Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận cao học môn các tác phẩm kinh điển Trình bày, làm rõ nội dung tư tưởng hồ chí minh về đảng trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” vận dụng tư tưởng trên của người đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.98 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
“Sửa đổi lối làm việc” là một tác phẩm quan trọng về xây dựng Đảng,
một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực, một cuốn sách “gối đầu giường” của
cán bộ, đảng viên để tu dưỡng về tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong
cách công tác. Mặc dù hơn 60 năm trôi qua, nhưng tác phẩm vẫn mang tính
thời sự, vẫn chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Chính vì vậy,
nghiên cứu tác phẩm là một việc làm đầy ý nghĩa và thiết thực. Hơn nữa,
trong bối cảnh lịch sử hiện nay khi đất nước đang đứng trước những thời cơ
và thách thức,vai trò lãnh đạo của Đảng là vô cùng quan trọng, quyết định sự
thành bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc vận dụng những
bài học về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là cần thiết trong trước mắt cũng như lâu dài.
Với ý nghĩa đó, tác giả được nhận đề bài “Trình bày, làm rõ nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Vận
dụng tư tưởng trên của Người đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
ta trong giai đoạn hiện nay” để làm tiểu luận kết thúc học phần Các tác
phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh. Mặc dù bản than đã có nhiều cố gắng song
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của Thầy. Em xin
chân thành cảm ơn!

1


NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT TÁC PHẨM
“Sửa đổi lối làm việc” là một tác phẩm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
hiện nay được đăng trong tập 5 bộ Hồ Chí Minh toàn tập, từ trang 229 đến
trang 306, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1995.
1.1. Bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và
hoàn thành vào tháng10 năm 1947. Lúc này tình hình cách mạng của đất nước


và công tác xây dựng Đảng có nhiều đặc điểm và đặt ra nhiều yêu cầu mới.
Về tình hình cách mạng của đất nước: Năm 1947, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân ta nhằm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành
được, bảo vệ nền cộng hòa non trẻ đang ở năm đầu tiên, việc quân, việc nước
biết bao khó khăn, bộn bề. Ở thành thị, nhân dân ta nghe theo lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh đã thực hiện tản cư, tiêu thổ kháng chiến.
Cả thành thị và nông thôn đã tự phá hoại cầu, đường để ngăn chặn bước tiến
của kẻ thù, phá hoại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng. Quân và
dân thủ đô Hà Nội đã chiến đấu oanh liệt, “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Trong cuộc đối đầu đụng độ giữa ta và địch, quân đội viễn chinh Pháp đã thiệt
hại ở Bắc Cạn, ở sông Lô. Chiến thắng Việt Bắc – Thu Đông năm 1947 vang
dội đã có tác dụng tạo niềm tin chiến thắng, khích lệ, cổ vũ tinh thần kháng
chiến của quân và dân cả nước, trên khắp các chiến trường.
Về phía Đảng ta: sau khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền
trong Cách mạng tháng Tám 1945, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Trước
vận mệnh mất còn của dân tộc, Đảng ta nhận vào mình trọng trách tổ chức,
lãnh đạo toàn dân đoàn kết một long, vượt qua khó khăn, gian khổ để trường
kỳ kháng chiến nhưng nhất định thắng lợi. Kháng chiến trường kỳ, toàn dân,
toàn diện, tự lực cánh sinh là đường lối chính trị, là chiến lược cách mạng của
Đảng ta lúc bấy giờ. Nhân tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc kháng
2


chiến thực dân Pháp là vai trò lãnh đạo của Đảng với đường lối kháng chiến
khoa học, đúng đắn ngay từ đầu. Song, để đường lối kháng chiến đúng đắn đó
được thực hiện trong thực tiễn, Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến công tác tư tưởng và tổ chức của Đảng ngang tầm
nhiệm vụ “kháng chiến, kiến quốc”.
Thực hiện đường lối của Đảng đặt ra những thách thức, yêu cầu mới
đối với mọi cán bộ, đảng viên, nhất là phát huy vai trò tiền phong gương mẫu,

