Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích quan điểm của Đảng ta về CNHHĐH thời kì đổi mới: CNH gắn với HĐH và CNH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.87 KB, 13 trang )

I.
Cơ sở khoa học
1. Cơ sở lý luận
a. Quan điểm của Mác.

Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, đã diễn ra
từ lâu trong lịch sử xã hội cùng với cuộc cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Máy móc thúc đẩy phân công lao động xã hội, giảm lao động cơ bắp và
làm cho việc nâng cao trình độ học vấn trở thành bắt buộc đối với người lao động. Mác
dự đoán: theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thật sự trở nên ít phụ
thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà chúng phụ thuộc vào
trình độ chung của khoa học và của tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng
khoa học ấy vào sản xuất.
Công nghiệp hoá đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp và Mác
đã dự đoán công nghiệp hoá sẽ làm chuyển dịch lao động trong nông nghiệp sang các
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Theo Các Mác: “Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác động
của công nghiệp hoá có tính chất cách mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo nghĩa là
công nghiệp lớn làm cho không còn nông dân nữa, tức là còn cái thành trì của xã hội cũ
nữa, và thay thế nông dân bằng người làm thuê. Do đó mà ở nông thôn, những nhu cầu
cải biến xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp, được nâng lên ngang với trình độ ở thành thị”
và “chỉ có nền công nghiệp lớn sử dụng máy móc, mới tạo cho nền kinh doanh nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa” .
b. Quan điểm của Lê-nin.
V.I.Lênin cũng phân tích sự tác động của công nghiệp tới lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp sẽ làm cho công cụ lao động ngày càng tiến bộ hơn, dẫn đến năng suất lao
động trong nông nghiệp tăng khi đó đòi hỏi phải phát triển công nghiệp chế biến, công
nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp và kéo theo nó là những ngành công
nghiệp khác cũng phát triển. Theo Lênin: Ngoài máy móc ra, sự cần thiết phải cày bừa
ruộng đất tốt hơn nữa sẽ đưa đến chỗ thay thế những công cụ thô sơ trước đây, bằng
những công cụ cải tiến hơn, và thay thế gỗ bằng sắt, bằng thép. Sự thay đổi đó tất nhiên
sẽ đưa đến chỗ phải xây dựng tại chỗ những nhà máy chế tạo ra những công cụ đó, vì


công nghiệp thủ công không thể làm ra được những công cụ tốt như thế’ và “nhờ có sự
phát triển của công nghiệp chế biến bằng máy móc và công nghiệp khác cho nên yêu cầu
về khoáng sản cũng ngày một tăng thêm”.
V.I.Lênin đã từng nói: Chủ nghĩa xã hội = Chính quyền Xô Viết + trật tự đường sắt
Phổ + Kỹ thuật và cách tổ chức các tờrớt Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ..., qua đó
chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở
những thành tựu cao nhất của KH&CN hiện đại. Đối với nước có kinh tế lạc hậu, lại bị
chiến tranh tàn phá như nước Nga lúc đó thì công nghiệp hoá là bước đi quan trọng để
xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong đó điện khí hoá là bước quan trọng
nhất.


V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: “Công nghiệp là chìa khoá để cải tạo nền nông
nghiệp lạc hậu và phân tán trên cơ sở tập thể hoá… Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho
nông nghiệp đến mức tối đa những công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc tiến và
đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ sở kỹ thuật mới”. Nếu làm được việc đó thì thắng
lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội mới được đảm bảo.”
Không chỉ tác động trực tiếp đến nông nghiệp, công nghiệp phát triển còn thúc đẩy
các quá trình kinh tế khác, gián tiếp mở mang phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp
hội nhập kinhtế thế giới. Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện mở rộng thị trường trong
nước, làm lưu thông hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia, tham gia vào phân công
lao động thế giới và thị trường thế giới.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, con đường duy nhất đúng, đồng thời là điểm khởi đầu
cần thiết để biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh là phải công nghiệp hoá đất nước và đẩy mạnh công nghiệp hoá. Đó là
định hướng chiến lược phát triển cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Đặc điểm to nhất của ta trong thời kì quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ

nghĩa.” Từ đó, “ nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có
công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế
mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Thực tiễn công nghiệp hóa thời kì đổi mới ở Việt Nam

