Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.55 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý cua Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chủ trương trên, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 - 1990) đến
nay, Đảng và Nhà nước đã ban hàng một số chủ trương, chính sách nhằm khuyến
khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, các loại hình
doanh nghiệp như doanh nghiêp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần đã phát
triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta.
Song nhìn chung quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đến nay ở nước ta
có tới 70% doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hầu hết các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh thuộc loại vừa và nhỏ. Hiện nay, DNNN ở nước ta tuy có tốc độ phát
triển tương đối khá nhưng đang gặp khó khăn: thiết bị, công nghệ lác hậu, trình độ
tổ chức và quản lý yếu kém, giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị
hàng hoá nhập lậu và hàng hoá của các doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt.
Nhưng khó khăn lớn nhất hiện nay là vốn hiện có của các DNNN rất ít trong
khi đó nhu cầu vốn để các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,
công nghệ lại đòi hỏi rất lớn. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng tín dụng ngân hàng
nhằm tìm ra các biện pháp chủ yếu mở rộng một vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng nói trên, em xin chọn đề tài:
"Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Đà Nẵng trong hai năm


CHƯƠNG I:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG VÀ
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ.
I.

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.



1.

Khái niệm:

Điều 20 Luật Tổ chức Tín dụng Việt Nam có nêu rõ: Ngân hàng thương mại là tổ
chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt đông ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan.Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên lànhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Tuỳ theo tính chất và mục tiêu hoạt động,các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng
Thương mại, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Chính sách, Ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác.
2.

Đặc điểm:

-

Vốn bằng tiền vừa là phương tiện vừa là đối tượng của quá trình kinh doanh.

-

Ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác chứ không phải

bằng vốn chủ sở hửu
-

Một trong những sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là tín dụng.


-

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến nhiều đối tượng khách

hàng mà những khách hàng này hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau. Do đo
ngân hàng có thể phân tán rủi ro trong đầu tư và chịu nhiều rủi ro về sự đa dạng
cũng như mức độ.
-

Hoạt động ngân hàng chịu nhiều sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của nhà

nước và pháp luật.


-

Hoạt động ngân hàng diễn ra một cách liên tục, các hoạt động có liên hệ bổ

sung lẫn nhau. Vì vậy, việc xác định kết quả của một hoạt động nào đó thì khó
chính xác.
3.

Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại:

3.1

Nghiệp vụ tài sản nợ:

Huy động các nguồn vốn trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của
các ngânhàng thương mại. Bằng những công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép

NHTM đã huy động vốn từ các nguồn tiền trong xã hội làm nguồn vốn để cho vay
đối với các thành phần kinh tế. Kết quả của nghiệp vụ này là tạo ra nguồn vốn để
đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của NHTM gồm:
-

Vốn điều lệ: là số vốn ban đầu khi thành lập ngân hàng được ghi vào điều lệ

của ngân hàng. Vốn điều lệ it nhất phải bằng vốn pháp định do Chính phu íqui
định.
-

Các quỹ dự trữ: đây là quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và

phát triển của ngan hàng. Gồm có các quỹ sau:
+

Quỹ dự trữ

+

Quỹ dự phòng rủi ro

+

Quỹ khen thưởng phúc lợi

+

Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ


-

Vốn huy động: đây là nguồn vốn chủ yếu của NHTM, gồm có:

+

Tiền gửi không kỳ hạn của đơn vị, cá nhân

+

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn

+

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn


+

Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu

+

Các khoản tiền gửi khác

+

Vốn đi vay: vay từ thị trường tiền tệ, vay từ Ngân hàng Trung ương


-

Vốn tiếp nhận: vốn do Nhà nước cấp hay các tổ chức tài chính uỷ thác cho

ngân hàng cho vay theo mục đích chỉ định.
-

Vốn khác: đó là nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân

hàng( đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ...)
3.2

Nghiệp vụ tài sản có:

Nghiệp vụ tài sản có: là nghiệp vụ phản ảnh khả năng sử dụng nguồn vốn đó với
mục đích sinh lời của NHTM. Bao gồm: Nghiệp vụ ngân quỹ (Dự trữ), cho vay, đầu
tư, tài sản Có khác... Trong nghiệp vụ tài sản Có thì nghiệp vụ tín dụng và đầu tư là
nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất. Đây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận
chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của NHTM.
-

Tài sản ngân quỹ (dự trữ): Hoạt động của NHTM nhằm mục đích sinh lời.

Song, cần phải đảm bảo an toàn trong thanh toán để giữ vững được lòng tin của
khách hàng. Muốn vậy, các NHTM luôn dành một phần nguồn vốn, không sử dụng
nó để đáp ứng, đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả... Phần vốn để dành này gọi là
dự trữ, và tỷ lệ phần dự trữ này trên tổng số dư tiền gửi gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
do NHNN quy định trong từng thời kỳ. Có hai cấp dự trữ là: sơ cấp và thứ cấp.
-


Tài sản tín dụng: Là các khoản ngân hàng cấp tín dụng cho các đơn vị tổ

chức kinh tế dưới mọi hình thức. Đây được xem là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập
lớn nhất cho mọi NHTM. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt
động hàm chứa trong nó xác suất rủi ro rất cao. Do đó, bất kỳ một NHTM nào cũng
đều xây dựng một chính sách Tín dụng cho riêng mình nhằm đem lại sự an toàn và


sinh lợi tốt nhất cho hoạt động kinh doanh. Tài sản tín dụng thông thường được
phân bổ theo nguyên tắc phân tán (rủi ro) và nguyên tắc lựa chọn (khách hàng).
-

Tài sản đầu tư: Nghiệp vụ Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục

cho vay; nghiệp vụ này mang lại khoản thu nhập đáng kể cho NHTM. Nhờ hoạt
động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, đồng thời
ngân hàng có thể đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình... Trong nghiệp vụ
này NHTM sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới
các hình thức như: Góp vốn, mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty; Mua trái phiếu
Chính phủ, chính quyền địa phương; mua trái phiếu công ty...
-

Tài sản có khác: Là khoản mục còn lại của tài sản Có, trong đó chủ yếu là tài

sản lưu động và cơ sở vật chất để tiến hành các hoạt động ngân hàng, Bao gồm:
+

Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa làm trụ sở, văn phòng, hệ thống kho quỹ.