nêu cao đạo đức cách mạng, biết hy sinh gian khổ, đặt lợi ích của nhân dân,
của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, trước hết, gắn bó với quần chúng, học hỏi
quần chúng, khêu gợi và tổng kết những sáng kiến của quần chúng, tổ chức
quần chúng trong phong trào thiết thực, xây dựng các tiềm lực đủ sức tiến
hành cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dâ, toàn diện.
Cuộc kháng chiến thần thánh càng đặt ra yêu cầu thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, chống quan lieu, xa rời quần chúng, đòi hỏi gay gắt mọi chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thiết thực, có lợi
cho nhân dân, cho kháng chiến, chống thói ba hoa, lý luận suông những lời hô
hào hình thức, sáo rỗng. Cuộc đấu tranh cách mạng và vai trò xung kích của
người Đảng viên đòi hỏi đội ngũ cá bộ phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá
nhân dưới mọi hình thức.
Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, Đảng chủ trương xây dựng các
“chi bộ tự động công tác” nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong lãnh
đạo của các cấp bộ Đảng. Đồng thời, phát động kết nạp “lớp đảng viên tháng
Tám để tăng lực lượng lãnh đạo của Đảng”. Trong quá trình thực hiện các chủ
trương trên đã bộc lộ những thiếu sót trong công tác lãnh đạo và lối làm việc,
trong công tác tổ chức và tư tưởng của Đảng. Những thiếu sót, nhược điểm
của cán bộ, đảng viên làm giảm uy tín của Đảng, có nguy cơ ảnh hưởng xấu
đến thắng lợi của cuộc kháng chiến. Nhằm tăng cường công tác giáo dục cán
bộ, đảng viên, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, tạo ra sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, ngày 1- 3-1947, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi
3


các đồng chí đảng viên ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Hai địa phương đó đang có
nhiều vấn đề bức xúc trong công tác xây dựng Đảng. Qua mấy tháng theo dõi
việc thực hiện các bức thư, Hồ Chí Minh thấy rõ sự chuyển biến của đảng
viên chưa nhiều. Cán bộ, đảng viên các nơi hoặc chỉ nghiên cứu qua loa, hoặc
nhận thấy khuyết điêm rồi nhưng không cố gắng sửa chữa. Đặc biệt: “cán bộ

và đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự mà sao nhãng việc học
tập. Đó là một khuyết điểm rất to, khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa
người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa.”
Để có tài liệu cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng trên
các măt tư tưởng, đạo đức và phương pháp làm việc, chủ tịch Hồ Chí Minh
với bút danh Z.Y.Z đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” vào tháng 10 –
1947 và được Nhà xuất bản và phát hành đầu năm 1948.
1.2. Chủ đề tư tưởng của tác phẩm
Tác phẩm “Sửa đối lối làm việc” đề cập đến các vấn đề quan trọng của
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, phương thức,
phương pháp lãnh đạo và công tác quần chúng của Đảng trong điều kiện đất
nước thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.
1.3. Kết cấu tác phẩm
Về hình thức, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được chia thành 6 mục
lớn, đánh số thứ tự từ I đến VI. Cụ thể:
I. Phê bình và sửa chữa
II. Mấy điều kinh nghiệm
III. Tư cách và đạo đức cách mạng
IV. Vấn đề cán bộ
V. Cách lãnh đạo
VI. Chống thói ba hoa
Trong mỗi mục lớn có nhiều mục nhỏ được sắp xếp theo một trật tự
logic chặt chẽ, bảo đảm tính liên hoàn, chỉnh thể của một tác phẩm lý luận.

