấp nước cho tưới, sinh hoạt, nuôi trồng, thủy sản,
phát điện, công nghiệp.

- Chức năng điều hòa: Điều tiết một phần dòng chảy, tiêu thoát nước, tiêu thoát lũ,
tiếp nhận nước thải.
- Chức năng văn hóa – xã hội: Giải trí, du lịch, tạo môi trường cảnh quan, tinh thần và
quân sự.
- Chức năng hỗ trợ sinh thái: Cung cấp nguồn dinh dưỡng, phù sa, phục hồi sinh thái,
cung cấp nơi cư trú và sinh sản cho các loài thủy sinh.

Chương 2.
GIỚI THIỆU VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. Tài nguyên nước mặt
2.1.1. Tài nguyên nước mưa
Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm của nước ta, mưa là hình thức nước rơi duy nhất.
Do đó số lượng và tính chất của nước mưa cùng sự bốc hơi từ lưu vực đã quyết định tiềm
năng của dòng chảy sông ngòi. Mưa và bốc hơi là các yếu tố khí hậu tham gia trực tiếp vào
cán cân nước của mỗi lưu vực sông cụ thể.
Với vị trí tự nhiên nằm trên bán đảo Đông Dương, tiệm cận với hai đại dương lớn là
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương và điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa của nước ta
thể hiện rất rõ rệt lượng mưa trung bình trong nhiều năm và tương quan giữa lượng mưa và
lượng bốc hơi năm. Thật vậy, xét trên toàn lãnh thổ nước ta, thì lượng mưa trung bình nhiều
năm khoảng 1960mm. So với lượng mưa trung bình cùng vĩ độ (100-200 0Bắc) thì ở nước ta
có lượng mưa khá dồi dào, gấp 2,4 lần. Chỉ ở những nơi khuất gió ẩm thì lượng mưa trung
bình năm mới giảm xuống dưới 1000mm.
Quy luật phân bố của lượng mưa trung bình nhiều năm không đều trong không gian,
phụ thuộc vào độ cao địa hình và hướng của sườn đón gió ẩm. Các trung tâm mưa lớn được
hình thành trên lãnh thổ như: Móng Cái 2800mm - 3000mm, Bắc Quang 4765mm, Hoàng
Liên Sơn 2600mm - 3000mm, Mường Tè 2600mm - 2800mm, Hoành Sơn 3500mm Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
7



Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
4000mm, Thừa Lưu 2600 - 3662 mm, Trà Mi – Ba Tơ 2600mm - 3400mm, Sông Hinh
2500mm, Bảo Lộc 2876mm, Hai trung tâm mưa lớn nhất nước ta là Bắc Quang và Ba Na đạt
5013mm. Vùng có lượng mưa lớn kéo dài từ vĩ tuyến 15 0B đến 160B, thường gọi là vĩ tuyến
nước. Ngược lại, những trung tâm mưa nhỏ được hình thành ở những vùng thấp, khuất, hoặc
nằm song song với hướng gió ẩm, đo là các vùng: An Châu 1000mm - 1200mm, Sơn La
1000mm - 1300mm, Mường Xén 800mm - 1000mm, đặc biệt ở Phan Rang, Phan Rí chỉ đạt
650 mm. Vùng có lượng mưa nhỏ kéo dài ở Duyên Hải cực nam Trung Bộ từ vĩ tuyến 100B
đến vĩ tuyến 120B là vùng ít mưa khá điển hình ở nước ta. Vùng ven biển Ninh Thuận, Bình
Thuận có lượng mưa năm nhỏ nhất cả nước (500mm - 600mm).
Sự phân bố mưa trong năm rất không đều và chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và
mùa khô. Do chịu nhiều ảnh hưởng của các khối không khí tương phản nhau giữa Bắc và
Nam nên thời điểm bắt đầu và kết thúc mùa mưa cũng chênh lệch nhau giữa nơi sớm nhất và
muộn nhất đến 4 tháng. Bắc Bộ, có mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, tháng 11. Trung Bộ,
Tây Nguyên và Nam Bộ có mùa mưa muộn hơn từ tháng 8, 9 đến tháng 11, 12. Khu vực khu
IV cũ còn có mưa tiểu mãn. Trong mùa mưa lượng mưa chiếm khoảng 70 - 90% tổng lượng
mưa năm.
Mạng lưới trạm đo mưa ở nước ta được hình thành từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20,
sớm nhất là trạm Láng, hoạt động từ năm 1890. Trong thời gian chiến tranh nhiều trạm phải
ngừng hoạt động. Tính đến năm 1980 có khoảng 1190 điểm quan trắc mưa. Từ 1991, Tổng
cục Khí tượng Thuỷ văn đã quy hoạch lại mạng lưới trạm đo mưa theo đúng tiêu chuẩn. Theo
quy hoạch này cả nước có 765 điểm đo mưa.
Theo kết quả công bố của do Tổng cục Khí tượng thủy văn chủ trì, lượng mưa một
ngày lớn nhất trung bình nhiều năm đạt 150 - 200 mm, ứng với tần suất 1% đạt 300 - 350mm.
Lượng mưa 3 ngày lớn nhất trung bình đạt 200 - 250mm, tương ứng với tần suất 1% là 500 600 mm. Lượng mưa 5 ngày lớn nhất trung bình nhiều năm đạt 250 - 300 mm, ứng với tần
suất 1% là 620 -650mm. Do địa hình đa dạng, cấu trúc sơn văn nên sự phân dị khí hậu và
kèm theo nó là lượng mưa bị phân hoá rõ rệt theo lãnh thổ và chi phối mạnh mẽ đến sự hình
thành dòng chảy mặt, đặc biệt là dòng chảy sông ngòi.
Những vùng mưa lớn như ở vùng Vài Lài thuộc tâm mưa lớn Móng Cái, lượng mưa

trung bình đạt tới 2334mm; vùng Hoàng Liên Sơn, đạt tới 2180mm tại Tà Thàng, vùng Bắc
Quang trên 3000mm, Mường Tè trên 2000 mm, vùng Hoành Sơn tại sông Rào Cái, Rào Tro,
tới 1800mm - 2400mm. Vùng mưa lớn Bắc đèo Hải Vân, xấp xỉ 2000mm, tại sông Hữu
Trạch là 1973mm; vùng mưa lớn Trà Mi – Ba Tơ, Ba Na, vượt trên 2000mm; sông Bùng
2070mm, sông Tranh 2303mm và sông Vệ 2372mm. Quá vào phía nam có sông Hinh cũng
đạt trên 1500mm. Ở trung tâm mưa của sông Đồng Nai đạt tới 1100mm - 1428mm. Sự lặp lại
phân bố của mưa cũng được thể hiện khá rõ đối với các trung tâm mưa nhỏ như tại Chi Lăng
470mm, Thác Vai 391mm, Cửa Rào 583mm, sông Luỹ 316mm.
Yếu tố mưa không những ảnh hưởng đến dòng chảy mặt phân bố trong không gian như
đã đề cập trên đây, mà còn ảnh hưởng đến tính biến động của dòng chảy theo thời gian. Chế
độ mưa ảnh hưởng lớn đến chế độ dòng chảy sông ngòi ở nước ta. Khí hậu nước ta có sự
phân hoá theo mùa rõ rệt, trên toàn lãnh thổ, ở đâu cũng có một mùa khô với lượng mưa thấp

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
8


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
hơn lượng bốc hơi và một mùa mưa. Do đó dòng chảy sông ngòi cũng tăng lên theo mùa,
mùa lũ ứng với mùa mưa và mừa cạn ứng với mùa khô.
2.1.2. Tài nguyên sông ngòi
Sông ngòi Việt Nam được nuôi dưỡng bởi một nguồn nước mưa dồi dào, là hệ quả hoạt
động của các khối khí và hoàn lưu gió mùa. Mùa lũ là mùa nước sông dâng cao ứng với mùa
mưa, và tương ứng mùa cạn - mùa nước trong sông tương đối ổn định ứng với mùa khô. Mùa
lũ kéo dài từ 4 - 5 tháng. Vùng Bắc Bộ, mùa lũ kéo dài từ tháng 6,7 đến tháng 9, 10; sườn
đông dãy Trường Sơn từ tháng 8 đến tháng 11, 12. Mùa cạn kéo dài từ 7 - 8 tháng, có nơi tới
9 tháng. Tuy thời gian mùa lũ ngắn nhưng lượng dòng chảy chiếm từ 65 - 90% tổng lượng
dòng chảy năm. Một số lưu vực sông ngòi Miền Trung còn quan sát thấy lũ tiểu mãn. Thời