+


Mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc.

+

Mua sắm các phương tiện vận chuyển.

+

Các khoản phải thu, các khoản khác...

3.3

Nghiệp vụ trung gian: NHTM thực hiện các nghiệp vụ trung gian nhằm đem

lại sự tiện ích cho khách hàng để thu phí dịch vụ và hoa hồng dịch vụ. Có những
loại dịch vụ sau:
-

Các dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng.

-

Bảo quản các tài sản quý giá, giấy tờ, chứng thư quan trọng của công chúng.

-

Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của khách hàng.

-


Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quý ...

-

Tư vấn tài chính, giúp đỡ các Công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu ...

II. TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG


1.

Khái niệm tín dụng:
Tín dụng được hiểu là sự chuyển nhượng việc sử dụng một lượng giá trị dưới

dạng tiền tệ hoặc tài sản phi tiền tệ từ người cho vay sang người đi vay với những
điều kiện nhất định để sau một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận vốn sẽ
được hoàn trả với một lượng giá trị danh nghĩa lớn hơn ban đầu.(Theo quan điểm
Mác).
2.

Khái niệm Tín dụng Ngân hàng:

TDNH là một giao dịch về tài sản(tiền) giữa bên cho vay( ngân hàng ) và bên đi vay
(cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện với gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn
thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả và có những đặc trưng sau:

-

Tài sản giao dịch trong quan hệ TDNH là hình thức cho vay bằng tiền.

-

Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài

sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quan hệ tín dụng.
-

Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách

khác người đi vay phải trả them phần lãi ngoài vốn gốc.
-

Trong quan hệ tin dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn

trả vô điều kiên
3.

Các nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng

Khách hàng vay vốn cần đảm bảo các nguyên tắc sau:


-

Vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn


-

Vay phải có mục đích và đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa

thuận.
-

Vay phải có bảo đảm theo qui định

4.

Phân loại tín dụng:

4.1

Căn cứ vào thời hạn cho vay:

-

Tín dụng ngắn hạn: thời hạn cho vay đến 12 tháng, sử dụng để bù đắp thiếu

hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân...
-

Tín dụng trung hạn: thời hạn vay từ trên 12 tháng đến 5 năm, vốn vay thường

được dùng để đầu tư vào TSCĐ; cải tiến, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản
xuất, xây dựng các dự án mới quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh.
-


Tín dụng dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, đây là loại tín dụng

được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng cơ bản, các công trình
cơ sở hạ tầng, các thiết bị, phương tiện vận tải, mở rộng sản xuất với quy mô lớn...
4.2

Phân loại theo hình thức đảm bảo:

-

Tín dụng có đảm bảo bằng : là việc thiết lập cơ sở pháp lý để các NHTM có

được một nguồn thu hợp pháp thứ hai từ một tài sản cụ thể ngoài nguồn thu nợ
chính thức. Loại này thực hiện dưới các hình thức: cầm cố, thế chấp, đảm bảo bằng
tài sản hình thành từ vốn vay hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
-

Tín dụng không có đảm bảo : là hình thức cho vay mà cơ sở để hình thành

tín dụng chủ yếu dựa vào uy tín của của bản thân khách hàng... Từng ngân hàng có
cách xác định và lựa chọn, tuy nhiên các ngân hàng thường dựa vào: uy tín, năng
lực tài chính, tính khả thi và hiệu quả mục đích sử dụng vốn...
4.3

Phân loại theo mục đích sử dụng vốn:


-


Tín dụng tiêu dùng: cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của

các cá nhân, gia đình trong xã hội: cán bộ công chức, viên chức, công nhân, hưu trí..
-

Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá : cho vay đối với các doanh nghiệp

và cá thể khác để tiến hành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh...
4.4

Phân loại theo hình thái giá trị tín dụng;

-

Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được cung

cấp bằng tiền.
-

Tín dụng bằng tài sản: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được cung

cấp bằng một loại tài sản nhất dịnh nào đó.
4.5

Phân loại theo thành phần kinh tế:

-

Tín dụng thành phàn kinh tê úquốc doanh: là loại tín dụng được cấp cho các


thành phần kinh tế thuộc sở hửu nhà nước để bổ sung vốn lưu động và vốn cố định
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, cải tạo đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật của đất
nước nhằm phục vụ cho nhu cầu của xã hội.
-

Tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:là loại tín dụngđược cấp

phátcho các thành phần kinh te úkhông thuộc sở hửu nhà nước để bổ sung vốn lưu
động và cố định phục vụ cho nhu càu sản xuất kinh doanh của họ.
5.

