Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

tiểu luận cao học TU TUONG HO CHI MINH về giáo duc và một số vấn đề đặt ra với công tác giáo dục trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.03 KB, 40 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt suất đồng thời cũng là nhà
giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Những cống hiến lớn lao của Người
trong sự nghiệp giáo dục bao thế hệ con người Việt Nam đã là một bộ phận
quan trọng làm nên sự nghiệp văn hóa kiệt suất của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những là người thầy vĩ đại của cách mạng
Việt Nam với ý nghĩa là người vạch đường, chỉ lối, người tổ chức, lãnh đạo,
cổ vũ nhân dân ta làm nên thắng lợi, mà còn là người thầy – với ý nghĩa đã
trực tiếp giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng nên bao thế hệ cán bộ cho cách mạng
Việt Nam.
Từ thầy giáo Nguyền Tất Thành ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết),
đồng chí Vương ở các lớp huấn luyện chính trị Quảng Châu (Trung Quốc),
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh trên biên
giới Việt – Trung (Cao Bằng), đến các lớp học tập, nghiên cứu lý luận cho
cán bộ trung, cao cấp của Đảng, cho các nhân sĩ trí thức,…về sau này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn luôn hiện thân là một người thầy mẫu mực, cần mẫn,
vun xới, chăm sóc cho sự nghiệp “trồng người” của dân tộc. Kết quả là đã
hình thành nên bao thế hệ cách mạng trung thành, sáng suốt, họ đã cùng
Người đưa dân tộc ta từ một dân tộc nô lệ, bị kìm hãm trong lạc hậu, tối tăm
từng bước tiến lên làm chủ đất nước, từng bước nâng cao văn hóa, đạo đức,
lối sống,… của mình để sánh vai, mở mặt với năm châu. Trên ý nghĩa đó, Hồ
Chí Minh là một nhà giáo dục vĩ đại đã khai sáng cho cả một dân tộc.
Sau khi nước nhà giành lại nền độc lập, trên cương vị Chủ tịch nước,
Người đã không ngừng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục ở mọi cấp, từ giáo
dục mẫu giáo, phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp, đại học. Người thường
1


xuyên gửi thư, dành thời giờ đến thăm nhiều trường học, từ thủ đô đến miền
núi, hỏi han, động viên và căn dặn nhiều điều quý báu.


Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết
thực.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri
thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh
động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa
“chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ... Tất cả những
điều đó đã làm nên tư tưởng của Người. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo duc và một số vấn đề đặt ra với công tác giáo
dục trong giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận kết thúc học phần môn “Các
chuyên đề Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang là vấn đề được rất nhiều người quan
tâm và nghiên cứu, không chỉ trong nước mà còn ở ngoài nước ở những lĩnh
vực khác nhau, ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục được sự quan tâm đặc biệt. Nhiều cuộc hội thảo, nhiều đề
tài nghiên cứu về vấn đề này được tổ chức và được đánh giá rất cao. Điều đó
đã góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển giáo dục trong giai đoạn
hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
2


Nhằm tìm hiểu và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục để có nhận
thức đúng đắn về vấn đề đó. Và một số vấn đề đặt ra với công tác giáo dục ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Nghiên cứu, tìm hiểu những ưu và khuyết điểm của nền giáo dục Việt
Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra với công tác giáo dục trong giai đoạn
hiện nay. Từ đó đưa ra những kiến nghị, tìm ra những biện pháp góp phần
phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
* Phương pháp cụ thể
Tiểu luận đã phối hợp một số phương pháp nghiên cứu: Phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp logic,
phương pháp so sánh…
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo
tiểu luận gồm 2 chương.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC

3


1.1. Một số khái niệm
1.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX có nói về tư tưởng Hồ Chí Minh như

sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam
với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mac-Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta
tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, có rất nhiều khái
niệm khác nhau nhưng nhìn chung các khái niệm đó đều khẳng định: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống những quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam từ giáo dục thực
dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Hệ thống này rất đa dạng và phong