điểm mùa lũ bắt đầu và kết thúc ở vùng này cũng biến động mạnh do ảnh hưởng của vùng
khí hậu chuyển tiếp từ Bắc vào Nam.
Vào đầu mùa lũ, do các trận mưa chưa lớn lại chịu tổn thất làm ẩm các lưu vực nên quy
mô các trận lũ nhỏ. Những trận lũ lớn thường đi kèm với các hình thế thời tiết như bão, hội tụ
nhiệt đới, áp thấp ... Tuỳ theo khu vực tâm mưa được hình thành tạo nên các nét đặc thù lũ
trên các sông riêng biệt.Dao động nhiều năm của dòng chảy sông ngòi Việt Nam đặc trưng
bởi các chu kỳ nhiều năm nước lớn và nước nhỏ không giống nhau trên các hệ thống sông.
Sông Việt Nam nhận một lượng nước lớn xâm nhập từ ngoài lãnh thổ quốc gia. Gần 2/3
lượng nước sông là lượng nước ngoại lai, đặc điểm này cần được chú ý khi nghiên cứu tài
nguyên nước vì khi các nước láng giềng dùng nhiều nước thì lượng nước đổ vào nước ta sẽ
giảm, ngoài ra còn kéo theo sự nhiễm bẩn nguồn nước dẫn đến suy giảm chất lượng nước.
Việc thể hiện phức tạp trong sự phân hoá theo không gian và biến động theo thời gian là
những đặc điểm chính của nguồn tài nguyên nước mặt. Tính chất này buộc khi khai thác tài
nguyên nước cần phải chú ý để đảm bảo sự phát triển bền vững tránh làm cho nó bị suy thoái
và cạn kiệt.
Mùa lũ trên các sông xuất hiện chậm dần từ Bắc vào Nam, muộn nhất ở các vùng ven
biển Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Hiểm hoạ lũ lụt đe doạ cuộc sống của dân cư trên tất
cả các triền sông. Các hiện tượng thời tiết thời gian gần đây trong quy mô biến đổi khí hậu
toàn cầu lại làm phức tạp hóa bức tranh về lũ lụt và các hiểm hoạ này. Xét trên toàn lãnh thổ,
sự chi phối của chế độ mưa đối với chế độ dòng chảy là rõ rằng, những dòng chảy sông ngòi
còn chịu ảnh hưởng của cấu trúc mặt đệm lưu vực. Tuỳ thuộc vào khả năng điều tiết của lưu
vực nhiều hay ít mà chế độ dòng chảy sông ngòi phụ thuộc vào chế độ mưa với nhiều chế độ
khác nhau.
Nhìn chung, mùa lũ thường ngắn hơn mùa mưa 1 - 2 tháng và xuất hiện chậm hơn mùa
mưa khoảng 1 tháng. Nhưng, trong nhiều trường hợp các nhân tố của mặt đệm đã đóng vai
trò của nhân tố ảnh hưởng trội đối với chế độ dòng chảy.Đó là trường hợp các lưu vực sông
vừa và nhỏ, lòng sông không thu nhận được toàn bộ nước ngầm. Ở những vùng đá vôi nhiều
hoặc đất bazan có tầng phong hoá sâu, khả năng thấm lớn thì chế độ dòng chảy thể hiện sự
ảnh hưởng của mặt đệm rất rõ rệt. Như ở Tây Nguyên, do khả năng thấm của đất và cuối mùa
khô rất lớn trong khi đó mưa đầu mùa lại lại cách đoạn, cường độ nhỏ, đã tạo ra một mùa lũ

chậm hơn mùa mưa tới 1,5-2 tháng. Ảnh hưởng của nhân tố khí hậu giảm nhưng ảnh hưởng
của mặt đệm tăng lên, trở thành nhân tố trội trong sự hình thành chế độ sông ngòi.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
9


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
Ngoài yếu tố mưa, yếu tố bốc hơi từ bề mặt lưu vực cũng tham gia trực tiếp vào cán cân
nước của sông ngòi, ảnh hưởng rõ rệt đến sự hình thành của dòng chảy. Ở nước ta có nền
nhiệt độ cao, trên toàn lãnh thổ nhiệt độ trung bình năm đều vượt quá 21 0C ở miền Bắc và
25oC ở miền Nam. Nhiệt độ cao đã làm cho quá trình bốc hơi trên lưu vực sông từ Bắc vào
Nam đều khá lớn. Lượng bốc hơi trung bình năm toàn lãnh thổ là 953mm, so với lượng mưa
trung bình năm thì hệ số bốc hơi là 0,48, nhỏ hơn khoảng 35% so với cùng vĩ độ.
Mùa cạn kéo dài 6 - 9 tháng, lượng nước chiếm 20 - 30% tổng lượng dòng chảy năm và
biến đổi mạnh giữa các năm. Giai đoạn đầu mùa cạn, là giai đoạn chuỷen tiếp, nước trong
sông còn lớn, đôi khi còn có lũ cuối mùa. Giai đoạn kiệt nhất khi nguồn nuôi dưỡng sông chủ
yếu do nước ngầm, kéo dài trong vài tháng, chiếm 1 - 2% tổng lượng dòng chảy năm. Giai
đoạn cuối mùa cạn thường có lũ sớm xuất hiện. Riêng các sông ngòi Trung Bộ giữa mùa cạn
có khi xuất hiện lũ vào tiết tiểu mãn. Tóm lại mưa và bốc hơi là hai yếu tố quan trọng nhất
của khí hậu ảnh hưởng đến dòng chảy, nó quyết định tiềm năng dòng chảy sông ngòi ở nước
ta.
2.2. Tài nguyên nước ở các lưu vực sông lớn

2.2.1. Lưu vực sông Hồng
Sông Hồng dài 1126 km, bắt nguồn từ núi Ngụy Sơn, Vân Nam Trung Quốc,
vào Việt Nam tại Hà Khẩu, chảy theo hướng chính Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển
qua cửa chính Ba Lạt (dài 556 km). Mật độ lưới sông 1 km/km 2, hệ số uốn khúc 1,5.
Lưu vực có độ cao bình quân 647m, độ dốc 29,9%, diện tích 143700 km 2, phần thuộc

Việt Nam là 61400 km2. Tổng phụ lưu từ cấp 1 -6 là 614. Phân lưu hữu ngạn có: sông
Đáy tách ra ở Hát Môn, sông Phủ Lý tách ra ở Hưng Yên, sông Nam Định, sông Ninh
Cơ tách ra từ Xuân Trường. Phân lưu tả ngạn có: sông Trà Lý tách ra từ Thương Hộ,
sông Đuống và sông Luộc chia nước sang hệ thống sông Thái Bình.
Dòng chảy sông Hồng rất dồi dào nhưng phân bố không đều. Tổng lượng
126,8km3/năm, trong đó riêng sông Đà đóng góp 57%. Mô đun dòng chảy 25,7
l/s.km2. Phần lưu vực thuộc Trung Quốc chỉ tạo ra 40% lượng dòng chảy toàn hệ
thống. Các tâm dòng chảy lớn đều ở Việt Nam và trùng với tâm mưa lớn là Bắc
Quang, Hoàng Liên Sơn, Mường Tè, mô đun dòng chảy 70 - 100 l/s.km 2. Tâm dòng
chảy nhỏ nhất ở Đồng Văn, Sơn La, Mộc Châu, mô đun dòng chảy 15 - 20 l/s.km 2.
Tại Sơn Tây lưu lượng trung bình là 3600 m 3/s, lớn nhất 37800 m3/s (tháng 7/1991),
nhỏ nhất 840 m3/s, chênh nhau 45 lần.
Biến đổi lượng nước năm không nhiều, chênh lệch giữa năm nhiều nước và năm
ít nước khoảng 2 - 3 lần. Phân phối dòng chảy theo mùa cực đoan. Mùa lũ, từ tháng 6
- 10, cung cấp 70 - 78% tổng lượng dòng chảy năm, tháng 8 thường có lượng dòng
chảy lớn nhất, 19 - 23%. Kiệt nhất thường gặp vào tháng 3, dòng chảy chỉ đạt 1,7 2,5%. Lũ sông Hồng phức tạp và ác liệt, đặc biệt là ở hạ lưu, do ba sông nhánh hợp
lưu cùng một chỗ, bờ sông bị hệ thống đê khống chế, thềm bãi sông bị ngăn chặn.

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
10


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

Đường quá trình dòng chảy có dạng răng cưa, lên xuống hàng chục lần trong mùa lũ,
biên độ lũ lớn, cường suất lũ lên lớn, 3 - 7 m/ngày, tốc độ dòng chảy lũ lớn, 3 - 5 m/s.
Phù sa sông Hồng vào loại lớn, tại Sơn Tây độ đục là 1.310 g/m 3, tổng lượng
phù sa 120 triệu tấn/năm, trong đó sông Đà cung cấp 53%, sông Thao 35%. Phù sa

mùa lũ lớn gấp 5 - 7 lần mùa kiệt, tại Sơn Tây mùa lũ 3500g/m3, mùa kiệt - 500 g/m3.
Sông Thái Bình bắt nguồn từ núi Va Ôn 1.060m, đổ ra biển qua cửa Thái Bình,
Văn Úc, Cấm. Thái Bình do ba phụ lưu lớn là sông Cầu (từ Tam Đảo), sông Thương
(từ Lạng Sơn) và sông Lục Nam (từ Đình Lập, là phụ lưu của sông Thương) hợp
thành, dài 385km, diện tích lưu vực 12680 km 2, độ cao trung bình 190m, độ dốc
16,1%.. Mạng lưới sông xếp theo hình nan quạt, xoè rộng ở Đông Bắc và quy tụ tại
Phả Lại, mật độ 2,1 km/km2, hệ số uốn khúc 2,02; Tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 143.
Lượng nước sông Thái Bình tại Phả Lại 9,19 km 3/năm, trong đó dòng chảy ngầm
chiếm 20%. Hàng năm, sông Thái Bình nhận được từ sông Hồng gần 33 tỷ m 3 nước
và 17 triệu tấn phù sa. Mùa lũ từ tháng 6 – tháng 9,10 với dòng chảy chiếm 75% tổng
lượng năm. Lưu vực sông Cầu khá ẩm ướt, mật độ sông suối phát triển 0,95 - 1,2
km/km2, lũ ác liệt, cường suất lũ 1 - 2,5 m/giờ, biên độ mực nước 4 - 10m. Mạng lưới
sông Thương kém phát triển, nhất là vùng đá vôi bờ phải thượng và trung du, mật độ
0,5 - 0,7 km/km2. Vùng thượng lưu từ Chi Lăng lên thuộc loại ít nước nhất miền Bắc,
13,3 l/s.km2. Chế độ nước sông Lục Nam cực đoan nhất miền Bắc và dòng chảy ngầm
bé nhất miền Bắc (17 - 20% tổng lượng dòng chảy năm).
Lưu vực sông Hồng - Thái Bình là nơi sinh sống của 1/3 dân số và sản xuất
khoảng 1/5 lượng gạo cả nước. Riêng đồng bằng, diện tích 17000 km 2, là nơi cư trú
của 17 triệu dân, tạo ra trên 4/5 thu nhập toàn lưu vực và 1/5 GDP. Cơ cấu kinh tế
đồng bằng là nông nghiệp 35%, công nghiệp 24% và các dịch vụ 41%.
Hiện tại nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp là lớn nhất, chiếm khoảng 90%
tổng lượng tiêu thụ. Gần như toàn bộ diện tích trồng lúa trong châu thổ này đều cần
các biện pháp thuỷ lợi. Tưới bơm cấp nước cho khoảng 500000 ha, tiêu bằng bơm
phục vụ 450000 ha, phần còn lại được tưới tiêu tự chảy. Hệ thống thuỷ lợi thiếu đồng
bộ và kém hiệu quả đang gây tổn thất tài nguyên nước và thiếu nước cho sản xuất
nông nghiệp.
Tài nguyên nước lưu vực phong phú, thuận lợi cho khai thác, đáp ứng đủ nhu
cầu cấp nước trong tất cả các mùa cho trước mắt và trong tương lai gần. Nước tiêu thụ
hiện chiếm 1/4 - 1/2 lượng nước trong sông, tháng 1 cần dưới 700 m 3/s trong khi lưu
lượng tại Sơn Tây là 1367 m 3/s, tháng 3 cần khoảng 300 m3/s, trong khi lưu lượng tại