Vai trò của tín dụng ngân hàng:

-

Tín dụng Ngân hàng là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ quốc

gia nào, nó có vai tro ìrất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, là đòn bẩy được
sử dụng một cách linh hoạt đối với mọi thành phần kinh tế .Điều này thể hiện rõ qua
vai trò của Tín dụng Ngân hàng.
-

Tín dụng ngân hàng giúp thúc đẩy sản xuất phát triển : Tín dụng Ngân hàng

là công cụ tích tụ tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, nó cung ứng kịp thời


và đầy đủ nhu cầu vốn của Doanh nghiệp để tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất
lao động, đổi mới thiết bị ...từ đó góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất liên tục và
phát triển

-

Tín dụng Ngân hàng góp phần đầu tư phát triển kinh tế: Tín dụng Ngân hàng

giúp cho các Doanh nghiệp đầu tư vao những ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích
thích cạnh tranh lành mạnh giữa các Doanh nghiệp, tạo điều kiện để các Doanh
nghiệp chuyển hướng phát triển kinh doanh cho phù hợp với tình hình .Qua đó các
Doanh nghiệp có được chính sách sản xuất kinh doanh mềm dẻo và linh hoạt hơn.
-

Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định đời sống, ổn định xã hội ,tạo thêm

công ăn việc làm cho người lao động.
III.

HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.

1.

Khái niệm về DNVVN
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Các doanh

nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp ngày càng phổ biến ở hầu hết các
nước. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy
mô doanh nghiệp giữa các nước. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta dựa vào hai
tiêu thức chủ yếu là quy mô về vốn và lao động để phân loại doanh nghiệp thành
doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc lượng hóa quy mô
vừa và nhỏ theo tiêu thức vốn và lao động chỉ mang tính tương đối, bởi hai tiêu thức
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển của mỗi nước, tính chất
từng ngành nghề, tính chất vùng, lãnh thổ, tính chất lịch sử...

Ở Việt Nam, sự ra đời và phát triển của lực lượng DNVVN trong những năm gần
đây được coi như là một sản phẩm mang đậm dấu ấn đường lối đổi mới của Đảng
và Nhà nước ta và cũng theo đó mà những phân định về DNVVN cũng có sự thay


đổi phù hợp. Ngày 20/06/1998, Chính phủ đã có văn bản số 681/CP-KTN về việc
định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN, theo đó, tiêu chí xác
định DNVVN là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao
động trung bình hàng năm dưới 200 người...
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì quy mô hoạt động của các
doanh nghiệp cũng có những bước phát triển vượt bậc. Để hoàn thiện các văn bản
pháp luật về DNVVN, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
23/11/2001 quy định về việc trợ giúp phát triển DNVVN đã có định nghĩa:
“DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người”. Với tiêu chí xác định như trên thì tỷ trọng
DNVVN hiện nay đã tăng lên đáng kể với số lượng trên 100.000 doanh nghiệp,
chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Đa phần các DNVVN hoạt
động trong các lĩnh vực Thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến, xây dựng và
vận tải...với mức đóng góp đáng kể trong cơ cấu GDP hằng năm.
2.

Ưu thế của DNVVN

2.1.

DNVVN năng động, nhạy bén và dể thích ứng với sự thay đổi của thị trường.

Đây là một ưu thế nổi trội của DNVVN. Với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý
gọn nhẹ, DNVVN dể dàng tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu có hạn trong những

thị trường chuyên môn hóa. Mặt khác, DNVVN thường có mối liện hệ trực tiếp với
thị trường và người tiêu thụ nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị
trường. Với cơ sở vật chất kỷ thuật không lớn, DNVVN đổi mới linh hoạt hơn, dể
dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả
nặng nề cho xã hội.


2.2.

DNVVN tạo lập dể dàng, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp.

Để thành lập một DNVVN chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt
bằng sản suất nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn. Với ưu thế nhỏ gọn, năng động,
dể quản lý, không cần nhiều vốn như vậy, các DNVVN vừa rất linh hoạt trong việc
học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác
động lên. Mặt khác, do một số Doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập mang tính
gia đình, bè bạn nên mối khi gặp khó khăn, công nhân và chủ DN dể dàng tự hạ
thấp tiền lương, có tinh thần nỗ lực vượt bậc để vượt qua khó khăn. Điều đó làm
cho DNVVN giảm được chi phí cố định, tận dụng lao động để thay thế vốn bằng
tiền
2.3.

DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh, hạn chế độc quyền.

Khác với các DN lớn, cần thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo hộ của Chính phủ,
sự độc quyền,... các DNVVN nhỏ với số lượng đông đảo, thường không có tình
trạng độc quyền. Các DNVVN dể dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So
với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN có tình tự chủ cao hơn. Các DNVVN không
ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và vì mưu lợi, DNVVN sẵn sàng khai thác các
cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều đó làm cho nền kinh tế thật sự

sống động và thúc đẩy việc sử dụng tối đa các tiềm năng của đất nước. Đây là một
ưu thế quan trọng đối với các DNVVN hiện nay.
2.4.

DNVVN có thể phát huy được tiềm lực của từng địa phương.

Thành công của DNVVN là nắm bắt được những điều kiện cụ thể của đất nước về
tài nguyên, lao động. Trong các DN lớn, việc sử dụng nguyên liệu sẵn có tại đia
phương thường gặp khó khăn do trữ lượng thấp, không đảm bảo cho sản xuất lớn.
Ngược lại, các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển dụng lao động tại địa phương


và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương, phát huy hết tiềm
lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
2.5.