4


phú, bao gồm các lĩnh vực về chức năng, nhiệm vụ, vai trò, vị trí, nội dung và
phương pháp giáo dục.
Như vậy với khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đó có thể
khẳng định những quan điểm về giáo dục của Người đựợc hình thành dựa trên
cơ sở truyền thống giáo dục của cha ông hàng ngàn năm lịch sử và tình hoa

văn hoá dân tộc mà đỉnh cao là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giáo
dục thông qua thực tiễn nền giáo dục Việt Nam để đưa ra những quan điểm về
xây dựng một nền giáo dục của chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.1.3. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Để hình thành những quan điểm về giáo dục, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kế thừa nhiều quan điểm giáo dục trong truyền thống giáo dục dân tộc và
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành quả của sự chắt lọc
tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc
sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự
thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO
đánh giá: “Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền
thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người
là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản
sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc và sáng tạo từ các tiền đề: Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn
hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam; triết lý giáo dục phương Đông,
đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và những tư tưởng tiến bộ
thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về
5


chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bên cạnh nguồn gốc lý luận, thực tiễn nền giáo dục nước nhà dưới chế
độ thực dân nửa phong kiến với tấm lòng yêu nước, thương dân Người đã
hoạt động không biết mệt mỏi để chống lại những tàn dư của nền giáo dục
thực dân và xây dựng nền giáo dục chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận

thấy giáo dục có vai trò và sức mạnh cực kỳ to lớn. Khi Người rời Tổ quốc ra
đi tìm đường cứu nước, 95% dân số Việt Nam không biết chữ, chìm trong
kiếp sống nô lệ, lầm than. Những năm tháng bôn ba qua các đại dương tìm
đường cứu nước, cứu dân, Người đã tận mắt chứng kiến nhiều điều và học
được nhiều điều. Sống ở Paris, Thủ đô nước Pháp, nơi được coi là trung tâm
văn minh của nhân loại với nền khoa học - kỹ thuật phát triển hàng đầu thế
giới vào đầu thế kỷ XX, Người đã nhận thức về tầm quan trọng của trình độ
dân trí “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì thế, Người luôn coi việc đấu
tranh chống chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp để có một nền giáo dục
tự do là một trong những mục tiêu của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, ngay sau khi Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt vấn đề chống nạn dốt là vấn đề cấp bách số hai, sau vấn đề chống
giặc đói. Giặc dốt nát được coi như một thứ giặc cần tiêu diệt ngang hàng với
giặc ngoại xâm. Người xem việc nâng cao dân trí là “một công việc cần phải
thực hiện cấp tốc” để làm cho “mọi người Việt Nam, ai cũng đều có kiến thức
để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”.

6


Trong những ngày đầu giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ chăm lo đến việc hoàn thiện các thể chế và bộ máy của nền giáo
dục mà Người còn đưa ra phương pháp học mới: người chưa biết thì gắng sức
mà học, vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo... để đạt được
kết quả trên mặt trận chống giặc dốt. Người đặc biệt quan tâm tới việc học
của các tầng lớp nhân dân lao động. Tính nhân văn trong tư tưởng giáo dục

của Hồ Chí Minh đã đi vào lòng dân tạo ra một phong trào xóa mù chữ cuối
1945 đầu 1946.
Khi chúng ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, từ chỗ 95% dân số mù chữ đã có 90% dân số biết chữ. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, dù bận lãnh đạo nhân dân đánh giặc và sản xuất,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm, chú ý đến văn hóa và giáo dục, Người
đã kêu gọi mọi người hăng hái học tập “Thi đua diệt giặc dốt”. Trong khói lửa
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Dù khó
khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt”.
Vừa phải chỉ đạo cuộc kháng chiến gay go, ác liệt, đồng thời xây dựng
đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vững quan điểm của Người về vị trí giáo
dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đó là nhân tố quyết định việc thực
hiện mục tiêu xây dựng lại đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” sau
ngày chiến thắng...Chính quá trình hoạt động thực tiễn giáo dục đó của chủ
tịch Hồ Chí Minh đã góp phần hình thành các quan điểm về mục đích và nội
dung cuả nền giáo dục.