Sơn Tây là 1270 m3/s. Một số nơi ở Thái Bình đã xảy ra thiếu nước vào những năm
hạn lớn.
Chất lượng nước mặt nhìn chung tốt, đáp ứng các nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên
vẫn còn tồn tại ba vấn đề đáng lưu ý: Phù sa lớn không thuận lợi cho phục vụ sinh
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
11


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

hoạt và sản xuất công nghiệp, nhiễm mặn vùng cửa sông ven biển làm giảm khả năng
cấp nước và ảnh hưởng tới sản xuất, ô nhiễm nghiêm trọng tại những vùng trực tiếp
nhận nước thải của các đô thị và trung tâm công nghiệp.
Trữ lượng các tầng chứa nước đồng bằng khoảng trên 1 tỷ m 3/năm. Khai thác
nước ngầm chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt và một phần rất nhỏ để tưới. Các vấn đề về
nước ngầm hiện nay liên quan chủ yếu tới chất lượng. Khoảng 50% số giếng trong lưu
vực không đạt ít nhất một tiêu chuẩn cho phép nào đó, trong đó 19% bị nhiễm mặn
bởi nước biển, 3% có hàm lượng nitơrat vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Thiên tai rủi ro lớn nhất liên quan tới nước trên lưu vực là lũ lụt. Trung bình cứ
10 năm thì có khoảng 15 trận bão đổ bộ vào bờ biển lưu vực gây gió to, mưa bão lớn
trên diện rộng và sóng cao. Tại hạ lưu sông Hồng vấn đề xói lở bờ sông cục bộ vẫn
xảy ra liên tục và có xu thế ngày càng tăng.
Điều kiện khí hậu và nhu cầu lương thực khiến hình thành trên đồng bằng châu
thổ sông Hồng - Thái Bình truyền thống canh tác lúa nước hai ba vụ với yêu cầu chặt
chẽ về thời vụ. Do các vụ đều có nguy cơ chịu rủi ro do lũ lụt, xâm nhập mặn, một tập
quán lâu đời chung sống với lũ lụt đã khởi sinh từ đầu Công nguyên và đứng vững tại
đây. Hiện lưu vực có khoảng 3000 km đê sông và 1500 km đê biển. Trong 80 năm
thực dân Pháp đô hộ nước ta đã thống kê được 34 năm có vỡ đê sông Hồng và 18 năm

vỡ đê Văn Giang. Mỗi lần vỡ đê là một thảm hoạ, ngoài tổn thất người và của do bị lũ
cuốn trực tiếp thì tổn thất sau lũ do nạn đói và dịch bệnh hoành hành cũng rất nghiêm
trọng.
Điều tiết dòng chảy bằng hồ chứa đa mục đích đang được áp dụng đạt kết quả tại
lưu vực sông Hồng, với hai hồ chứa lớn và rất nhiều hồ chứa nhỏ. Dung tích chứa
nước thường xuyên của hồ Hoà Bình là 5,6 tỷ m 3, của hồ Thác Bà là 1,2 tỷ m 3, tuy
nhiên chúng chỉ có khả năng cắt lũ cho Hà Nội ở mức hạn chế. Ngoài nhiệm vụ phòng
lũ, các hồ chứa lớn còn có phục vụ phát điện, giao thông, cấp nước, nuôi trồng thuỷ
sản, du lịch. Bất lợi của việc điều tiết dòng chảy bằng kho nước trên lưu vực sông
Hồng là kéo dài thời gian lũ, tăng nguy cơ đe doạ các đoạn đê xung yếu. Việc xả nước
trong mùa kiệt theo kế hoạch phát điện (xả không đều đặn) có thể làm tăng nguy cơ
mặn xâm nhập sâu khi mực nước trong sông hạ thấp. Rủi ro vỡ đập có xác suất rất
nhỏ nhưng lại có nguy cơ gây tổn thất rất cao.
Tương lai, lưu vực sông Hồng - Thái Bình được qui hoạch phát triển mạnh, cư
dân đô thị sẽ tăng đến 80% và sản lượng công nghiệp chiếm khoảng 1/2 tổng sản
phẩm lưu vực. Điều này đồng nghĩa với sự tăng mạnh nhu cầu nước dùng chất lượng
cao và tăng nguy cơ gây ô nhiễm các nguồn nước do nước thải. Mặt khác nhu cầu
nước cho nông nghiệp có khả năng giảm do giảm diện tích đất nông nghiệp và chuyển
đổi cơ cấu cây trồng. Hiệu suất sử dụng nước chắc chắn sẽ được nâng cao nhờ hoàn
thiện các hệ thống thuỷ nông và quản lý tốt tài nguyên.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
12


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

2.2.2. Lưu vực sông Kỳ Cùng
Kỳ Cùng - Bằng Giang là hệ thống sông gồm hai nhánh lớn là Kỳ Cùng, Bằng

Giang, chảy trong lòng máng Cao Lạng và gặp nhau ở Trung Quốc. Lưu vực có lượng
mưa 1422 mm/năm, tập trung chủ yếu (85%) vào mùa mưa, từ tháng 4 - 10; Lượng
bốc hơi 762 mm/năm. Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ đèo Xeo Bo cao 625m, dài 243
km, chảy theo hướng gần Đông Bắc - Tây Nam, lòng sông uốn khúc mạnh, mật độ
sông suối 0,88 km/km2, tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 80, độ cao bình quân lưu vực
386m, độ dốc 18,8%, diện tích lưu vực thuộc Việt Nam 6532 km 2. Mô đun dòng chảy
17 l/s.km2, nhỏ so với các vùng Bắc Bộ. Tổng lượng dòng chảy 3,6 km 3/năm, trong đó
70 - 75% là dòng chảy mùa lũ (tháng 6 - tháng 10). Dòng chảy nhỏ nhất thuộc loại bé
nhất vùng Đông Bắc, mô đun dòng chảy 30 ngày nhỏ nhất liên tục dưới 3 l/s.km 2.
Sông Bằng Giang dài 108 km, bắt nguồn từ Na Lượng Nưa cao 600m, chảy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam. Diện tích lưu vực thuộc Việt Nam 4000 km 2, 40% là núi
đá vôi, độ cao bình quân 482m, độ dốc 20,1%. Hệ số uốn khúc lòng sông 1,29; Mật
độ lưới sông 0,91 km/km2, tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 26. Cao nguyên Pắc-pó và
Bình Lạng có mật độ sông suối rất thấp 0,5 - 0,7 km/km 2, vùng núi đất diệp thạch, sa
thạch mật độ sông suối lớn hơn 0,9 - 1,24 km/km 2. Tổng lượng dòng chảy năm 3,73
km3, trong đó 76% là dòng chảy mùa lũ (tháng 6 - tháng 9).
Nhìn chung lượng nước hiện có trong sông ngòi lớn hơn nhu cầu dùng nước
thường xuyên, nhưng vẫn tồn tại vấn đề thiếu nước địa phương do địa hình núi cao và
dòng chảy phân phối cực đoan. Đặc biệt nghiêm trọng là thiếu nước sản xuất ở lưu
vực sông Kỳ Cùng vào mùa khô, khi tổng dòng chảy ba tháng kiệt nhất chỉ bằng 3%
dòng chảy năm, trong khi đó các thoả thuận với Trung Quốc đòi hỏi phải duy trì một
lượng nước cần thiết trong sông ở biên giới. Trong các vùng núi đá vôi xa xôi, vào
thời kỳ mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, ngay nguồn nước cung cấp cho dân cư sinh
hoạt cũng rất khan hiếm. Lũ mang tính chất núi rõ nét. Dòng chảy mùa lũ cao gấp 10 15 lần mùa kiệt. Tại lưu vực Kỳ Cùng mưa lũ tháng 7 có thể làm ngập tới 10000 ha
đất nông nghiệp.
Cư dân lưu vực chỉ có 1,02 triệu người, đa phần là dân tộc thiểu số, mật độ dân
thấp, 91 người/km2, sống rải rác trong các vùng núi, với 86% dân số nông thôn. Nông
nghiệp hiện cung cấp 42% tổng sản phẩm khu vực, trong đó 40% là từ chăn nuôi. Chỉ
có 10% diện tích lưu vực (tức 135000 ha) được sử dụng để trồng trọt, trong đó có
28000 ha được tưới bằng các công trình thuỷ lợi nhỏ bơm và tự chảy. Diện tích lúa

trong khu vực liên tục giảm và được thay thế bằng các loại cây trồng trên đất khô như
ngô, khoai tây, khoai lang và sắn. Đây là một xu thế chuyển đổi đúng đắn, phù hợp
với điều kiện tự nhiên khu vực. Rừng trước đây chiếm 90% diện tích lưu vực, hiện đã
bị chặt phá nhiều, nhưng những diện tích này vẫn là đất tiềm năng thích hợp nhất cho
trồng lại rừng và cây công nghiệp. Sử dụng đất theo hướng này cũng là một giải pháp
tốt cho phát triển kinh tế trong điều kiện tài nguyên nước hạn chế.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
13