DNVVN góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng lãnh thổ trên

một quốc gia.
Với sự tạo lập dể dàng, các DNVVN có thể phát triển rộng rãi ở mọi vùng lãnh thổ
và tạo ra những sản phẩm phong phú và đa dạng, đồng thời tạo ra sự phát triển cân
bằng giữa các vùng trong nước. Đặc biệt các DNVVN có thể hiện diện ở khắp mọi
miền đất nước, kể cả vùng nông thôn và miền núi, những nơi thưa dân, có cơ cấu
kinh tế chưa phát triển và nhờ đó, chúng cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho dân cư
địa phương và những vùng phụ cận.
Thông thường, DNVVN cung ứng sản phẩm tại chỗ với 95% sản phẩm tiêu thụ nội
địa mà chủ yếu là tiêu thụ trong vùng, khoảng 5% sản phẩm dành cho xuất khẩu.
Như vậy, các DNVVN vừa thực sự góp phần đắc lực cho sự tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
3.


Hạn chế của DNVVN

Bên cạnh những ưu thế kể trên, các DNVVN hiện nay cũng còn tồn tại những hạn
chế vốn có của nó. Những hạn chế chủ yếu của DNVVN bao gồm:
3.1.

Khả năng tài chính của DNVVN hạn chế.

Với ưu thế tạo lập dể dàng do chỉ cần một lượng vốn ít, các Doanh nghiệp vừa và
nhỏ gặp phải hạn chế là năng lực tài chính thấp, từ đó dẫn đến một loạt bất lợi cho
DNVVN trong sản xuất kinh doanh.
Trước hết, vốn chủ sở hữu ít nên khả năng vay vốn vủa DNVVN rất hạn chế. Các
DNVVN thường thiếu tài sản thế chấp cho khoản tiền dự định vay. Tiếp đến, do khả
năng tài chính hạn chế, quy mô kinh doanh không lớn, cũng rất khó khăn và ít có


khả năng huy động được vốn trên thị trường. Chính vì thế, các DNVVN luôn ở
trong tình trạng thiếu vốn. Điều đó khiến cho khả năng thu lợi nhuận của DNVVN
bị giới hạn ngay cả khi có cơ hội kinh doanh và có yêu cầu mở rộng sản xuất. Với
tình trạng đó, khả năng tự tích lũy của các DNVVN cũng bị hạn chế.
3.2.

DNVVN thiếu thông tin, trình độ quản lý, điều hành thường bị hạn chế.

Trong thời đại ngày nay, thông tin cũng là yếu tố một đầu vào vô cùng quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ do khả năng tài chính hạn chế mà DNVVN thường khó
khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công nghệ sản xuất cũng như
công nghệ quản lý tiên tiến... Do đó, trình độ quản lý của đội ngũ điều hành trong

các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng bị hạn chế.
3.3. DNVVN bị bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, trang bị máy móc thiết bị và
tiêu thụ sản phẩm.
Với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, DNVVN cũng
thường không được hưởng các khoản chiết khấu hay giảm giá do mua với số lượng
ít. Trong trường hợp cần phải nhập máy móc, thiết bị của nước ngoài, DNVVN
thường thiếu ngoại tệ và không mua được trực tiếp mà thường qua đại lý trong nước
nên giá cả bị đắt hơn. Bên cạnh đó, cũng do khả năng tài chính hạn hẹp nên
DNVVN khó có thể dành ra một khoản tiền đủ lớn để thực hiện chiến lược
marketing, và do đó khïo có khả năng vươn ra thị trường thế giới.
3.4.

DNVVN ít có khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động giỏi.

Với quy mô sản xuất kinh doanh không lớn, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, Doanh
nghiệp vừa và nhỏ khó có thể trả lương cao cho người lao động. Và cùng với sự
thiếu vững chắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, DNVVN vừa khó có khả


năng thu hút được những lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và
trong quản lý, điều hành.
3.5.

Hoạt động của DNVVN thiếu vững chắc.

Mặc dù có ưu thế linh hoạt nhưng do khả năng tài chính hạn chế nên khi có biến
động lớn trên thị trường, các DNVVN dể rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, trong
quá trình phát triển của mình, không ít các DNVVN còn nảy sinh một số tiêu cực
ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế xã hội như hiện tượng trốn thuế, hiện
tượng chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú ý đến hậu quả xã hội phải gánh

chịu, kể cả một các hành vi phạm pháp như làm dối, làm ẩu không đảm bảo chất
lượng, làm hàng giả, gây ô nhiễm môi trường...
4.

Vai trò và sự cần thiết tăng cường hoạt động cho vay đối với DNVVN ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, tuy mỗi nước khác nhau có những đặc điểm, mức độ phát triển khác
nhau; các DNVVN ở các nước cũng có những hạn chế nhất định,... song một điều
không thể phủ nhận là các DNVVN trong giai đoạn hiện nay luôn có một vai trò
quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập,
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, mở rộng ngành nghề, tăng kim ngạch xuất khẩu,
góp phần đáng kể vào tăng thu ngân sách hằng năm... Chính vì vậy, sự tồn tại và
phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế các nước nói chung hay Việt Nam nói
riêng là một tất yếu khách quan và thật sự cần thiết trong quá trình phát triển của
quốc gia.
Ở nước ta, các DNVVN trong quá trình hoạt động, phát triển đã và đang chiếm giữ
vị trí đặc biệt trong một số ngành. Theo thống kê, tỷ trọng DNVVN trong lĩnh vực
khoa học cộng nghệ chiếm 94,1 %; sửa chửa ô tô, xe máy: 93%; giáo dục đào tạo:


87,5%; công nghiệp chế biến: 86%; xây dựng: 85,7%... và nhiều ngành khác chiếm
tỷ trọng cao. Hàng năm, DNVVN đóng góp khoảng 30% GDP, 30% giá trị sản
lượng (GTSL) công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển
hàng hóa, 100% tổng GTSL hàng hóa ở một số ngành như: giày dép, hàng thủ công
mỹ nghệ... Về xã hội, với số lượng trên 100.000 DNVVN (trong tổng số 120.000
của cả nước); đặc biệt với trên 40.000 DNVVN ra đời sau khi có Luật Doanh
nghiệp thì trung bình mỗi DNVVN tạo việc làm cho khoảng 20 lao động, chiếm
49% lực lượng lao động cả nước. Từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp còn 5,8% năm 2002
so với tỷ lệ 7,4% năm 1999. (Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, ngày

1/3/2004)
Như vậy, vai trò trong công cuộc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội quốc gia của
các DNVVN là không thể phủ nhận. Song, hiện nay các doanh nghiệp này đang gặp
phải không ít trở ngại, khó khăn làm hạn chế sự phát triển của mình.
Đầu tiên và cũng là lớn nhất là khó khăn về vốn. Mặc dù số lượng DNVVN chiếm
tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song tổng số vốn cho sản xuất,
kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng số vốn của các doanh nghiệp. Số vốn
bình quân của một DNVVN không quá 1 tỷ đồng (Tạp chí Tài Chính Doanh nghiệp,
số 8/2003). Điều này một mặt phản ánh mức độ thu hút, tập trung vốn vào sản xuất,
kinh doanh của các DNVVN còn thấp; mặt khác phản ánh các DNVVN nhìn chung
đều gặp khó khăn, thiếu vốn để mở rộng quy mô hoạt động của mình.
Khó khăn về công nghệ, kỷ thuật. Bên cạnh thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản
xuất, các DNVVN còn ở trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, trang thiết bị... do
đó sản phẩm sản xuất ra thường là chất lượng thấp, rất khó cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập khu vực và thế giới.


Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động. Hiện nay các DNVVN
đa phần thiếu vắng những nhà quản lý có trình độ cao, hội đủ năng lực để chỉ đạo
sản xuất, kinh doanh theo chiến lược mong muốn, do vậy không đủ sức chèo lái để
doanh nghiệp hoạt động khi gặp khó khăn trong sản xuất như: biến động thị trường,
giá cả, tỷ giá, lãi suất, nợ, xuất nhập khẩu và các mối quan hệ khác.
Trình độ tay nghề của người lao động trong các DNVVN hiện rất thấp. Số lao động
có tay nghề giản đơn, chưa qua đào tạo bình quân chiếm khoảng 60-70%. Đây thực
sự là một khó khăn lớn đối với việc phát triển của các DNVVN. Ngoài ra, các
DNVVN hiện nay còn gặp phải một số khó khăn khác như: thiếu mặt bằng sản xuất,
kinh doanh ổn định, lâu dài; thiếu thông tin, các phương tiện xử lý thông tin,... Đó
là chưa kể đến một số khó khăn về cơ chế như: sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh,
sự phân biệt đối xử...
Thực trạng thiếu vốn kinh doanh trên buộc các DNVVN phải có được nguồn tài trợ

để vượt qua những khó khăn và phát triển. Tuy nhiên, đối với các DNVVN, đặc biệt
là các DNNQD, việc giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường phi tài
chính hay dựa vào họ hàng, bạn bè... ít tiếp cận được các nguốn tín dụng chính thức
thông qua các TCTD. Tuy nhiên, việc huy động từ bạn bè mặc dù lãi suất thấp, có
thể bằng không nhưng lượng huy động lại ít, không thường xuyên, liên tục; qua các
tổ chức phi tài chính thì lãi suất rất cao (có thể 3%-6%/tháng), phải có tài sản cầm
cố, thế chấp đảm bảo nhưng cũng chỉ được vay một tỷ lệ nhỏ trên giá trị tài sản đó.
Việc huy động từ kênh Ngân hàng và các TCTD là hình thức tối ưu hơn cả với
chính sách lãi suất thỏa thuận, hợp lý, ổn định cao, khối lượng vay lớn...
Như vậy, với tất cả những thực trạng, khó khăn trên đòi hỏi cần có nhiều hơn những
chính sách, cơ chế tài chính phù hợp của Nhà nước để hỗ trợ phát triển các Doanh


nghiệp vừa và nhỏ; đặc biệt là những chính sách thật sự thông thoáng về tài chính tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, các Tổ chức tín dụng nói riêng trong việc cấp tín
dụng cho các DNVVN... để một mặt các Tổ chức tín dụng có thể đa dạng hóa lĩnh
vực, dịch vụ kinh doanh, tăng doanh số cho vay, phân tán rủi ro trong kinh doanh,
nâng cao kết quả, hiệu quả kinh doanh... Mặt khác các DNVVN có cơ hội vượt lên
những hạn chế, khó khăn, có điều kiện phát huy tốt nhất những ưu thế vốn có, từ đó
khẳng định được vai trò to lớn của mình trong sự tăng trưởng phát triển chung của
nền kinh tế, góp phần vào sự thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
CHƯƠNG II:PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN ĐÀ NẴNG.
A.

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG.

I.


VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ĐT & PT ĐÀ NẴNG.
Chi nhánh NH ĐT&PT ĐN trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tỉnh

Quảng Nam Đà Nẵng cũ.
Hoạt động chủ yếu trong thời gian này là huy động vốn, cho vay trên địa bàn dân
cư, cho các tổ chức kinh tế theo kế hoạch tín dụng của NHNN Thành phố Đà Nẵng
giao cho việc hạch toán báp sổ.
Dần dần, cùng với sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước và do tình
hình thực tế là khu vực trọng điểm lớn của Nhà nước và thành phố đang xây dựng,
hình thành và phát triển.
Trước tình hình kinh tế chung của đất nước khi đó hoạt động tài chính tiền tệ gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt từ năm 1985 - 1988 do những ảnh hưởng xấu của việc bội


chi ngân sách, với số lượng tiền mặt lưu thông lớn, lạm phát tăng nhanh. Để thích
ứng với tình hình trên, ngày 06/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ ban
hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức NHNN Việt Nam và hệ thống NH Việt
Nam chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp.
NH ĐT&PT ĐN dưới sự điều tiết của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(NH ĐT&PT VN), mọi kế hoạch cân đối tín dụng của Ngân hàng đều được NH
ĐT&PT VN phê duyệt, thông báo cụ thể, NH ĐT&PT ĐN có nhiệm vụ điện báo
hàng ngày và định kỳ hoạt động kinh doanh về NH ĐT&PT VN.
Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động thường xuyên, chủ yếu là nhận tiền gửi
của khách hàng và có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng nguồn vốn đó để cho vay với
mục đích kinh doanh có lãi và giúp đỡ về vốn với các tổ chức kinh tế trên địa bàn
quận góp phần mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận nói
riêng vàThành phố Đà Nẵng nói chung. Với tổng số trên 100 cán bộ công nhân
viên, ngân hàng tổ chức các phòng ban như:phòng kế toán, phồng nguồn vốn,phòng
tín dụng, phồng thanh toán quốc tế, phòng giao dịch...các bộ phận này được chuyên
môn hoá theo nghiệp vụ ngân hàng nhưng nó luôn có quan hệ với nhau tạo điếu

kiện nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Nhìn chung với sự cố gắng của mình, Ngân hàng luôn khơi tăng nguồn vốn tín
dụng, phát triển cơ câu nguồn tiền gửi lãi suất thấp tạo điều kiện phát triển kinh tế
và kinh doanh ngân hàng. Tăng cường nguồn thu tiền mặt đáp ứng kịp thời và thoả
mãn nhu cầu cho tiền của doanh nghiệp, tư nhân cá thể. Tổ chức thanh toán không
dùng tiền mặt kịp thời, chính xác góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn cho nền
kinh tế. Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, tạo môi trường phát triển kinh tế và đời
sống xã hội.


II.

MỘT SỐ QUI ĐỊNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DNVVN.

1.

Khái niệm: Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp là loại cho vay có thời

hạn dưới 1 năm nhằm bổ sung nhu câù vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh .
Đối tượng cho vay: là những vật tư, hàng hoá, các chi phí cấu thành nên giá

2.

thành sản phẩm hoặc giá mua
Mức cho vay:

3.

Do hai bên thoả thuận căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, khả năng đáp ứng vốn

của ngân hàng.
4.

Cách thu nợ gốc và lãi: thường thu nợ 1 lần nếu thời hạn vay vốn là ngắn và

thu theo định kỳ tháng nếu thời hạn vay tương đối dài. Thu lãi theo định kỳ có lợi
hơn so với thu lãi một lần và thu lãi kiểu này tạo ra những dòng luân chuyển có tính
chất thường xuyên giúp cho công tác cố định vốn của ngân hàng dễ dàng hơn và
ngân hàng không thể theo dõi thường xuyên tất cả các khảon vay nên điều này giúp
ngân hàng sớm phát hiện được những khoản cho vay không bình thường
III.

QUI TRÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI

DNVVN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG.
B.

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH

NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ
NẴNG.
I

KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA NH ĐT&PT ĐÀ

NẴNG.
1.

Tình hình huy động vốn qua hai năm 2003, 2004.



Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu của bất cứ một tổ chức kinh tế nào muốn tồn tại
và phát triển. Nguồn vốn là nhân tố vững chắc góp phần quyết định quy mô hoạt
động kinh doanh từ đó quyết định đến hiệu quả kinh doanh của các tổ chức. Đối với
Ngân hàng, nguồn vốn của NHTM chính là nguồn hình thành nên tài sản Có để đầu
tư vào hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng.
Qua bảng số liệu cho thấy, năm 2004 tổng nguồn vốn của chi nhánh đạt 2.724 tỷ
đồng. Trong đó, nguồn vốn huy động tăng 319 tỷ đồng. Sở dĩ nguồn vốn huy động
tăng trưởng mạnh là do trong bối cảnh cạnh tranh Ngân hàng đã bám sát tình hình
thực tế trên địa bàn, linh hoạt trong chính sách lãi suất, được khách hàng tín nhiệm.
-

Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh cho thấy, nguồn huy động

từ các tổ chức kinh tế năm 2004 tăng 27,47% so với cùng kỳ năm 2003. Sự tăng lên
của nguồn vốn này phần lớn là từ nguồn tiền gửi không kỳ hạn còn nguồn tiên gửi
có kỳ là không đáng kể. Có được điều này là do những năm vừa qua NH ĐT&PT
Đà Nẵng đã thiết lập mối quan hệ đáng tin cậy với các doanh nghiệp trên địa bàn
nên ngày càng có nhièu doanh nghiệp tham gia giao dịch với Ngân hàng và luôn có
số dư lớn. Đây là một lợi thế trong hoạt động kinh doanh hiện nay của chi nhánh do
nguồn tiền gửi không kỳ hạn được xem là nguồn vốn có chi phí thấp nhất . Tuy
nhiên, tính chất nguồn vốn này mức độ ổn định không cao, thường tuỳ vào nhu cầu
sử dụng vốn của các tổ chức trong nền kinh tế và chi phí cho việc sử lý các giao
dịch tiền gửi không kỳ hạn ngay càng cao.
-

Tiền gửi tiết dân cư năm 2004 làü tăng 25,57% so với năm 2003 .Vì Ngân

hàng đã có những biện pháp thích đáng để khơi dậy nguồn vốn tai chỗ nhằm đảm
bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của NH.