7


1.2. Về vai trò của giáo dục
Nói đến tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu giáo
dục thường nhấn mạnh đến sự đặc sắc trong quan điểm của Người về vấn đề
nhân cách, việc học tập để rèn luyện phát triển nhân cách đối với mỗi người.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thiện ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu,
phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Người muốn nhấn mạnh đến vai trò của
giáo dục trong việc hình thành phẩm chất nhân cách con người, “thiện”, “ác”
không phải là bản chất sẵn có của con người mà chủ yếu là do quá trình giáo
dục hình thành nên.
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc đổi

bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi: “Quốc dân Việt Nam! muốn giữ
vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam…
phải có kiến thức mới, để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà
và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Hồ Chí Minh còn quan tâm chỉ đạo cho giáo dục tích cực phục vụ hoạt
động kinh tế, làm cho hai lĩnh vực này liên hệ chặt chẽ với nhau. Người đánh
giá tác dụng tích cực của giáo dục trong quá trình phát triển kinh tế: “Không
có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế”.
1.3. Về mục đích giáo dục
* Tư tưởng giải phóng con người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa
dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ.
Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng “tột bậc” của Người. Trong mỗi
giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là chiến sĩ tiên
phong đi vào phong trào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập; giải phóng họ thoát

8


khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của
hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và mỗi người dân
đứng lên làm chủ nền văn hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, dân trí của thế hệ những người Việt Nam
yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người đã tố cáo đanh thép chế độ
thực dân Pháp trong việc “làm cho dân ngu để trị”, “gieo rắc một nền giáo
dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát”, “đòi quyền tự do học
tập” và “thực hành giáo dục toàn dân”. Đồng thời, Người đã dày công tìm
kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước những nét tiến bộ mới của nền giáo
dục kiểu mới của nhân dân lao động - nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ

nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả, bảo đảm cho sự phát triển
toàn diện những năng lực sẵn có của con người.
Trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và cần thiết”. Người chỉ rõ cho chúng ta thấy mối
quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách mạng; giữa giáo dục với sự nghiệp
giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước. Người khẳng định: “Muốn giữ vững
nền độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu, thì mỗi người Việt Nam phải
hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ”. Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải “đa dạng hoá
các loại hình đào tạo, mở trường vừa học, vừa làm để tạo điều kiện cho người
lao động, cán bộ, chiến sỹ được đi học”. Khi dân trí cao sẽ xuất hiện nhiều
nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người chỉ cho chúng ta con đường đưa
đất nước thoát khỏi cảnh yếu hèn - đó là con đường phát triển giáo dục.

9


Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và kêu gọi mọi người thi đua
học tập để đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ.
* Giáo dục phải cải tạo con người mới, xây dựng con người mới và
góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Người nói: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều
do giáo dục mà nên”.Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào
công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:
“Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào

công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ”.
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí
Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho
“ngu dân dễ trị”. Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã chỉ rõ bộ mặt
thực của cái gọi là “khai hoá văn minh” của thực dân Pháp: những người đến
trường được “đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực
dân người Pháp”, những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói
hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo Người, để khẳng
định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu
và các tệ nạn xã hội. Người viết: “Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô
dịch của thực dân còn sót lại như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời
sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối
nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ

10


nhân dân”.
Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng
dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh việc truyền bá những
kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc truyền thụ
tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.
* Giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện. “vừa hồng vừa
chuyên” trong thời đại mới.
Mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt
đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc. Bởi, đối với Người, “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh
mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội

xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội,
theo Người, “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo
con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri
thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục
nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” trong thời đại
mới. Và như vậy, “con người xã hội chủ nghĩa”, con người toàn diện, nhất
định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học
lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện “tài”, rèn “đức” cho cán bộ. Bởi, theo
Người, “có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi
nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt
không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như “cái gốc”

11


của cây, “cái nguồn” của sông, do đó, theo Người, “người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh quan niệm hoàn toàn khác với
đạo đức của chế độ thực dân phong kiến “đầu ngược xuống đất, chân chổng
lên trời”. Đạo đức mà Người hướng tới là đạo đức cách mạng, đạo đức của
giai cấp công nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực
hành nhân, nghĩa, trí, dũng... chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Còn tài là giỏi
về kiến thức chuyên môn và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến
thức đó vào hoạt động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài không có
nghĩa là kiến thức hoàn chỉnh, tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở,
“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn
cách mạng sinh động. Do đó, theo Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là

“học tập cái tinh thần xử trí mọi việc... học tập những chân lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế
của nước ta”.
Người có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi
theo Hồ Chí Minh, “có dân là có tất cả”. Người viết: “Dễ mười lần không dân
cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân, Người rất chú trọng việc giáo dục nâng cao trình độ văn
hoá cho dân để dân “làm ăn có ngăn nắp”, “bớt mê tín nhảm”, “bớt đau ốm”,
“nâng cao lòng yêu nước” và “để thành người công dân đứng đắn”. Người chỉ
rõ: “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của
nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu mạnh”.