Quá trình công nghiệp hóa trước đổi mới đã đạt được những kết quả quan trọng
tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và nguyên nhân. Đại hội 6 của Đảng phê phán sai lầm
trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hoá thời kỳ 1960-1986 đó là những sai lầm
trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã
hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v… Do tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn bỏ qua các
bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa có đủ các
điều kiện tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mơi cơ chế quản lý kinh tế.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội 6 đã cụ thể hóa nội dung chính
của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện cho bằng
được 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Ở những kỳ đại hội sau đó Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng
toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, trong đó có quan
điểm: “CNH theo hướng hiện đại, CNH gắn với HĐH và CNH gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”.
b. Thực tiễn công nghiệp hóa thế giới


Lịch sử phát triển công nghiệp hoá thế giới cho đến nay đã trải qua hơn 200 năm,
kể từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỉ thứ 18 ở nước Anh. Cuộc cách mạng công
nghiệp này sau đó nhanh chóng lan rộng sang các nước Tây Âu và các nước khác như
một trào lưu phát triển mới của thế giới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá , các

nước này chỉ chủ yếu tập trung vào công nghiệp nên sự chuyển biến của các hoạt động
kinh tế xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không phải là
đối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá.
Trong khi đó, Liên Xô lại cho rằng công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại
công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển của các ngành
công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong
tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn. Chủ trương trên xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô
khi triển khai công nghiệp hoá. Liên Xô đã có một số tiền đề ban đầu là công nghiệp đã
phát triển đến trình độ nhất định dưới chủ nghĩa tư bản trước đây. Bên cạnh đó, trong thời
kì tiến hành công nghiệp hoá (1926 – 1940), Liên Xô bị chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn
diện nên sự giúp đỡ bên ngoài hầu như không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát
triển Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải tập trung cao độ
phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông
nghiệp nhằm bảo đảm các nhu cầu trong nước đồng thời góp phần tang nhanh tiềm lực
quốc phòng.
Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá ở các nước công nghiệp mới nổi lại có những
nét khác biệt, ví dụ như Hàn Quốc. Do nghèo nàn về nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong
khi thị trường nội địa nhỏ nên Chính Phủ Hàn Quốc đã xúc tiến một chính sách công
nghiệp hoá hướng tới xuất khẩu như một biên pháp tiên quyết để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế khi tiến hành công cuộc cải cách phát triển kinh tế đất nước. Khi thực hiện thành
công chiến lược đó, chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển trọng tâm sang phát
triển các ngành công nghiệp hoá chất và công nghiệp nặng. Một trong những thành tựu
quan trọng nhất, thành công nhất của kinh tế Hàn Quốc thuộc về ngành đóng tàu. Năm
1970, từ vị trí số 0 nhưng đến năm 2004 Hàn Quốc đã vươn lên soán ngôi đầu bảng của
Nhật Bản để chính thức bước lên vũ đài, trở thành nước đứng dầu thế giới về công nghiệp
đóng tàu. Những thương hiệu tên tuổi của hang loạt công ty, tập đoàn kinh tế đa quốc gia
của Hàn Quốc như: Huyndai, Deawoo, Kia, Samsung. LG,.. đã có mặt và chiếm lĩnh ngôi
vị ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Tóm lại, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi quốc gia lại lựa
chon cho mình một con đường công nghiêp hoá phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển kinh

tế, nâng cao vị thế quốc gia.
II.
Phân tích quan điểm
1. CNH gắn với HĐH

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động dựa
trên sự phát triển của công nghiệp cơ khí


Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội.
Tại hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII (1-1994), khi nhận thức rõ
rằng, tuy nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến , những bước tăng trưởng khá, cơ
cấu kinh tế có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá. Nhưng chất
lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, tốc độ đổi mới chậm, sự tăng
trưởng dựa chủ gếu vào vốn, tài nguyên, ít dựa vào tiến bộ khoa học-công nghệ, tiềm
năng trí tuệ chưa đc phát huy.... Đảng ta đã khẳng định rằng, công nghiệp hoá phải gắn
liền với hiện đại hoá, chủ trương "thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nói tóm lại hiện đại hóa là cái đích cuối cùng mà công nghiệp hóa phải hướng tới. Do
sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng hội nhập toàn cầu hóa nên có
thề tận dụng, nhập khẩu công nghệ mới. nếu không hiện đại hóa mà chỉ công nghiệp hóa
thì dung những máy móc cũ sẽ tốn hao nhiên liệu nhiều, sản phẩm kém chất lượng, giá
thành không cao không cạnh tranh với cơ chế thị trường, cụ thể như nhà máy sản xuất xi
măng nhập loại cũ về dung không được mà lại tốn tiền, nên công nghiệp hóa phải gắn
vói hiện đại hóa tức là dùng những máy móc tối tân hiện đại để bắt kịp với đà tiến triển
trong khu vực thế giới. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nếu máy móc
chúng ta lạc hậu, chi phí đầu vào cao, đầu ra cao thì không ai mua

Hơn thế việc tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa còn giúp Việt Nam đạt
được mục tiêu đã đề ra là năm 2020 đưa đất nước trở thành nước công nghiệp, thoát khỏi
tình trạng kém phát triển.
Ngoài ra công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa không phải là đặc điểm riêng của Việt
Nam mà là điểm chung với các nước đang phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó , xu thế
hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách
thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công
nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp
công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2. CNH gắn với phát triển kinh tế tri thức
Theo tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa: Kinh tế tri
thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữa vai trò quyết
định nhất với sự phát triển kinh tế, tọ ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Những ngành có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri
thức, dựa vào thành tựu khoa khọc, công nghệ. Đó là những ngành công nghệ cao:
CNTT, Công nghệ sinh học, cũng có thể là ngành công nghiệp truyền thống: nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dựng khoa học, công nghệ cao.
Vậy tại sao nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức?




Thứ nhất, nước ta cần sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu, rút ngắn khoảng cách với
các nước trên thế giới. Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là
nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước
và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này.

Thứ hai, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
là giải pháp bắt buộc để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hiện

thực.
• Thứ ba, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn.
• Thứ tư, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.


Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận
điểm quan trọng về phát triển KTTT: ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành
và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng
trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại
hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong
các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát triển KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội
X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành đường lối
CNH-HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN
gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH.
Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của
nhân loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của
đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng
ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế
công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT. Trong khi ở
các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước

đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các
bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-HĐH với phát triển KTTT.
3. CNH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.
Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước vào
nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc ấy,
chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường.


Quá trình CNH-HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường:
+ Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ
sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 KCN cần được kiểm soát về khả
năng gây ô nhiễm. Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng không chỉ ở
các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy
giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn
lường; thành quả phát triển của nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên
tai có thể bị xóa sạch.
+ Chỉ tiêu tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm (2010-2020) với mức tăng trưởng
công nghiệp hằng năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN và
vùng đô thị; việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng
không thể bỏ qua với môi trường.
+ Đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát
triển các làng nghề. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần
lớn các làng nghề gây ô nhiễm môi trường.
+ CHH - HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010
đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường
trong quản lý đô thị. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600 tấn
chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng...
 Vì vậy, trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về

bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã

khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật
bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm
cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu
tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế
xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch,
tiêu dùng sạch”.
III.

Nhận thức bản thân.

Đại hội IX ( Tháng4/2001) của Đảng đã thể hiện rõ quyết tâm Đảng: “phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
và bảo vệ nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Có thể nhận thấy rõ, chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của nước ta là theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phát huy nội lực,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đến nắm 2010. Và về cơ bản đến năm 2020, đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại.
Nước ta vừa giành độc lập được được 40 năm nay, sau ngày chiến thắng đó, Đảng nhà
nước nhân dân ta đã đoàn kết với nhau để thực hiện các chính sách nhằm phát triển đất


nước. Thật là thiếu xót nếu chúng ta không kể đến chính sách công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước. Trong 25 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu sau:
- Cơ sở vật chất- kỹ thuật của đát nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc
lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đã đạt
được những kết quả nhất định.
- Những thành tựu về công nghiệp hoá-hiện đại hoá đã góp phấn quan trọng đưa
nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.

Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế như:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn còn thấp và thấp hơn nhiều nước trong khu vực
- Nguồn lực của đất nước còn sử dụng chưa hiệu quả và còn lãng phí
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH còn chậm
- Các cùng kinh tế chưa phát huy hết được thế mạnh.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý
- Cơ sở vật chất-hạ tầng vẫn còn lạc hậu.
Những hạn chế trên còn tồn tại là do những nguyên nhân sau:
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn nhiều hạn chế
- Các chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh
- Sự yếu kém của thể chế thị trường
Nói chung, chính sách quan điểm này của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Nó giúp nước
ta có những định hướng rõ ràng trong tương lai về phát triển Kinh tế. Đất nước ta đã trải
qua 2 cuộc chiến tranh lớn ở thế kỉ XX, làm cho nền kinh tế kiệt quệ, nguồn lực bị hao
hụt đáng kể. Chính chính sách quan điểm này của Đảng về cơ bản đã giúp nước ta thoát
khỏi tình trạng 1 đất nước nghèo nàn, lạc hậu.
1. Nhận thức bản thân về quan điểm CNH gắn với HĐH.

Quá trình CNH gắn với HĐH đã giúp nước ta đạt được những thành tựu quan
trọng: đã chuyển toàn bộ những hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp
sang nền kinh tế có tư duy công nghiệp; quy mô nền kinh tế tăng nhanh; thu nhập đầu
người vượt khỏi ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình; kinh tế Việt Nam từng bước hội
nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những thành tựu của CNH gắn với HĐH
đưa đất nước ngày càng phát triển và góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng. Đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn
những sai sót, những sự lệch nhịp giữa nhận thức lý luận và thực tiễn. Vì vậy, nước ta cần
có những giải pháp kịp thời để xử lý triệt để và hiệu quả những sai lầm đó. Có như vậy,



nước ta mới phát triển một cách bền vững, từng bước sánh vai với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Một số biện pháp được đề xuất là:














2.

CNH, HĐH phải được coi là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn
dân trong thời gian tới. Kiên định các mục tiêu, đường lối về CNH, HĐH đã được Đảng
ta xác định
CNH, HĐH phải gắn liền với kinh tế tri thức, phát triển bền vững. Đây là con đường duy
nhất đúng để "rút ngắn" quá trình CNH, HĐH, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với
các nước trên thế giới.
Thực hiện CNH, HĐH bằng thể chế của nền kinh tế thị trường, tuân theo các quy luật
khách quan của cơ chế thị trường.
Phát huy tối đa các nguồn lực trong nước (nội lực, đóng vai trò quyết định), đồng thời thu
hút có hiệu quả các nguồn lực nước ngoài (ngoại lực, đóng vai trò quan trọng) cho CNH,
HĐH. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong chủ động hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng.

Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Khoa học và công nghệ là nền tảng cho CNH, HĐH phát triển; CNH, HĐH tạo ra kinh tế
tri thức và ngược lại kinh tế tri thức có vai trò thúc đẩy CNH, HĐH phát triển nhanh, bền
vững.
Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa
chọn dự án đầu tư và công nghệ.
CNH, HĐH gắn với bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí
hậu và phòng, chống thiên tai.
CNH, HĐH phải bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Nhận thức bản thân về quan điểm CNH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học
hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời
gian thực hiện quá trình này.
Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau,
chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống còn 70 năm; và các nước công nghiệp mới
(NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài người
đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động
hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới... đúng
như tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri thức sẽ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các
nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc
chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp
thiết không thể trì hoãn.