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

2.2.3. Lưu vực sông Mã
Dòng chính sông Mã bắt nguồn từ vùng núi PhoueiLong - Lai Châu, chảy theo
hướng tây bắc - đông nam, qua Lào một đoạn, đổ ra biển Đông qua ba cửa Sung, Lạch
Trường, Đồng Hới. Diện tích lưu vực 28400 km 2, dài 512 km, trong đó phần ở Việt
Nam có diện tích 17600 km 2 (63%), dài 410 km. Độ cao bình quân lưu vực 762m, độ
dốc 17,6%. Mật độ lưới sông 0,66km/km 2, hệ số uốn khúc 1,79, tổng phụ lưu từ cấp 1
- 6 là 91. Hai phụ lưu lớn là sông Chu và sông Bưởi đều nhập vào sông Mã tại hạ lưu,
cách cửa sông 25 - 48 km, tạo mạng lưới sông hình nan quạt rất nguy hiểm do tăng
cường mức ác liệt của lũ. Tổng lượng dòng chảy năm 10,8 km 3, dòng chảy phù sa
2,86 triệu tấn/năm. Dòng chảy phân bố không đều. Thượng và trung lưu mưa ít, gió
tây khô nóng nên dòng chảy chỉ khoảng 10 - 20 l/s.km 2, hạ lưu 25 l/s.km2. Nhiều nước
nhất là vùng thượng nguồn các sông Luồng, Lò, Bưởi (25 - 35 l/s.km 2). Mùa mưa và
mùa lũ ở thượng nguồn bắt đầu sớm hơn hạ nguồn một tháng, khiến mùa lũ hạ nguồn
kéo dài 5 tháng, từ tháng 6 - 10, dòng chảy mùa lũ chiếm 70 - 75% tổng lượng năm.
Tại Hồi Xuân cường suất lũ lên trên 50 cm/giờ, biên độ mực nước trên 11m. Thời
gian lũ lên tương đối ngắn, 2 - 3 ngày. Hạ lưu thường bị ngập úng trong mùa lũ do độ

dốc đáy sông nhỏ và ảnh hưởng của triều. Nhật triều không đều, biên độ trung bình
1,3m, lớn nhất 2,5m gây ảnh hưởng vào sâu tới 35-40 km. Sông bị đê khống chế từ
Cẩm Thuỷ.
Sông Chu, phụ lưu lớn nhất, bắt nguồn từ Lào, diện tích 7550 km 2, dài 325 km.
Phần thuộc Việt Nam có diện tích 2050 km2, dài 160km, mạng lưới sông suối phát
triển, 0,98 km/km2. Dòng chảy hạ lưu bị điều tiết từ đập Bái Thượng. Tổng lượng
dòng chảy năm 4,6 km3. Chế độ lũ hai mùa: lũ tiểu mãn đầu hè và lũ chính từ tháng 7
- 11. Lũ ác liệt, cường suất lũ lên 40 - 60 cm/giờ trên sông chính và trên 100 cm/giờ
trên sông nhánh. Biên độ lũ xấp xỉ 10m. Kiệt nhất vào tháng 3, dòng chảy chỉ đạt 1 3% tổng lượng năm. Mặn vào sâu 12 km trên sông Lèn.
Dân số lưu vực 3 triệu người, 93% sống ở nông thôn, mức sống thấp. Kinh tế
lưu vực chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất lúa gạo chiếm 90%. Công nghiệp tập trung
vào chế biến nông sản, sản xuất xi măng và phân bón. Kinh tế và tăng trưởng trong
lưu vực bị hạn chế bởi nguồn nước, đất đai kém màu mỡ và điều kiện khí hậu khắc
nghiệt. Diện tích đất nông nghiệp 240000 ha (75% tổng tiềm năng), trong đó 136000
ha được tưới và 27000 ha được tiêu bằng các công trình tự chảy hoặc bơm. Mỗi năm
lưu vực chịu tác động của ít nhất một trận bão, kèm theo mưa lớn và lũ lụt. Diện tích
bị ngập úng thường xuyên khoảng 44000ha. Đê biển không đủ cao và vững chắc nên
vẫn bị nước mặn tràn, vỡ đê, nhất là khi có bão, sóng lớn. Nguồn nước hiện có trong
tháng 3, tháng 4 không đủ đáp ứng cho nhu cầu canh tác vụ xuân ở các vùng sông
Chu, Lèn, gây thiếu nước trên 27000 ha. Ngập úng và hạn hán là những thiên tai gây
tổn thất nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp. Mùa kiệt thiếu nước tưới và xâm

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
14


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước


nhập mặn sâu gây thiệt hại cho nông nghiệp khoảng 17 triệu đô la/năm, bão và ngập
úng mùa mưa gây thiệt hại vài chục tỷ/năm.
Khả năng tăng nhu cầu nước nông nghiệp trong tương lai có thể xảy ra do tăng
vụ và tăng diện tích đất nông nghiệp, cũng như đất nông nghiệp được tưới. Nước dùng
cho nông nghiệp và sinh hoạt sẽ tăng. Việc cấp nước đô thị, vùng đông dân và vùng
cao sẽ có thể trở thành vấn đề nghiêm trọng trong tương lai. Chiến lược điều tiết dòng
chảy hợp lý cho lưu vực là tăng cường xây dựng các hồ chứa đa năng, phục vụ phát
điện và tưới.
2.2.4. Lưu vực sông Cả
Sông Cả dài 531 km, bắt nguồn từ bản Khom Han, Lào trên độ cao 1100m, chảy
theo hướng chính là Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển Đông qua ba cửa Hội, Sát và
Lò. Diện tích lưu vực 27000 km2, phần thuộc Việt Nam 17730 km 2 (66%) và sông dài
360km. Độ cao bình quân lưu vực 294m, độ dốc 18,3%. Tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là
151, hệ số uốn khúc 1,74. Dòng chảy không lớn, 21 km 3/năm (ở Lào 4,9 km3/năm).
Dòng chảy phù sa 4,4 triệu tấn/năm. Mô đun dòng chảy ở thượng lưu 20 l/s.km2 và ở
hạ lưu 30 l/s.km2. Lũ tiểu mãn tháng 5, 7. Mùa lũ chính từ tháng 7, 8 – tháng 11, dòng
chảy chiếm 65 - 75% tổng lượng năm. Biên độ mực nước 10 - 15m. Kiệt nhất là tháng
3 hoặc tháng 4, mô đun 30 ngày liên tục nhỏ nhất là 4,8 - 5,5 l/s.km2.
Phụ lưu lớn nhất là sông Hiếu (sông Con), diện tích lưu vực 5340 km 2, dài 228
km. Thượng lưu mưa nhiều, mật độ sông suối rất phát triển, 1 -1,28 km/km 2, tổng
lượng dòng chảy năm 5 km 3. Mô đun dòng chảy trung bình 20 - 30 l/s.km2, mô đun
dòng chảy nhỏ nhất 30 ngày liên tục chỉ có 2 - 3 l/s.km2.
Phụ lưu lớn thứ hai là sông Ngàn Sâu, diện tích lưu vực 3210 km 2. Mật độ sông
suối phát triển trên1 km/km2, nguồn nước phong phú, 6 km3/năm (40 - 70 l/s.km2). Lũ
tiểu mãn tháng 5, tháng 7. Mùa lũ chính ngắn, chậm, từ tháng 9 – tháng 11, chiếm 50 60% tổng lượng nước năm. Mô đun dòng chảy liên tục 30 ngày nhỏ nhất 3 - 4 l/s.km2.
Hệ thống thuỷ lợi được xây dựng khá tốt, như Nham Hùng Nghi, Diễn Yên Quỳnh,
Nghệ An và Linh Cảm, nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao, diện tích trồng trọt được
tưới ước đạt 85000 ha.
Dân số lưu vực 3 triệu người, 90% sống ở nông thôn, 15% là dân tộc ít người.
60% GDP của lưu vực là từ nông nghiệp, trong đó sản xuất lúa gạo chiếm 80%. Công

nghiệp chỉ giới hạn trong lĩnh vực xây dựng, sửa chữa đầu máy xe lửa, đóng tàu, chế
biến chè và hải sản, với tỷ trọng khoảng 14% GDP. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp,
một số người dân sống rất nghèo khổ.
Trở ngại lớn đối với sự phát triển là bão, lũ lụt. Lũ ác liệt và ngập lụt thường gây
thiệt hại cho sản xuất trên diện tích 30000 - 60000 ha/năm, làm mất khoảng 10-20%
sản lượng nông nghiệp, tương đương với khoảng 20-40 triệu đô la Mỹ. Nước kiệt
tháng 3 gây nhiễm mặn nặng vào sâu tới 20 km. Hạn hán có thể xảy ra vào tháng 5,
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
15


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

tháng 6 cũng là những trở ngại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp. Giải pháp hạn chế
thiên tai hiệu quả nhất là hồ chứa đa mục đích và cải thiện hệ thống kiểm soát lũ.
2.2.5 Lưu vực sông Thu Bồn
Sông Thu Bồn dài 205 km, diện tích lưu vực 10350 km2, trong đó 80% là cao
nguyên với nhiều thung lũng hẹp và đỉnh núi cao, 80% là rừng, độ cao bình quân lưu
vực 552m, độ dốc 25,5%. Hệ thống sông phát triển mạnh, hệ số uốn khúc 1,86, tổng
phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 81. Thượng nguồn Thu Bồn (sông Tranh) bắt nguồn từ núi Ngọc
Lĩnh cao 1600m, chảy theo hướng bắc - nam, đổ ra biển tại cửa sông Thạnh Châu
Đông. Sông Cái bắt nguồn từ núi Ngọc Lĩnh, chảy gần song song sông Tranh, hợp với
sông Bung tạo thành sông Vũ Gia. Sông Vũ Gia và Thu Bồn hợp lưu nhau tạo thành
sông Hội An. Hạ lưu sông Thu Bồn phát triển chằng chịt, với nhiều phân lưu như sông
Ngang, Vĩnh Điện, Tĩnh Yên đổ vào vịnh Đà Nẵng qua sông Hàn, sông Trường đổ vào
vịnh An Hoà, đồng thời cũng ăn thông với sông Tam Kỳ qua phá Trường Giang. Hiện
tượng xói lở bồi lấp dòng sông vùng hạ lưu diễn biến rất phức tạp.
Dòng chảy phân bố đồng đều trên lưu vực. Tổng lượng dòng chảy năm là 20

km , trong đó dòng chảy ngầm 6 km 3. Mùa lũ từ tháng 9, 10 – tháng 12, lượng dòng
chảy 65% tổng lượng năm. Lũ lụt xảy ra đồng bộ trong cả hệ thống và rất ác liệt. Biên
độ mực nước lên tới gần 20m. Cường suất lũ lên tại nhiều nơi khá lớn, tới vài mét/giờ.
Lũ quét cũng là mối đe doạ thường xuyên. Dòng chảy mùa cạn khá lớn, 18 - 41
l/s.km2. Dòng chảy tháng nhỏ nhất (tháng 4) chỉ chiếm 2% tổng lượng nước năm.
3

Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của lưu vực, với các cây trồng chủ yếu
là lúa, mía, lạc, thuốc lá và sắn. Sản lượng nông nghiệp chiếm khoảng 60% tổng GDP.
Đất nông nghiệp hạn chế, chỉ có 64000 ha (6% diện tích lưu vực), trong đó trên 2/3
nằm ở vùng đất thấp đã được khai thác, còn khoảng 20.000 ha nằm trên cao nguyên
khai thác hạn chế. 70% diện tích đất canh tác đã được tưới tiêu bằng hệ thống các hồ
chứa nhỏ và đập dâng nước, trong đó khoảng 30.000 ha trồng lúa. Nước cho nông
nghiệp có nguy cơ thiếu hụt do mùa kiệt kéo dài và xâm nhập mặn. Lũ lớn và tình
trạng cửa sông không ổn định đe dọa vùng hạ lưu và cửa sông trong đó có thành phố
Đà Nẵng. Trong tháng 11 và tháng 12, khoảng 31000 ha ven biển thường bị ngập lụt
ngắn, khoảng 1 - 3 ngày.
Trong tương lai gần, nhu cầu nước lưu vực khó biến động do diện tích canh tác
nông nghiệp khó tăng. Tuy nhiên cần tính tới biến động bất thường của tài nguyên
nước và nhu cầu nước cho đô thị, khu công nghiệp tăng. Dự kiến để khai thác hợp lý
tài nguyên đất và nước trong lưu vực có thể áp dụng các giải pháp kho nước nhỏ ở
thượng nguồn, thay đổi cơ cấu cây trồng trong mùa khô, thay lúa bằng cá trong mùa
úng ngập, đầu tư xây dựng cống ngăn mặn...
2.2.6. Lưu vực sông Ba

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
16



Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

Sông Ba dài 388km, bắt nguồn từ Công Pông, trên cao nguyên miền Trung cao
1200m, đổ ra biển qua cửa Ngọc Đăng. Lưu vực dài và hẹp, độ cao trung bình 400m,
độ dốc 10,9%, diện tích 13900 km 2, phân bố ở cả hai sườn dãy Trường Sơn, với 80%
là cao nguyên có các thung lũng hẹp và đỉnh núi cao nên thường có mưa lớn, lũ nhanh
và tiềm năng thuỷ điện dồi dào. Mật độ sông suối 0,94 km/ km 2, hệ số uốn khúc 1,98,
tổng phụ lưu cấp 1 - 6 là 106. Tổng lượng dòng chảy 10 km 3, trong đó nước ngầm
chiếm khoảng 15%. Vùng nhiều nước là lưu vực sông Hinh, 50 l/s. km2 và thượng
nguồn sông chính, 25 - 35 l/s. km2. Lưu vực sông Ba thường được xem là có lượng
nước dồi dào nhưng phân bố bất lợi theo thời gian. Mùa lũ ở thượng và trung lưu từ
tháng 8 -11, mức lũ không lớn, ở hạ lưu từ tháng 9 – tháng 12, thường xảy ra lũ lớn và
ngắn, đặc biệt là cuối mùa. Dòng chảy mùa lũ chiếm 60 - 73% tổng lượng năm. Tháng
có lượng dòng chảy lớn nhất xuất hiện đồng bộ trên toàn lưu vực vào tháng 9, với
lượng dòng chảy chiếm tới 21 - 40% tổng lượng năm, gây nguy cơ rất lớn cho vùng
trung hạ lưu. Riêng trận lũ từ ngày 9 - 20 tháng 11 năm 1981 đã có lượng nước là 4
km3 (bằng 40% dòng chảy trung bình năm và lớn hơn dòng chảy năm của sông Kỳ
Cùng). Mùa lũ 1996 tỉnh Phú Yên phải huy động hàng vạn người đào cồn cát chắn
cửa sông Ba để thoát lũ. Tháng kiệt nhất là tháng 4 ở Đông Trường Sơn và tháng 7 ở
Tây Trường Sơn, dòng chảy 0,9 - 1,6% tổng lượng năm. Những năm ít nước các sông
suối nhỏ hầu như khô cạn, mặn xâm nhập sâu qua cửa sông 15 - 20 km.
Cư dân lưu vực sông Ba khoảng 1 triệu người, thưa nhất trong cả nước, tỷ lệ dân
đô thị khoảng 20%. Kinh tế chỉ đóng góp chưa đầy 1% tổng GDP cả nước. Nông
nghiệp hiện đang sử dụng 150.000 ha trong tổng số 268.000 ha có khả năng canh tác.
Diện tích được tưới khoảng 21.500 ha, nhu cầu tưới rất lớn, vì tám tháng mùa khô đều
có lượng mưa nhỏ hơn bốc hơi, đặc biệt là tháng 2, 3, 4 khi lượng mưa xuống dưới 40
mm/tháng. Vùng ven biển đã có các hệ thống thuỷ lợi ổn định, nhưng thường xuyên
chịu tác động của bão, lũ. Vùng đất trũng đã xảy ra lụt nghiêm trọng. Hiện trên lưu
vực chưa có công trình kiểm soát lũ và úng ngập. Ba công trình dự kiến khả thi nhất là

hồ chứa Ya Yun và sông Hinh điều tiết nước phục vụ thuỷ lợi, An Khê phục vụ phát
điện và chuyển nước sang sông Con ngoài lưu vực với lưu lượng 14 - 18m 3/s. Mặc dù
được dự đoán là hoạt động đồng thời của ba công trình sẽ không gây ảnh hưởng lớn
tới dòng chảy mùa kiệt ở hạ lưu, tuy nhiên tình hình sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hoạt
động thực tế của từng công trình.
2.2.7. Lưu vực sông Đồng Nai
Sông Đồng Nai, bắt nguồn từ Nhơn Giao trên cao nguyên Lâm Viên cao 1700m,
chảy ra biển qua cửa Soi Rạp, Vũng Tàu, là con sông dài nhất nội địa Việt Nam, 635
km. Diện tích lưu vực 44100 km 2, ở Việt Nam 37400 km2, độ cao bình quân lưu vực
470m, độ dốc 4,6%. Mật độ lưới sông 0,64 km/ km 2, hệ số uốn khúc 2,16, tổng phụ
lưu từ cấp 1 - 6 là 266. Phụ lưu chính là La Ngà, Sông Bé, Sài Gòn và Vàm Cỏ.
Thượng và trung lưu sông chảy qua sơn nguyên Đà Lạt, cao nguyên Di Linh, Mơ
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
17


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

Nông, dòng sông nhiều đoạn bằng phẳng xen lẫn thác ghềnh (Pren, Trị An). Hạ lưu
sông qua đồng bằng Nam Bộ, lòng sông mở rộng, hội với sông Sài Gòn rồi đổ ra biển
bằng nhiều nhánh chằng chịt, trong đó có Lòng Tào và Soài Rạp. Lòng Tào sâu, ít bãi
bồi, là đường chính cho tàu bè vào cảng Sài Gòn. Tả ngạn Soài Rạp nhận thêm nước
sông Vàm Cỏ ngay trước khi đổ ra biển.
Thượng nguồn sông Đồng Nai có dòng chảy trung bình, 20 - 30 l/s. km2. Lưu
vực sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ mưa ít, bốc hơi mạnh nên lượng nước kém, 10 - 20
l/s. km2. Trung lưu sông Đồng Nai, La Ngà và thượng nguồn sông Bé có nguồn nước
dồi dào, trên 40 l/s. km2. Tổng lượng dòng chảy sông Đồng Nai là 33 km 3/năm, trong
đó dòng chính và sông Bé cung cấp 24,2 km 3/năm, sông Sài Gòn 4,1 km3, sông Vàm

Cỏ 4,5 km3 (3,1 km3/năm của hai sông này là nhận từ nước ngoài). Mùa lũ từ tháng 7 11, mức độ tập trung dòng chảy cao nhất nước, 80 - 85% tổng lượng dòng chảy năm,
tháng có dòng chảy lớn nhất có thể là 9, 10, cấp 25 - 30% tổng lượng nước năm. Dòng
chảy mùa kiệt tương đối lớn, 20 - 30 l/s. km2.
Nguồn thuỷ năng của hệ thống sông Đồng Nai rất dồi dào, tính đến Trị An là 31
tỷ kW/h, còn trên sông Bé 9 tỷ kW/h. Lưu vực hiện có ba hồ chứa đa mục tiêu là Trị
An, Đa Nhim, Thác Mơ và hồ Dầu Tiếng phục vụ cấp nước sinh hoạt và nông nghiệp.
Các công trình trên chứa tổng cộng trên 6 km 3 nước, đảm bảo cho trên 700 MW công
suất lắp đặt thuỷ điện. Trị An và Dầu Tiếng hiện cấp 225 m 3/s nước trong mùa khô,
nhưng nước mặn có nồng độ tối đa trung bình 4000 ppm vẫn xâm nhập sâu 7km trên
đoạn hợp dòng của sông Đồng Nai và Sài Gòn, gây nguy cơ làm giảm chất lượng
nước Tp.Hồ Chí Minh và khu vực xung quanh.
Châu thổ sông Đồng Nai có vành đai kinh tế Tp. Hồ Chí Minh - Biên Hoà là
trung tâm phát triển kinh tế lớn nhất ở Việt Nam. Phần lớn châu thổ, chiếm 10% diện
tích cả nước, là nơi sinh sống của trên 10 triệu dân hoạt động trong ba khu vực công
nghiệp - dịch vụ, cây công nghiệp - lâm nghiệp và sản xuất nông nghiệp (tập trung
trong đồng bằng phù sa Long An). Thu nhập bình quân đầu người cao, gần gấp đôi
trung bình cả nước.
Không giống như nhiều vùng khác, châu thổ sông Đồng Nai hầu như không có
bão, do vậy lụt không nghiêm trọng, trừ úng ngập xảy ra ở ven biển trong mùa mưa
do khả năng tiêu thoát nước kém. Nhiệt độ, độ ẩm, nắng thuận lợi cho nông nghiệp.
Diện tích đất có thể trồng trọt khoảng 1,2 triệu ha, chiếm 17% tổng diện tích đất nông
nghiệp Việt Nam. Nông nghiệp chỉ tập trung trong các thung lũng hẹp, cung cấp 20%
tổng sản lượng vùng, tương đương 2 triệu tấn lương thực năm, hay 200kg/người.năm.
Cao nguyên cung cấp 90% sản lượng cao su toàn quốc. 56% diện tích đất tiềm năng
nông nghiệp đã được tưới tiêu.
Hạn chế tài nguyên nước là một vấn đề nghiêm trọng. Lượng mưa lớn nhưng
phân hoá cực đoan, trên 90% tập trung vào 7 tháng mùa mưa, từ tháng 5 - 11. Trong
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh

18


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước

những tháng mùa khô lượng mưa chỉ khoảng 10 - 50 mm/tháng, dòng chảy nhỏ, xâm
nhập mặn nặng nề. Ảnh hưởng phức tạp của chế độ triều cản trở tiêu thoát lũ, cản
dòng chảy xuôi dòng chuyển tải chất thải đi khỏi Tp. Hồ Chí Minh và kích thích lan
truyền ra diện rộng những nguồn ô nhiễm bất thường vùng cửa sông.
2.3. Tài nguyên nước dưới đất
Ở Việt Nam, dự báo tài nguyên nước dưới đất trong các thành tạo chứa nước chính
(thành tạo bở rời, đá vôi, lục nguyên, bazan…) ước tính khoảng 172,6 triệu m 3/ngày, trong
khi đó tỷ trọng sử dụng nước dưới đất chưa nhiều.
Nước dưới đất ở Việt Nam tồn tại trong các thành tạo cát cuội sỏi bở rời, cát bột kết,
bazan, đá vôi và một số thành tạo khác, tạo thành các tầng chứa nước chính tại miền Đông
Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và
đồng bằng Nam Bộ.
Bảng 2.1. Lượng nước dưới đất đang khai thác ở từng vùng
TT Thành phố, vùng
Lượng nước đang khai Tài nguyên dự % khai thác so
thác, m3/ngày
báo, m3/ngày
với tài nguyên
1 Đồng bằng Bắc Bộ
2264898
17191102
13,17
2 Đồng bằng Nam Bộ
3602447
23843731

15,11
3 Tây Nguyên
985000
18489000
5,33
4 Tây Bắc Bộ
5000
15521338
0,3
5 Đông Bắc Bộ
20000
27995378
0,07
6 Bắc Trung Bộ
1000000
17101539
5,84
7 Nam Trung Bộ
24500
8941093
0,27
Toàn lãnh thổ
10531243
172599897
6,1

Chương 3.
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo nhưng cũng có thể bị

cạn kiệt tùy vào tốc độ khai thác của con người và khả năng tái tạo của môi trường. Ngày
nay, sử dụng nước cho mọi hoạt động đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên, việc sử dụng và khai
thác nguồn tài nguyên này không hợp lý có thể sẽ gây ra những hậu quả, ảnh hưởng nghiêm
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
19


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
trọng tới tính bền vững của nguồn tài nguyên này trong tương lai.
3.1. Tình hình sử dụng nước trên thế giới
Nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng theo đà phát triển của nền công nghiệp, nông
nghiệp và sự nâng cao mức sống của con người. Theo ước tính, bình quân trên toàn thế giới
có khoảng 23% lượng nước cung cấp được sử dụng cho công nghiệp, 69% cho nông nghiệp
và 8% cho sinh hoạt. Tuy nhiên, nhu cầu nước sử dụng lại thay đổi tùy thuộc vào sự phát
triển của mỗi quốc gia. Ví dụ: Ở Hoa Kỳ, khoảng 44% nước được sử dụng cho công nghiệp,
47% sử dụng cho nông nghiệp và 9% cho sinh hoạt và giải trí (Chiras, 1991). Ở Trung Quốc
có khoảng 7% nước được dùng cho công nghiệp, 87% cho nông nghiệp, 6% sử dụng cho sinh
hoạt và giải trí (Chiras, 1991).
Bảng 1. Tỷ trọng dùng nước các khu vực trên thế giới
Vùng
Bắc và Trung Mỹ
Nam Mỹ
Châu Âu
Châu Phi
Châu Á
Châu Đại dương
Toàn thế giới


Công nghiệp %

Nông nghiệp %
42
22
54
5
8
2
23

Sinh hoạt %
49
59
33
88
86
34
69

9
19
13
7
6
64
8

3.1.1. Nhu cầu về nước trong nông nghiệp:


Trước đây, hiện nay và trong tương lai gần, nông nghiệp vẫn là đối tượng tiêu thụ nước
lớn nhất. Sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp như sự thâm canh tăng vụ và mở rộng diện
tích đất canh tác cũng đòi hỏi một lượng nước ngày càng cao. Theo M.I.Lvovits (1974), trong
tương lai do thâm canh nông nghiệp mà dòng chảy cả năm của các con sông trên toàn thế
giới có thể giảm đi khoảng 700 km3/năm. Phần lớn nhu cầu về nước được cung cấp nhờ mưa
ở vùng có khí hậu ẩm, nhưng cũng thường được bổ sung bởi nước sông hoặc nước ngầm
bằng biện pháp thủy lợi, nhất là vào mùa khô. Ước tính được mối quan hệ giữa lượng nước
sử dụng với lượng sản phẩm thu được trong quá trình canh tác như sau: để sản xuất 1 tấn lúa
mì cần đến 1.500 tấn nước, 1 tấn gạo cần đến 4.000 tấn nước và 1 tấn bông vải cần đến
10.000 tấn nước. Sở dĩ cần số lượng lớn nước như vậy chủ yếu là do sự đòi hỏi của quá trình
thoát hơi nước của cây, sự bốc hơi nước của lớp nước mặt trên đồng ruộng, sự trực di của
nước xuống các lớp đất bên dưới và phần nhỏ tích tụ lại trong các sản phẩm nông nghiệp.
Theo tổ chức FAO (1988) 17% diện tích đất canh tác đã được thuỷ lợi hoá, cung cấp
cho nhân loại 36% sản lượng lương thực có mức đảm bảo ổn định cao. Do đó tưới là giải
pháp chính để giải quyết vấn đề lương thực trong điều kiện dân số gia tăng và nguy cơ đất
canh tác giảm hiện nay.
Diện tích đất được tưới tăng rất nhanh, năm 1800 là 8 triệu ha, 1900 là 48 triệu ha và
1990 là 220 triệu ha. ¾ đất được tưới nằm ở các nước đang phát triển, nơi sản xuất ra 60%
lượng gạo và 40% lượng lúa mì của các nước này. Nước cấp cho nông nghiệp hiện chiếm
>1/2 tổng lượng tiêu thụ, trong đó 30% lấy từ dưới đất. Nhu cầu lượng nước tưới phụ thuộc
vào độ thiếu ẩm thực tế của đất, điều kiện thời tiết, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây.

Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
20


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
Lượng cần tưới biến đổi theo thời gian và dao động nhu cầu thường không trùng pha với biến

động nước tự nhiên.
Mỗi loại cây có những yêu cầu riêng về nước, thích hợp với một phương pháp tưới
nhất định. Nhu cầu nước tưới phụ thuộc loại cây, tuổi cây, điều kiện khí hậu. Ví dụ như: cây
ngô thời kỳ nảy mầm và ra lá sử dụng 19%, thời kỳ trổ bông 32%, thời kỳ ra bắp đến khi thu
hoạch 49% tổng lượng nước cần. Đối với cây lúa, 3 tuần đầu cần duy trì mức ngập 25mm để
chống cỏ dại và giữ đất trong điều kiện khử. Khi ngừng cấp nước vào ruộng thời kỳ ngày thứ
43 - 81 năng suất giảm từ 6,2 tấn/ha xuống 4,4 tấn/ha, ngừng cấp nước muộn hơn từ ngày thứ
63 - 102 năng suất giảm còn 2,2 tấn/ha. Đáng lưu ý là việc ngừng đưa nước vào ruộng không
đồng nghĩa với giảm lượng tưới, vì sau thời kỳ hạn phải tưới một lượng nước lớn hơn để đưa
ruộng về trạng thái bình thường và khi có nước, tốc độ thấm rỉ tăng mạnh. Nghiêm trọng hơn
nữa là khi ruộng khô, nitơ sẽ bị ôxy hoá và bay đi.
Nước thải từ đất canh tác nông nghiệp thường có chất lượng kém, chứa nhiều chất
hữu cơ, phù sa lơ lửng, dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật các loại, là nguồn thải
vừa lớn về lượng, vừa mang tính diện rộng nên dễ gây ô nhiễm thuỷ vực và khó kiểm soát.
Ngoài việc trực tiếp tiêu thụ tài nguyên nước, nông nghiệp còn là một ngành tác động rất lớn
tới điều kiện hình thành dòng chảy trên lưu vực. Canh tác nông nghiệp làm thay đổi mạnh
đặc điểm lớp phủ thực vật, như độ dày tán, thời gian che phủ..., thay đổi đặc điểm sườn dốc,
như độ dốc, độ dài sườn dốc, độ thấm, thay đổi cấu tạo đất... dẫn đến làm thay đổi chế độ
nước cả về lượng và về chất.
3.1.2. Nhu cầu về nước trong công nghiệp
Trên thế giới, nhu cầu nước cấp cho công nghiệp đứng thứ hai sau nông nghiệp và ước
tính bằng 1/4 tổng lượng nước tiêu thụ. Riêng ở châu Âu tỷ lệ này bị đảo ngược, với việc các
ngành công nghiệp dùng lượng nước lớn gấp 2 lần nông nghiệp và bằng 1/2 tổng lượng nước
tiêu thụ chung. Nhìn chung nhu cầu nước cho công nghiệp thường rất lớn so với nhu cầu sinh
hoạt của dân cư. Ví dụ: một nhà máy sản xuất 1,5 triệu tấn thép/năm cần 1 - 1,2 triệu m 3
nước/ngày, trong khi đó một đô thị 1 triệu dân, với tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt 150 200l/ngày chỉ cần cấp 0,15 - 0,20 triệu m 3 nước/ngày. Nhưng cấp nước phục vụ dân sinh
thường xen kẽ với cấp nước công nghiệp, các hệ thống cấp nước qua đường ống thường được
thiết kế phục vụ chung cho cả hai đối tượng. Điều đó đồng nghĩa với việc đẩy tiêu chuẩn chất
lượng nước cấp cho công nghiệp lên ngang tầm chất lượng nước sinh hoạt, làm tăng giá thành
xử lý nước đơn vị, nhưng lại tiết kiệm được kinh phí xây dựng hệ thống phân phối.