12


Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là
vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu
của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo
dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập
trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc
nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây
dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào
tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng
chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần
những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí

nghiệp, trường học...
* Học để làm việc, làm ngưòi, làm cám bộ, học để phụng sự giai cấp
và nhân dân, tổ quốc và nhân loại.
Học tập là hoạt động đòi hỏi phải nhận thức rõ ràng tính mục đích. Hồ
Chí Minh ý thức rất rõ điều này nên luôn chú trọng giải thích tại sao phải học,
học để làm gì cho mỗi tầng lớp nhân dân thông suốt mà hăng hái đi học.
Với học sinh - những người chủ tương lai của nước nhà, Người khuyên
phải học để sau này làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà, học để yêu tổ
quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức và triệt để
chống lại những gì trái với quyền lợi của tổ quốc và lợi ích chung của nhân
dân, trái với khoa học, trái với đạo đức; học để phụng sự tổ quốc, phụng sự
nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh. Người lý giải thanh niên phải học để
biết phải trái, làm việc phải, tránh việc trái, nhận rõ bạn thù ở ngoài và ở trong
mình ta.

13


Với công dân Việt Nam, Người chỉ rõ quy luật nghiệt ngã “dốt thì dại,
dại thì hèn” và giải thích “vì không chịu dại, không chịu hèn nên thanh toán
mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng” để từ đó mà nhắc
nhở công dân nước Việt Nam độc lập ai cũng phải học để hiểu biết quyền lợi
và bổn phận công dân của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ.
Với công nhân, Người phân tích “máy móc ngày một thêm tinh
xảo...công nhân cũng phải có trình độ kỹ thuật rất cao không kém gì kỹ sư,
phải biết tính toán nhiều”. Với nông dân sau cải cách ruộng đất, Người chỉ rõ:
“Trước kia ruộng là của địa chủ, nông dân cứ cúi đầu làm lụng, gặt bao nhiêu
thì nộp cho địa chủ hết, nên không cần văn hoá mà cũng không thể mong có

văn hoá được. Bây giờ khác, nông dân có ruộng đất, lại có tổ đổi công cho
nên nông dân phải có văn hoá, phải ghi tổ có mấy người, phải biết chia công
chấm điểm”. Từ đó Người dẫn đến kết luận đầy sức thuyết phục là phải học.
Đối với cán bộ, Người chỉ rõ học là để làm việc, làm người, làm cán
bộ, để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, tổ quốc và nhân loại và học để
hành. Người cảnh báo trước cho cán bộ thấy là không học thì không theo kịp,
công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau.
* Giáo dục nhằm đào tạo những công dân và cán bộ tốt những
người chủ tương lai của nước nhà.
Hồ Chí Minh xác định thực dân Pháp đã dùng nạn dốt như một phương
pháp độc ác để cai trị Việt Nam khiến cho hơn 90% đồng bào bị mù chữ. Vì
vậy, ngay sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Công hoà non trẻ ra đời,
Người đã kêu gọi mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ, chống nạn thất
học. Để đạt được mục tiêu “đồng bào ai cũng có học” thì ai cũng phải đi học,

14


dù là đàn ông đàn bà, người già người trẻ, thanh niên, thiếu nhi, nhi đồng; dù
là người tá điền, người làm công cho gia đình, công nhân trong hầm mỏ, nhà
máy, là cán bộ, đảng viên, quân nhân, hội viên các đoàn thể, giáo viên, người
làm công tác huấn luyện. Người kêu gọi mỗi người biết chữ đều phải tham gia
dạy cho người mù chữ. “Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh
bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ
nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp ở tư gia dạy cho người không biết chữ
ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ tá điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở
lớp học cho những tá điền, những người làm của mình”.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặt vấn đề chống nạn dốt là vấn đề cấp bách số hai (sau vấn đề chống nạn đói)

trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước lúc bấy giờ. Bởi vì “nạn dốt là
một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng
ta và một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong kháng chiến chống Pháp, vì
bận đánh giặc và sản xuất, nhiều người chưa chú ý đúng mức đến văn hóa và
giáo dục, Bác đã sửa khẩu hiệu thi đua “thanh toán nạn mù chữ” thành “thi
đua diệt giặc dốt”. Bác kêu gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta
trở thành một dân tộc “Thông thái”.
Khi đã giành được chính quyền trong cả nước, Người quan tâm nhiều
đến công tác đào tạo cán bộ, đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong bài viết:
“Nhân tài và kiến quốc” (tháng 11/1945), Bác nhận định rằng, bây giờ đất
nước đang “kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến
thiết giáo dục”, những “kiến thiết” ấy đòi hỏi phải có nguồn nhân lực dồi dào
và có những nhân tài. Muốn vậy, phải nhận thức đúng tầm quan trọng của
giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân.“Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều
15


lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân
tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều” - Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài
đối với tiến trình xây dựng và phát triển đất nước.
Bác Hồ đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người dặn các
cháu “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam
có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, đó là nhờ một
phần lớn công học tập của các cháu.” Và: Một năm khởi đầu từ mùa xuân.
Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của nhân loại. Người nhắc
nhở toàn Đảng, toàn dân: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Mục đích cao cả trong suốt cuộc đời phấn đấu của Hồ Chí Minh đó là
mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Ngày nay nước ta đã được độc lập, dân ta đã được tự do, thanh niên đã
là người làm chủ đất nước, vì vậy mục đích của nền giáo dục là đào tạo ra
những con người biết làm chủ nước nhà, phải lấy nhiệm vụ học tập làm chủ
yếu.
Người đã chỉ rõ mục đích của việc học đó là: học để yêu Tổ quốc, học
để yêu nhân dân, học để yêu lao động, học để yêu đạo đức, học để phụng sự
Tổ quốc, học để phụng sự nhân dân.
Mục đích giáo dục lớn nhất trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là vì con
người, cho con người, là xây dựng con người mới, đào tạo ra những con
người biết làm chủ nước nhà.

16


1.4. Nhiệm vụ giáo dục
Khi mới giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ, bề
bộn biết bao công việc, Bác Hồ đã xác định 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có
2 nhiệm vụ về giáo dục. Đó là “Chống giặc dốt” và “Giáo dục lại nhân dân”
Bác nêu rõ: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân
chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc
lập”. Bác rất coi trọng giáo dục, vì vậy, cùng với chống “giặc ngoại xâm”,
chống “giặc đói”, phải chống “giặc dốt”.
Người đã đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp học, cấp Đại học, cấp
Trung học, cấp tiểu học. Ở cấp trung học, Người nói rằng cần phải đảm bảo
cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu
cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời
sống thực tiễn.

1.5. Phương châm giáo dục
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với xã hội;
Phối hợp nhà trường - xã hội - gia đình; Thực hiện dân chủ bình đẳng trong
giáo dục. Đó là những phương châm giáo dục mà Người đã đưa ra, từ những
phương châm này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển tư tưởng về giáo
dục của Người. Và điều quan trọng hơn nữa đó là muốn có hiệu quả trong quá
trình giáo dục cần phải kết hợp nhuần nhuyễn, liên tục và chặt chẽ các yếu tố
kể trên.
1.6. Nội dung của giáo dục
Phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, văn hoá, kỷ thuật và sản xuất.

17


Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền giáo dục, đào
tạo nhân tài chính là Người đặt ra mục tiêu giáo dục toàn diện. Người yêu
cầu: “Phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”. Theo Hồ Chủ tịch, nội dung
giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động mới,
phải coi trọng cả tài và đức. Không những phải giàu về tri thức mà còn phải
có đạo đức cách mạng. “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng
tốt” mà “phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết
thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra, trong thời gian không
xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật”.
Chủ tịch Hồ Chí minh yêu cầu, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục
nô dịch của thực dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ với xã hội, xa với đời sống
lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ.
Cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, giáo dục phải toàn
diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động mới, phải coi trọng cả