-

Nguồn huy động ngắn hạn và dài hạn có tăng nhưng chủ yếu là nguồn dài

hạn còn nguồn ngắn hạn tăng không đấng kể :nguồn ngắn hạn năm 2004 đạt 1.1274
tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 16,55%.
Nguồn vốn huy động qua 2 năm có tăng không đáp ứng nhu cầu vay vốn
ngày càng tăng của khách hàng nên bên cạnh nguồn vốn huy động được NH
ĐT&PT Đà Nẵng phải vay vốn điều từ NHTƯ vào năm 2003 là 545 tỷ đồng, năm
2004 là 845 tỷ đồng.
Nhìn chung, năm 2004 đánh dấu một năm khá thành công của NH ĐT&PT
Đà Nẵng trong công tác huy động vốn, tuy nhiên so với quy mô hoạt động ngày
càng mở rộng, nguồn vốn huy động tại chỗù vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn
vay của các đơn vị, tổ chức trên đại bàn. Trong năm tới, Ban lãnh đạo chi nhánh sẽ
có những biện pháp tăng cường nguồn huy động, điều chỉnh cơ cấu huy động để
đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong những năm
tới.
2.

Tình hình cho vay chung tại NH ĐT&PT Đà Nẵng .
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của Thành phố, nhu cầu vốn của các tổ

chức, cá nhân ngày càng tăng. Hoà nhịp với sự tăng trưởng đó, NH ĐT&PT Đà
Nẵng đã chủ trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự án phương án sản
xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín dụng. Chính vì vậy năm
2004, doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ bình quân tại chi nhánh đã có bước tăng
trưởng lớn.
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của Thành phố, nhu cầu vốn của các tổ chức, cá

nhân ngày càng tăng. Hoà nhịp với sự tăng trưởng đó, NH ĐT&PT Đà Nẵng đã chủ
trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự án phương án sản xuất kinh


doanh có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín dụng. Chính vì vậy năm 2004,
doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ bình quân tại chi nhánh đã có bước tăng trưởng .
Nhờ vào những biện pháp tích cực trong chính sách lãi suất, mở rộng tín dụng nên
DSCV năm 2004 tại chi nhánh tăng 26,71% so với năm 2003. Cùng với sự gia
tăng DSCV , DSTN năm 2004 tăng 26,71% so với năm 2003 cho thấy công tác thu
hồi nợ của CN đang diễn ra thuận .
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ của các ngành nghề, các thành
phần kinh tế trên địa bàn cũng đều có bước tăng trưởng tốt, từ đó công tác tín dụng
tại chi nhánh cũng có bước phát triển đáng kể. Trong năm 2004, DNBQ đạt mức
2006 tỷ đồng, tăng 21,36% với năm 2003.
Nợ quá hạn năm 2004 tăng mạnh 34,89% so với năm 2003 nguyên nhân là
do hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp không hiệu quả, Ngân hàng chưa
nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên không phát hiện kịp
thời để có biện pháp giải quyết kịp thời NQH có tỉ lệ 1,54% là không tốt vì vậy cán
bộ tín dụng cùng ban lãnh đạo nhanh chóng thu hồi nợ, hạn chế NQH phát sinh
thêm.
3.

Kết quả kinh doanh.

Với sự nỗ lực, cố gắng không ngừng của toàn bộ đội ngũ Cán bộ Công nhân viên
trong những năm qua, NH ĐT&PT Đà Nẵng đã đạt được nhiều kết quả tốt trong
hoạt động kinh doanh.
Qua bảng trên cho thấy lợi nhuận kinh doanh năm 2004 đã tăng trưởng khá
mạnh, do hoạt động kinh doanh hiệu quả tổng thu nhập tăng11,50% làm lợi nhuận
giảm tăng 15,43% tương ứng 2.382 tỷ đồng, từ đó phần nào ảnh hưởng tốt đến hoạt

động của chi nhánh trong năm vừa qua. Mặc dù chỉ tiêu lợi nhuận vẫn chưa đánh


giá được thực chất tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhưng nó cũng
nói lên đựoc đến chất lượng dịch vụ của Ngân hàng.
Qua tìm hiểu khái quát về tình hình chung của NH ĐT&PT Đà Nẵng trong
năm 2003-2004, với những thuận lợi như vậy trong năm hy vọng trong năm tới chi
nhánh sẽ tiếp tục duy trì, đạt được những thành tích lớn và phát huy những thế
mạnh vốn có để NH ĐT&PT Đà Nẵng ngày càng là chỗ dựa vững chắc và đáng tin
cậy của các doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn.
II.

TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNVVN TẠI TP ĐÀ NẴNG.