Yêu cầu về chất lượng nước cấp cho công nghiệp đa dạng và phân hoá, tăng giảm phức
tạp tuỳ thuộc đối tượng và mục đích dùng nước. Tiêu chuẩn nước dùng cho công nghiệp thực
phẩm là cao nhất và rất gần với nước sinh hoạt. Nước làm nguội có yêu cầu về chất lượng
thuộc loại thấp nhất. Lượng nước cấp trên một đơn vị sản phẩm công nghiệp phụ thuộc vào
sơ đồ quy trình công nghệ, loại thiết bị, điều kiện tự nhiên và nhiều yếu tố khác. Do vậy, các
cơ sở sản xuất cùng một mặt hàng cũng có thể tiêu thụ nước không giống nhau, còn nhu cầu
cho các ngành khác nhau là hoàn toàn khác nhau. Chế độ cấp nước công nghiệp biến động
theo thời gian giờ, ngày, mùa, liên quan tới thời gian sản xuất và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm.
Những ngành công nghiệp có nhu cầu tiêu thụ nước lớn hiện nay là luyện kim, hoá chất, giấy
và xenluylô, sợi tổng hợp.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
21


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
3.1.3. Nhu cầu về nước Sinh hoạt và giải trí
Về mặt sinh lý, mỗi người chỉ cần 1 - 2 lít nước/ngày. Trung bình nhu cầu nước sinh
hoạt của một người trong một ngày là 10 - 15 lít cho vệ sinh cá nhân, 20 - 200 lít cho tắm, 20
- 50 lít cho nấu ăn, 40 - 80 lít cho giặt bằng máy… Trung bình mỗi cư dân nông thôn tiêu thụ
50 l/ngày, vùng nông thôn châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh tiêu thụ khoảng 20 - 30
l/ngày/người. Trong những năm 80 của thế kỷ XX chỉ có 4% dân số toàn cầu tiêu thụ nước ở
mức lớn hơn 300l/người/ngày cho các nhu cầu sinh hoạt và công cộng. Nhu cầu nước cho
sinh hoạt ít về lượng nhưng lại rất cao về chất. Đối tượng dùng nước phân hoá, phân bố rộng
khó kiểm soát, yêu cầu về nước và khả năng đáp ứng yêu cầu của ngành nước rất khác nhau.
Định mức cấp nước sinh hoạt theo đầu người ở mức thấp là 30 l/ngày, cao là 300 -400l/ngày,
phụ thuộc chủ yếu vào mức sống và khả năng cấp nước của hệ thống.
Chế độ cấp nước biến động theo thời gian tuỳ thuộc điều kiện tự nhiên và nhu cầu dùng
nước thực tế. Trong lịch sử, các đô thị cổ từng đã xây dựng được những hệ thống cấp nước

hoàn hảo tới khó tưởng tượng nổi. Ví dụ như ở thành Roma vẫn còn dấu tích của một hệ
thống ống dẫn nước cổ, dài hơn 80km, được đặt ngầm dưới đất, xuyên qua núi theo một
tuyến thẳng, đưa nước về một kênh dẫn lớn trên cao, từ đó phân phối cho toàn thành phố (dân
số 1 triệu người) với mức bình quân 1.000m 3/người/ngày. Toàn bộ các đài phun nước của
thành phố cũng hoạt động nhờ nguồn nước tự chảy này. Những thành phố lớn trên thế giới
tiêu thụ nước tương đương dòng chảy của một con sông. Ví dụ như Luân Đôn, 8 triệu dân
dùng nước với mức bình quân 400l/người/ngày, cần lượng nước cấp là 37 m 3/s, tương đương
dòng chảy sông Theme tự nhiên trước đây và 2 lần dòng chảy bị điều tiết hiện nay. Năm
1950 có dưới 30% dân số sống ở đô thị, hiện nay là 46% và tới năm 2025 ước tính sẽ đạt
60%. Nhu cầu ngày càng nhiều về loại nước này sẽ gây quá tải cấp nước chất lượng cao.
Mặt khác nước thải từ nguồn này chứa nhiều chất hữu cơ sẽ tăng mạnh, do 70 - 80%
lượng nước cấp cho sinh hoạt và công cộng trở thành nước thải. Tiêu chuẩn nước sinh hoạt
được các quốc gia và tổ chức liên quan quy định tuỳ thuộc yêu cầu về vệ sinh dịch tễ, nhu
cầu xã hội và khả năng đáp ứng của tài chính, khoa học, công nghệ tại chỗ. Nước thải sinh
hoạt, bao gồm cả nước thải từ khu nhà bếp và nhà vệ sinh, nên chứa rất nhiều chất hữu cơ và
sinh vật gây bệnh. Ngoài ra trong nước thải sinh hoạt còn có nhiều loại hoá chất khác nhau,
đặc biệt là các chất tẩy rửa. Nước thải thường ứ đọng trong các hệ thống cống lâu ngày nên
càng độc hại và có mùi hôi thối. Đây là nguồn gây ô nhiễm đáng chú ý đối với các thuỷ vực
tiếp nhận. Trong đó nguy hiểm hơn cả là sự ô nhiễm gây ra cho các tầng nước ngầm bởi các
dòng thấm không kiểm soát được từ nguồn ô nhiễm hoặc bị nhiễm bẩn do thấm qua tầng đất
đá ô nhiễm.
3.1.4. Nhu cầu nước trong thuỷ điện
Trong các dạng điện năng, thuỷ điện có giá thành rẻ hơn các loại điện năng khác và
được ưu tiên lựa chọn hơn do có lợi thế là: Không gây ô nhiễm khí, nhiệt như trong nhiệt
điện, phóng xạ trong điện nguyên tử; Sử dụng năng lượng tự tái tạo, nên tiết kiệm tiêu thụ các
tài nguyên không tái tạo khác; Chi phí quản lý vận hành thấp; Có thể kết hợp phòng lũ và cấp
nước cho các đối tượng khác. Trong tổng sản lượng điện toàn thế giới năm 1973 là 6.147 tỷ
KWh thì thuỷ điện có 1.275 tỷ KWh, còn lại là nhiệt điện và điện nguyên tử. Thuỷ điện từng
được coi là ngành dùng nước sạch vì nó không gây ô nhiễm trực tiếp môi trường. Tuy nhiên,
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2


GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
22


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
do nhu cầu tiêu thụ điện năng biến động theo các quy luật xã hội, trong khi phân phối nước tự
nhiên có chu kỳ mùa và nhiều năm, thường không đồng pha với biến động nhu cầu điện. Nhà
máy thuỷ điện luôn song hành với kho chứa nước dung tích lớn, gây ra một loạt các vấn đề
môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội phức tạp cho vùng lòng hồ, vùng lân cận và hạ lưu.
Ngoài ra, do diện tích mặt nước lớn, ước tính khoảng 0,5% dung tích hữu ích của các kho
nước bị tổn thất vào bốc hơi. Tổn thất nước vào thấm cũng không nhỏ và phụ thuộc vào điều
kiện địa chất vùng đáy cũng như cao độ cột nước dâng. Các kho nước lớn đều được thiết kế
và điều tiết đa mục đích, ví dụ như phát điện, phòng lũ, giao thông thuỷ, tưới...
Chế độ dùng nước của thuỷ điện phụ thuộc vào nhu cầu tiêu thụ điện thực tế nên biến
động theo thời gian không trùng pha với nhu cầu của các ngành dùng nước khác, dẫn đến làm
phức tạp công tác điều tiết và làm giảm hiệu quả điều tiết đa mục đích. Ví dụ, mục tiêu của
thuỷ điện và các ngành tiêu thụ nước khác là có đủ nước dùng, do vậy, để đảm bảo an toàn,
họ muốn quá trình tích nước sẽ được thực hiện ngay từ đầu mùa lũ và tích đầy càng sớm càng
tốt. Trong khi đó để phục vụ mục tiêu cắt lũ, phòng lũ thì phải để trống dung tích phòng lũ
trong suốt mùa lũ, đề phòng khi có lũ lớn về thì có chỗ chứa. Hơn nữa độ bền vững của công
trình có thể bị thử thách do phải chịu đựng những áp lực nước lớn lâu dài. Do vậy để điều tiết
nước đa mục đích cần tiến hành quá trình tích nước sao cho nó diễn ra càng muộn càng tốt,
nhưng vẫn đảm bảo tích đầy vào cuối mùa lũ. Các kho nước không phải là vĩnh cửu. Tuổi thọ
của chúng được thiết kế căn cứ vào kích thước của dung tích chết. Khi dung tích chết bị lấp
đầy, kho nước mất đi các chức năng cơ bản của chúng. Người ta không thể xây dựng một kho
nước mới ngay trên kho nước đã chết. Còn trên các dòng sông không phải chỗ nào cũng
thuận lợi cho việc xây dựng kho nước. Những nơi phù hợp nhất thường dễ bị khai thác sớm
nhất.
3.1.5. Nhu cầu nước trong giao thông thuỷ

Giao thông thuỷ là ngành lợi dụng nước. Yêu cầu chính của ngành là đảm bảo độ sâu,
chiều rộng, bán kính cong và mức độ ổn định của tuyến đường thuỷ. Chiều sâu đảm bảo được
tính từ mực nước sông thấp nhất ứng tần suất tính toán 90 - 99% và được Bộ Giao thông vận
tải quy định, tuỳ theo phương tiện và yêu cầu vận tải đối với mỗi tuyến. Khi mực nước thiết
kế không đảm bảo yêu cầu khai thác giao thông thuỷ, có thể điều chỉnh bằng các biện pháp
công trình như: 1- Điều tiết dòng chảy bằng kho nước hoặc chuyển dòng; 2- Nắn bờ tăng độ
cong, nạo vét luồng; 3- Kênh hoá bằng đập dâng và âu tàu. Độ ổn định của tuyến sông phụ
thuộc vào cấu tạo địa chất bờ đáy, chế độ nước sông và đặc điểm tương tác dòng nước - lòng
sông. Gia cố bờ cần thiết cho việc bảo vệ các công trình cảng ven bờ, nhưng không phải là
bắt buộc đối với việc bảo đảm độ sâu tuyến. Trong các sông chảy trên nền đáy bở rời, quá
trình bồi xói diễn ra theo quy luật tự nhiên, mọi giải pháp công trình cản trở quy luật này tại
một đoạn sông sẽ có tác dụng dây chuyền lên các đoạn kế tiếp, vừa phá vỡ quy luật tự nhiên,
vừa tạo nên rủi ro bất thường mang tính nhân tác, mà một số người vẫn nhầm tưởng là tai
biến thiên nhiên. Đây là điều cần phải tính đến trong công cuộc chinh phục các dòng sông vì
mục đích sử dụng tổng hợp và hiệu quả tài nguyên. Ngoài ra, giao thông thuỷ cũng là một
ngành thải chất độc hại (dầu mỡ...) và khi có sự cố thì lượng hàng hoá vận chuyển có thể sẽ
phát tán toàn bộ vào khối nước, gây nguy cơ ô nhiễm cao hoặc tạo chướng ngại vật cản trở
dòng chảy.
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
23