Tài lẫn Đức. Không những phải giàu về tri thức mà còn phải có đạo đức cách
mạng. Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Phải “trên nền tảng
giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt” mà phấn đấu nâng cao chất lượng
văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng
nước ta đề ra, trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra những con
người xây dựng chủ nghĩa xã hội “vừa hồng vừa chuyên”. Đây là một tư
tưởng then chốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục. Người nhấn mạnh,
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mỗi cô giáo, thầy giáo
phải là những chiến sỹ trên mặt trận đó. Nhiệm vụ của nền giáo dục cách
18


mạng là : “phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị
của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”.
Giáo dục phải tạo ra được những người lao động mới. Đó là những người có
lòng yêu nước nồng nàn, “trung với nước, hiếu với dân”, có đạo đức trong
sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần
gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị,
có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước,
“những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các cô giáo, thầy
giáo đối với xã hội. “Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất,
là những người anh hùng vô danh”. Muốn được như vậy, các cô giáo, thầy
giáo, trước hết, phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện
chuyên môn, phải là tấm gương trong sáng để học sinh noi theo, phải gương
mẫu từ lời nói đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em
ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề, yêu trường, phải không ngừng học

hỏi để tiến bộ mãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các
thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở
thành những người có ích cho Tổ quốc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường tháng 9 năm 1945, Người viết : “non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các cháu”. Lời dạy của Người đã đi sâu vào lòng dân, tạo
thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho hàng triệu thầy giáo và học sinh thi đua
dạy tốt - học tốt. Bức thư Người viết đã trở thành chân lý của thời đại, hoàn
toàn phù hợp với quy luật phát triển của các nước đi từ lạc hậu lên tiên tiến và
hiện đại, từ nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

19


Giáo dục toàn diện “ đức, trí, thể, mỹ”.
Giáo dục toàn diện cho học sinh là mục tiêu bồi dưỡng những con
người phát triển một cách toàn diện đức, trí, thể, mỹ vì các em là chủ nhân
tương lai của nước nhà, là kỳ vọng của xã hội. Chính những lẽ đó là nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tàicho đất nước.
Muốn xây dựng và hoàn thiện con người theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
chính là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ. Đây là phương pháp tốt nhất để
“đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam và
làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Người nhấn
mạnh : “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa” và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”. Vì thế, nền giáo dục mới phải thực hiện phương
pháp dạy và học mới để đạt được mục tiêu : “Học để làm việc, làm người, làm
cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân
loại”. “Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng”, “học để tin tưởng” và “Học để

hành”. Tư tưởng này không chỉ phản ánh truyền thống quý báu của dân tộc ta
mà còn phản ánh yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của đất nước trong tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “phải chú trọng đủ
các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao
động và sản xuất”. Đây là những nhiệm vụ giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó
chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam mới.
Nhà trường phải bảo đảm cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ kho tàng kiến thức
văn hóa của nhân loại, trang bị đầy đủ vốn hiểu biết về văn hóa, tri thức khoa
học, công nghệ. Thế hệ trẻ cần phải được giáo dục về lý tưởng và đạo đức xã
hội chủ nghĩa – hạt nhân của nhân cách người lao động mới. Người căn dặn:

20


Phải có phương pháp giáo dục tốt để giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn
viên và thanh niên. Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố,
cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Mỗi một người dân yếu ơt
là cả nước yếu ớt. Mỗi một người dân khoẻ mạnh là cả nước khoẻ mạnh”.
Chính vì vậy việc giáo dục thể chất trong nhà trường chiếm vị trí quan trọng
trong việc giáo dục. Thông qua việc giáo dục thể chất các em được quan tâm
đếm sự phát triển cơ thể , được cung cấp những kiến thức và thói quen giữ gìn
vệ sinh cá nhân, rèn luyện thể dục, thể thao, tổ chức cuộc sống hợp lý để nâng
cao sức khoẻ tránh bệnh tật.
Ngoài ra giáo dục thể chất phải tạo điều kiện cho các hoạt động tập thể
và văn nghệ trong và ngoài nhà trường. Các thầy các cô phải dậy cho hoc sinh
biết cách giữ gìn, trân trọng khả năng sáng tạo ra cái đẹp và cái đẹp phải gắn
liền với chân – thiện – mỹ.

Thông qua các hoạt động tập thể và các phong trào văn nghệ, các em
được hoà nhập, đựơc cởi mở những cảm xúc, các em đựoc nêu cảm xúc, ý
kiến, được thể hiện năng khiếu của mình. Qua đó đã giúp các em trở nên
mạnh dạn, tự tin, hoà đồng hơn trong các hoạt động tập thể. Qua các phong
trào đó các em đựoc khảng định khả năng của minh.
Giáo dục lòng nhân ái.
Nói đến tư tưỏng giáo dục Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu giáo dục
thưòng nhấn mạng đến sự đặc sắc trong quan điểm của Người về vấn đề nhân
cách, việc học tập, học hành để rèn luyện, phát triển nhân cách đối với thanh
niên, học sinh.
Trong tác phẩm “ nhật ký trong tù” Hồ Chí Minh viết bài thơ “ nửa
21