Thành phố Đà Nẵng - một trong 4 đô thị lớn nhất cả nước, là trung tâm kinh tế,
chính trị, thương mại, văn hoá, xã hội và là cửa ngõ giao thương quốc tế của cả khu
vực Miền Trung-Tây Nguyên. Trong những năm qua, bộ mặt thành phố đã có nhiều
thay đổi với nhiều thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực.
Trong năm 2003 vừa qua, tốc độ tăng trưởng GDP toàn thành phố đạt đến 48.325 tỷ
đồng, tăng 12,62% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, GTSX ngành công nghiệp
đạt 5.858 tỷ đồng, tăng 21,67%; GTSX ngành Nông-Lâm Thuỷ sản tăng 5,86%;
tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt 5.881 tỷ đồng, tăng 8,59%; kim ngạch XNK
đạt 328,7 triệu USD, tăng 16,56%; vốn đầu tư phát triển tăng 14,65%; thu nhập bình
quân đầu người đạt 980 USD/người/năm... (Báo cáo tình hình KT-XH TP Đà Nẵng
Năm 2003, Cục Thống Kê TP Đà Nẵng). Hàng trăm dự án, công trình trọng điểm
phục vụ công cuộc phát triển chỉnh trang đô thị từ Hầm đường bộ qua Đèo Hải Vân
(quy mô nhất khu vực Đông Nam Á), các tuyến đường Nguyễn Tất Thành, Phạm
Văn Đồng, Bạch Đằng,... dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Dung Quốc, đến mở rộng
sân bay Quốc tế, nâng cấp Cảng Tiên Sa, công trình cầu Tuyên Sơn, Cầu Thuận
Phước... đã đang và sẽ tiếp tục hoàn thành.



Năm 2004 , Thành phố Đà Nẵng đã chứng kiến nhiều sự kiện chính trị quan trọng
trong quá trình đổi mới, phát triển của mình: Được Chính phủ chính thức công nhận
Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại 1 cấp quốc gia, tổ chức thành công cuộc họp Nội
Các giữa Chính phủ và các Bộ ngành hai nước Việt Nam-Thái Lan, là Thành phố
duy nhất nước ta được chọn tham gia chương trình liên kết 9 Thành phố Châu Á trở
thành thành phố kiểu mẫu do Trung tâm Thông tin Đô thị (AUICK) Nhật Bản khởi
xướng... Với tất cả những thành tựu to lớn trên không thể không kể đến vai trò đóng
góp của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nói chung cũng như vai trò của
các Doanh nghiệp Vừa và nhỏ nói riêng.
Kể từ khi chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, Thành
phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung Ương năm 1997 đã tạo
điều kiện cho các DNVVN hoạt động và phát triển. Hoạt động của các DNVVN
thành phố chủ yếu trong ngành Thương mại, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực bán
buôn, bán lẻ, đại lý, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm các mặt hàng đa dạng phong phú,
đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của người dân trong thành phố. Ngoài ra, một
số các DNVVN có thị trường tiêu thụ vươn tới các địa phương khác hay tham gia
xuất khẩu...
Có thể nói, với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000, nguồn
vốn đầu tư vào các DNVVN ngày càng tăng mạnh, các DNVVN ngày càng có điều
kiện khẳng định được vai trò to lớn của mình trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội ở địa phương.
III.

PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA

VÀ NHỎ TẠI NH ĐT&PT ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA
1.


Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với DNVVN nói chung .


Hiện nay, nhu cầu vay vốn của các DNVVN để phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh là rất lớn, tuy nhiên xuất phát từ thực trạng chung của ác DNVVN
hiện nay như: hầu hết các DNVVN mới thành lập, vốn kinh doanh thấp,... (Số liệu
gần đây của Sở Kế hoạch-Đầu tư cho biết: quy mô vốn bình quân của một DNVVV
là rất thấp: DNTN là 388,2 triệu đồng, Công ty TNHH là 1.261,9 triệu đồng, CTCP
là 3.233,3 triệu đồng.). Ngoài ra, việc sử dụng vốn kém hiệu quả, kinh nghiệm chưa
có, tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh không cao, hầu hết các DNVVN
không đủ tài sản đảm bảo khi vay vốn... dẫn đến không ít các DNVVN làm ăn thua
lỗ, phá sản hay giải thể... Tất cả các nguyên nhân trên có thể giải thích tại sao doanh
số cho vay ngắn hạn đối với loại hình DNVVN chiếm tỷ trọng thấp và tốc độ tăng
trưởng không cao. DSCV năm 2004 đạt mức 37.528 triệu đồng với tốc độ tăng
trưởng là 4,33%.
Về phía các ngân hàng, hầu như đa số các ngân hàng đều đặt mục tiêu an
toàn trong cho vay cao hơn là mục tiêu tăng trưởng hoạt động tín dụng. Do đó yêu
cầu thu hồi vốn nhanh, đúng tiến độ kéo theo yêu cầu chặc chẽ, khắc khe trong điều
kiện vay vốn, bảo đảm tiền vay... cũng làm cho hoạt động tín dụng đối với loại hình
doanh nghiệp này có phần hạn chế. Hơn nữa, cơ cấu cho vay truyền thống của hầu
hết các NHTM chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các Doanh
nghiệp Nhà nước. Ví như các NHTM quốc doanh, do bản thân là của Nhà nước, lại
ra đời từ rất sớm ngay khi đất nước còn chưa tiến hành đổi mới nên khách hàng
truyền thống của các ngân hàng này các DNNN là điều tất yếu. NH ĐT&PT Đà
Nẵng là một NHTM quốc doanh nên số dư nợ của DNNN chiếm hơn 70% tổng dư
nợ cho vay. Điều này chứng tỏ định hướng đầu tư cúa NH tập trung chủ yếu vào
DNNN Tuy nhiên, hướng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay thực



×