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
3.1.6. Nhu cầu nước trong thuỷ sản
Thuỷ sản là ngành lợi dụng nước, dùng nước làm môi trường sống cho thuỷ sinh vật
hữu ích. Nhu cầu nước của ngành thuỷ sản có nhiều điểm khác biệt so với các ngành khác.
Đó là: yêu cầu chế độ mực nước, nhiệt độ tương đối ổn định, điều kiện môi trường sống phù
hợp, không độc hại cho sinh vật, thức ăn được cung cấp thường xuyên và đầy đủ. Biến động

nhiệt độ nước là yếu tố giới hạn đối với ngành thuỷ sản. Theo quy định của Liên Xô (cũ),
biên độ dao động nhiệt cho phép không quá 3-5oC và nhiệt độ nước tối đa không quá 30-32oC
ở vùng nhiệt đới. Yêu cầu dùng nước cho thuỷ sản có thể mâu thuẫn với các ngành dùng
nước khác. Khai thác thuỷ sản tự nhiên cần sự lưu thông dòng chảy từ thượng tới hạ nguồn,
vì một số loài thuỷ sinh có nhu cầu sống ở mỗi thời kỳ sinh trưởng trong một môi trường
(đoạn sông) khác nhau, do đó mâu thuẫn với nhu cầu đắp đập ngăn sông. Nuôi thuỷ sản nhân
tạo cần hạn chế lưu thông tự nhiên giữa các thuỷ vực để bảo vệ nguồn lợi và hạn chế dao
động của chế độ nước, do đó mâu thuẫn với các đối tượng có nhu cầu tiêu thụ nước cao, hoặc
nhu cầu tích nước để kiểm soát lũ và cấp nước vào mùa kiệt. Nuôi trồng thuỷ sản có thể sử
dụng nước thải đô thị và phân tươi, nên một mặt nó là tác nhân làm sạch môi trường rẻ tiền
và hiệu quả, mặt khác nó tạo nguy cơ lan truyền ô nhiễm tới các thuỷ vực cấp nước chất
lượng cao, nhất là nước dưới đất và tạo ra sản phẩm sinh học ô nhiễm.
3.2. Tình hình sử dụng nước ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới ẩm có lượng mưa tương đối lớn trung bình từ
1.800mm - 2.000mm, nhưng lại phân bố không đồng đều mà tập trung chủ yếu vào mùa mưa
từ tháng 4-5 đến tháng 10, riêng vùng duyên hải Trung bộ thì mùa mưa bắt đầu và kết thúc
chậm hơn vài ba tháng. Sự phân bố không đồng đều lượng mưa và dao động phức tạp theo
thời gian là nguyên nhân gây nên nạn lũ lụt và hạn hán thất thường gây nhiều thiệt hại lớn
đến mùa màng và tài sản ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia, ngoài ra còn gây nhiều trở ngại
cho việc trị thủy, khai thác dòng sông.
Theo sự ước tính thì lượng nước mưa hằng năm trên toàn lãnh thổ khoảng 640 km 3, tạo
ra một lượng dòng chảy của các sông hồ khoảng 313 km 3. Nếu tính cả lượng nước từ bên
ngoài chảy vào lãnh thổ nước ta qua hai con sông lớn là sông Cửu long (550 km 3) và sông
Hồng (50 km3) thì tổng lượng nước mưa nhận được hằng năm khoảng 1.240 km 3 và lượng
nước mà các con sông đổ ra biển hằng năm khoảng 900 km 3. Như vậy so với nhiều nước,
Việt nam có nguồn nước ngọt khá dồi dào, lượng nước bình quân cho mỗi đầu người đạt tới
17.000 m3/người/năm. Do nền kinh tế nước ta chưa phát triển nhiều nên nhu cầu về lượng
nước sử dụng chưa cao, hiện nay mới chỉ khai thác được 500 m 3/người/năm nghĩa là chỉ khai
thác được 3% lượng nước được tự nhiên cung cấp và chủ yếu là chỉ khai thác lớp nước mặt
của các dòng sông và phần lớn tập trung cho sản xuất nông nghiệp (Cao Liêm- Trần Đức

Viên, 1990).
3.2.1. Nước ngầm
Nước lưu trữ trong lòng đất cũng là một bộ phận quan trọng của nguồn tài nguyên nước
ở Việt Nam. Mặc dù nước ngầm được khai thác để sử dụng cho sinh hoạt đã có từ lâu đời
nay; tuy nhiên việc điều tra nghiên cứu nguồn tài nguyên này một cách toàn diện và có hệ
thống chỉ mới được tiến hành trong chừng chục năm gần đây. Hiện nay phong trào đào giếng
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
24


Tên đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường Nước
để khai thác nước ngầm được thực hiện ở nhiều nơi nhất là ở vùng nông thôn bằng các
phương tiện thủ công, còn sự khai thác bằng các phương tiện hiện đại cũng đã được tiến hành
nhưng còn rất hạn chế chỉ nhằm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt ở các trung tâm công nghiệp
và khu dân cư lớn mà thôi.
3.2.2. Nước khoáng và nước nóng
Theo thống kê chưa đầy đủ thì ở Việt Nam có khoảng 350 nguồn nước khoáng và nước
nóng, trong đó nhóm chứa Carbonic tập trung ở Nam Trung bộ, đông Nam bộ và nam Tây
nguyên; nhóm chứa Sulfur Hydro ở Tây Bắc và miền núi Trung bộ; nhóm chứa Silic ở trung
và nam Trung bộ; nhóm chứa Sắt ở đồng bằng Bắc bộ; nhóm chứa Brom, Iod và Bor có trong
các trầm tích miền võng Hà Nội và ven biển vùng Quảng Ninh; nhóm chứa Fluor ở nam
Trung bộ....Phần lớn nước khoáng cũng là nguồn nước nóng, gồm 63 điểm ấm với nhiệt độ từ
300c – 400c; 70 điểm nóng vừa với nhiệt độ từ 41 0c – 600C và 36 điểm rất nóng với nhiệt độ
từ 600c – 1000c; hầu hết là mạch ngầm chỉ có 2 mạch lộ thiên thuộc loại ấm gặp ở trung
Trung bộ và ở đông Nam bộ. Từ những số liệu trên cho thấy rằng tài nguyên nước khoáng và
nước nóng của Việt Nam rất đa dạng về kiểu loại và phong phú có tác dụng chửa bệnh, đồng
thời có tác dụng giải khát và nhiều công dụng khác.
3.2.3. Tình hình sử dụng nước trong các hoạt động kinh tế

Việt Nam là nước Đông Nam Á có chi phí nhiều nhất cho thủy lợi. Cả nước hiện nay
có 75 hệ thống thủy nông với 659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3500 hồ đập nhỏ 1000 cống tiêu,
trên 2000 trạm bơm lớn nhỏ, trên 10000 máy bơm các loại có khả năng cung cấp 60-70 tỷ
m3/năm. Tuy nhiên, hệ thống thủy nông đã xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng 50-60%
công suất thiêt kế.
Lượng nước sử dụng hằng năm cho nông nghiệp khoảng 93 tỷ m 3, cho công nghiệp
khoảng 17,3 tỷ m3, cho dịch vụ là 2 tỷ m 3, cho sinh hoạt là 3,09 tỷ m 3. Tính đến năm 2030 cơ
cấu dùng nước sẽ thay đổi theo xu hướng Nông nghiệp 75%, Công nghiệp 16%, tiêu dùng
9%. Nhu cầu dùng nước sẽ tăng gấp đôi, chiếm khoảng 1/10 lượng nước sông ngòi, 1/3
lượng nước nội địa, 1/3 lượng nước chảy ổn định.
Do lượng mưa lớn, địa hình dốc, nước ta là một trong 14 nước có tiềm năng thuỷ điện
lớn. Các nhà máy thủy điện hiện nay sản xuất khoảng 11 tỷ kWh, chiếm 72 đến 75% sản
lượng điện cả nước. Với tồng chiều dài các sông và kênh khoảng 40000 km, đã đưa và
khai thác vận tải 1500 km, trong đó quản lý trên 800km. có những sông suối tự nhiên, thác
nước,… được sử dụng làm các điểm tham quan du lịch.
Về nuôi trồng thủy hải sản, nước ta có 1 triệu ha mặt nước ngọt, 400.000 ha mặt nước
lợ và 1.470.000 ha mặt nước sông ngòi có hơn 14 triệu ha mặt nước nội thủy và lãnh hải. Tuy
nhiên cho đến nay mới sử dụng 12,5% diện tích mặt nước lợ, nước mặn và 31% diện tích
mặt nước ngọt.
Nhiều hồ và đập nhỏ hơn trên khắp toàn quốc phục vụ tưới tiêu như Cấm Sơn (Bắc
Giang), Bến En và Cửa Đạt (Thanh Hóa), Đô Lương (Nghệ An)… Theo số liệu thống kê,
Việt Nam hiện có hơn 3500 hồ chứa nhỏ và khoảng 650 hồ chứa cỡ lớn và trung bình dùng
để sản xuất thủy điện, kiểm soát lũ lụt, giao thông đường thủy thủy lợi và nuôi trồng thủy sản
(FAO, 1999).
Lớp: CHQLMT 5A – Nhóm 2

GVHD: PGS TS. Trương Thanh Cảnh
25



×