đêm”, Người đã đưa ra phạm trù thiện, ác để kiến giải vấn đề nhân cách.
Ngưòi viết: “Hiền giữ phải đâu là tính, Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Điều mà Người hay nhắc nhở là học cái cơ bản, học điều thiết thực gắn
với trình độ, với hoàn cảnh, với nhu cầu của cá nhân và cộng đồng, học gắn
với hành, với xây dựng nếp sống văn hoá. Với đồng bào mù chữ thì Hồ Chí
Minh thiết tha kêu gọi đi học cho biết chữ, biết đọc, biết viết, với đồng bào đã
thoát nạn mù chữ thì Người động viên đây là thắng lợi vẻ vang nhưng khuyên
tiếp tục học thêm vì thanh toán nạn mù chữ mới chỉ là "bước đầu nâng cao
trình độ văn hoá. Nhà nước phải có một chương trình để nâng cao thêm trình
độ văn hoá phổ thông cho đồng bào, tiến lên bước nữa bằng cách dạy cho
đồng bào thường thức vệ sinh để dân bớt ốm đau, thường thức khoa học để
dân bớt mê tín nhảm, bốn phép tính để làm ăn ngăn nắp, lịch sử và địa dư
(vắn tắt bằng thơ hoặc ca) để nâng cao lòng yêu nước, đạo đức công dân để
thành người công dân đứng đắn .
Năm 1955, Người xác định nội dung học của học sinh tiểu học là học
yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công; học

sinh trung học thì học những tri thức phổ thông “chắc chắn, thiết thực, thích
hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà”, bỏ những phần nào không
cần thiết cho đời sống thực tế; với sinh viên thì “kết hợp lý luận với thực
hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn kết hợp
với thực tiễn nước nhà...”.
Với học sinh - những người chủ tương lai của nước nhà, Người khuyên
phải học để sau này làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà, học để yêu tổ
quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức và triệt để
chống lại những gì trái với quyền lợi của tổ quốc và lợi ích chung của nhân
dân, trái với khoa học, trái với đạo đức; học để phụng sự tổ quốc, phụng sự

22


nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh. Người lý giải thanh niên phải học để
biết phải trái, làm việc phải, tránh việc trái, nhận rõ bạn thù ở ngoài và ở trong
mình. Đối với cán bộ, Người chỉ rõ học là “để làm việc, làm người, làm cán
bộ, để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, tổ quốc và nhân loại” và học để
hành. Người cảnh báo trước cho cán bộ thấy là “không học thì không theo
kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”.
1.7 Về phương pháp giáo dục
Bác đã chỉ thị cho Bộ Giáo dục ra tuyên bố nêu rõ mục đích, phương
pháp và tổ chức nền giáo dục mới. “...Phương pháp của nền giáo dục mới là
xóa bỏ lối học nhồi sọ, hình thức, chú trọng phần thực học... nhằm giúp học
sinh có lối nhận thức khoa học, phát triển óc phê bình, óc phân tích và tổng
hợp, tinh thần sáng tạo và óc thực tế”. Người đặc biệt coi trọng khâu tự học.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947) Người đã dạy: “Lấy tự học làm
cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Sau này, khi nói về công tác huấn
luyện (1950) Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với

điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào “trình độ
văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng
ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng”. Cần có phương pháp tổ
chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh
giáo dục với đối tượng giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm
ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có
ghế là không ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy
trì được lâu dài, mới có kết quả tốt”.
Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ
thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực,

23


những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp
giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nó
được coi như “kim chỉ nam” để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng
tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính
chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: “Học phải suy nghĩ, học
phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải
kết hợp với nhau”.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục,
không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: “Giáo dục
dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài
xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương
pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn,
phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và

xã hội... đều nhằm mục đích “nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư
tưởng”, nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương
pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa hiện đại, vừa hệ thống, khoa
học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả
cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới,
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội
phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt
giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính... Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh
về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào

24


tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó
không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người,
chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta
qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực
tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công
tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.
Như vậy, với hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục nói
trên Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng để phát triển và xây dựng nền giáo dục
Việt Nam toàn diện.

25


×