Năm 2000, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đưa ra

định nghĩa: ''KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là
động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các
ngành kinh tế''. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ
cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức với công
cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Phát triển KTTT nước ta là
thực thi chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá
trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài nguyên và lao động. Nước ta xác định, KTTT là công
cụ hàng đầu để rút ngắn thời gian thực hiện quá trình CNH-HĐH.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là lựa chọn
để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao, công
nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các
ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao. Trong ''Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài một số mục tiêu khối lượng như: tăng trưởng
GDP bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000
USD... còn có một số chỉ tiêu về chất lượng, như là những nấc thang trên lộ trình CNHHĐH, phát triển KTTT. Cụ thể là: tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm
khoảng 85% GDP; giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng
hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,53%/năm; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Để đạt những chỉ tiêu trên điều tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất công nghiệp
theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản
phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, chế
biến nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn bằng cách
đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học
công nghệ đến với người nông dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các
mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để tăng nhanh
hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm. Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc sử
dụng những tri thức mới của nhân loại bằng nhiều hình thức khác nhau, như nhập khẩu
trực tiếp công nghệ; nhập khẩu công nghệ gián tiếp qua thu hút đầu tư; mua bằng sáng
chế hay mời chuyên gia nước ngoài vào làm việc. Nhưng điều quan trọng hơn, ngoài

phần nhập khẩu công nghệ cứng như nói ở trên, cần chủ động học hỏi và nhập khẩu
những công nghệ mềm như công nghệ quản lý, kinh nghiệm sử dụng nhân tài, đổi mới
thể chế kinh tế... và đổi cách cải tiến để thích nghi với điểu kiện nước ta. Công nghệ và tri
thức của nhân loại sau một thời gian luôn bị thay thế bởi công nghệ và tri thức mới, do đó
việc tiếp cận với chúng là liên tục và không có điểm dừng. Đây là điều kiện để chúng ta
rút ngắn quá trình CNH-HĐH gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành
kinh tế.


Chúng ta phải đồng thời lồng ghép 2 qua trình là CNH-HĐH và phát triển KTTT,
do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, với các đề xuất
sau:


Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh,
lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là nơi thu
hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.



Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng mọi tri
thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được
nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.



Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ qua các
thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.




Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng
cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.



Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách đãi ngộ thích
đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.



Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với những bước đi thích
hợp. Ở giai đoạn đầu, hướng về sự tiếp cận, tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới, trong
đó ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp vùng để thu hút công nghệ mới. Hình
thành một số cơ sở nghiên cứu-ứng dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến công nghệ và sáng tạo
công nghệ mới gắn sản xuất kinh doanh. Giai đoạn tiếp theo sử dụng cơ chế tài chính
khuyến khích đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong nước trong phát triển công nghệ
mới. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ
sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của
nhân loại.

3. Nhận thức bản thân về quan điểm CNH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.

Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay
đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày
càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình
ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng
trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà

nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát
triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực
chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển
bền vững. Một nghiên cứu của VCCI cho thấy, có khoảng trên 70% máy móc thiết bị ở
nước ta sử dụng công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là máy móc cũ, hoặc
vừa mới tân trang được nhập vào. Thực tế này là một thách thức đòi hỏi phải có quyết
tâm chính trị lớn nhằm tạo ra bước đột phá lớn trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng.


Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các
ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và
sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc
ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế. Thực tiễn phát triển
nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực, điều kiện để
chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh
vực công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như
việc chế tạo thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học,
cùng với năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết
tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện
đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị
Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một mô hình tăng trưởng mới, đảm
bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii) Tăng trưởng bền
vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công bằng
cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả
năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong
thời gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu
tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ
môi trường. Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về

nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các
hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển
KTTT. Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường,
được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng
thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là
các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Khắc phục các khu
vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm
chắc các nguồn tài nguyên để có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh
học. Nói cách khác, bảo vệ môi trường phải vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của quá
trình phát triển bền vững.
Lấy trường hợp sau làm ví dụ: Thành phố Hạ Long có Vịnh Hạ Long hai lần được
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và hiện nay đã được bình chọn là một
trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới, nơi lý tưởng cho phát triển du lịch, thì nên
tính toán, cân nhắc phát triển công nghiệp dịch vụ gì? Đương nhiên du lịch phải là hàng
đầu, nhưng còn phát huy các thế mạnh khác nhau như thế nào? Cần có cảng nước sâu bảo
đảm khối lượng vận chuyển lớn, cần khai thác than, nguồn tài nguyên truyền thống quan
trọng của cả nước, rồi còn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện... mà những việc ấy
đều có khả năng gây ô nhiễm, có thể đánh mất Vịnh Hạ Long. Phải chăng là ngoài ngành
du lịch, cần phát triển các ngành công nghiệp sạch, các ngành dựa vào tri thức, trong đó
có nhiều ngành gắn với du lịch; xây dựng cảng là cần thiết nhưng có các giải pháp phòng
ngừa, bảo đảm không gây ô nhiễm biển; khai thác than cần đưa ra xa thành phố và phải
tuân thủ nghiêm ngặt Luật Môi trường; phần tài nguyên chưa khai thác vẫn giữ nguyên


lại đó cho thế hệ mai sau, lúc đó có thểcó những công nghệ mới khai thác mà không gây
ô nhiễm; nhà máy nhiệt điện có thể đặt ở xa thành phố, mà vẫn gần các mỏ than... Lời
giải tối ưu phải trên cơ sở phân tích kinh tế dài hạn, trong đó có phân tích kinh tế về môi
trường, coi môi trường là yếu tố cơ bản của sản xuất và của chất lượng cuộc sống. Những
bài toán về môi trường như thế đang đặt ra ở khắp nơi khi xây dựng chiến lược phát triển.
Tương tự như thế trong Khu tam giác phát triển, phía Nam phát triển công nghiệp như thế

nào trong mối quan hệ với lưu vực sông Đồng Nai, sông Thị Vải, với diện tích rừng ngập
mặn; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long với hộ sinh thái đặc thù của nó, bố trí quy hoạch
nông, lâm, thủy sản, công nghiệp vừa qua đã phát sinh rất nhiều mâu thuẫn; và biết bao
nhiêu khu dân cư, khu công nghiệp, các công trình cụ thể khác đều cần có lời giải tối ưu
cho bài toán phát triển mà gìn giữ được môi trường. Để giải quyết những vấn đề căn bản
như thế cần đứng trên quan điểm kinh tế tri thức, tức là dựa nhiều hơn vào nguồn lực trí
tuệ, ít hơn vào tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Tài nguyên là có hạn, phần
lớn tài nguyên là không tái sinh, các hệ sinh thái tự nhiên một khi phá đi khó lòng hồi
phục được. Với tri thức và năng lực sáng tạo, con người có thể phát huy các giá trị của tự
nhiên ban cho mà không làm tổn hại nó; không nên vay mượn của các thế hệ mai sau vì
cuộc sống hôm nay.
4. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên.

Thanh niên Việt Nam cần có 3 nhóm phẩm chất là: Trình độ chuyên môn và tay
nghề cao, đạo đức và lối sống trong sáng, sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường
tráng mới đáp ứng được yêu cầu cảu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ kinh
tế tri thức, thời kỳ hội nhập quốc tế. Để đạt được những tiêu chí và các phẩm chất trên
đòi hỏi bản thân thanh niên tự học, tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tụ tin, tự chịu trách nhiệm
để trở thành nguồn lao động chất lượng cao, trở thành người thừa kế trung thành sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.







Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị,
bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng.
Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa,

chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề.
Thứ ba, thanh niên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và môi
trường sinh thái trong lành, sạch đẹp.
Thứ năm, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh
hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải
quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống
khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng
nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo..


Kết luận
Quan điểm của Đảng về CNH gắn với HĐH, gắn với phát triển kinh tế tri thức
và bảo vệ tài nguyên môi trường là hoàn toàn đúng đắn. Trong quan điểm của Đảng,
HĐH và phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường là những yếu tố quan
trọng làm nên sự thành công của quan điểm đó. Chỉ khi kết hợp được tất cả các yếu tố đó
thì nước ta mới phát triển một cách mạnh mẽ và bền vững được.
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Mục tiêu đó đã đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với thế hệ trẻ
hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, mỗi
thanh niên Việt Nam hãy ra sức học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; ra sức thi đua lao động và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến,
xứng tầm đòi hỏi của đất nước và thời đại.




×