4


Về nội dung, tác phẩm tập trung vào ba vấn đề lớn, quan trọng
nhất: đạo đức cách mạng; cán bộ và công tác cán bộ của Đảng; phương thức,
phương pháp lãnh đạo của Đảng. Đây chính là ba vấn đề liên quan mật thiết

và ảnh hưởng qua lại trong vai trò lãnh đạo của Đảng: cán bộ, đảng viên phải
là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng; có cán bộ tốt, có đạo đức cách
mạng thì mới có thể tổ chức, lãnh đạo được nhân dân; trong vai trò tổ chức,
lãnh đạo của Đảng thì cán bộ là khâu quyết định.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG TRONG
TÁC PHẨM
2.1. Sửa đổi lối làm việc của Đảng là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Mih đặt vấn đề cần
thiết phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, phong
cách, phương pháp công tác; xác định đó là nhiệm vụ thường xuyên, vừa lâu
dài, vừa cấp bách như một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng cách mạng
chân chính, nhất là khi Đảng đứng ra đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lớn lao đối
với sự phát triển của dân tộc. Người giải thích rõ: “Đảng ta hy sinh tranh đấu,
đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại tự do và độc lập. Công việc đã có kết
quả vẻ vang. Nhưng nếu mỗi cán bộ, đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn
thì thành tich của Đảng còn to tát hơn nữa”.
Sửa đổi lối làm việc giúp cho Đảng rút ra nhiều bài học bổ ích, đẩy
mạnh công tác, hiệu qủa công việc, làm cho Đảng lớn mạnh không ngừng;
mặt khác nó giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên khắc phục những sai lầm, khuyết
điểm. Tất cả các khuyết điểm có thể quy vào ba hạng:
- Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan mà nguyên nhân chính
là kém lý luận hoặc khinh ly luận hoặc ly luận suông, không đem lý luận thực
hành trong cuộc sống.
- Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với ngoài Đảng, tức là bệnh
hẹp hòi, ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết, phá hoại sự đoàn kết toàn dân.
5


Bệnh này sinh ra nhiều bệnh con: địa phương chủ nghĩa, chủ nghĩa bản vị,

chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người
giỏi, bệnh hủ hóa…
- Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa
Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, cá nhân, bản vị, cục bộ…mỗi
chứng bệnh là một kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch
bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức
ngăn ngừa, đề phòng những kẻ địch đó, phải kiên quyết chữa trị bằng hết
những căn bệnh đó. Điều này cho thấy sửa đổi lối làm việc là nhiệm vụ chung
của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên.
2.2. Vai trò của lý luận và tổ chức thực tiễn
Nói đến lý luận và tổng kết thực tiễn là nói đến các yếu tố làm nên trí
tuệ của Đảng. Trong “sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh hiểu lý luận là
“đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem
xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ rang, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng
minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Lý luận có vai trò rất to lớn, nó
như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực
tế, không có ly luận thì lung túng như nhắm mắt mà đi. Đối với Đảng, cán bộ,
đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nâng cao hiểu biết cả về lý luận và thực
tiễn, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Người nói: “Có kinh nghiệm mà
không có lý luận thì cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”, “lý luận cốt để áp
dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận
suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận nếu không đem ra
thực hành thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Ly luận và thực hành có
quan hệ qua lại: lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhìn theo lý
luận. Ly luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích
để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung cũng như không có tên.
Đánh giá cao vai trò của lý luận và thực hành, Hồ Chí Minh đi đến kết
luận : Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng
6



vào công việc thực tế; phải gắng học , học thì phải hành; phải chữa cái bệnh
kém lý luận, kinh lý luận và lý luận suông. Bên cạnh học lý luận, người cán
bộ phải có ý thức biết tổng kết kinh nghiệm trong công tác. Phê bình và tổng
kết kinh nghiệm công tác là quy luật tiến bộ trong sự nghiệp cách mạng.
2.3. Vấn đề bản chất và tư cách của Đảng cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng và
lợi ích mà nó đại diện. Đối với ta, bản chất đó được Người xác định rất rõ:
Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác.
Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng
nhân dân và nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị, của nhân dân. Vì toàn dân
được giải phóng thì tức là Đảng được giải phóng.
“Sửa đổi lối làm việc” đã đưa ra 12 điều thuộc về tư cách của một Đảng
chân chính cách mạng, theo đó “Đảng không phải là một tổ chức đề làm quan,
phát tài. Nó phải làm tròn nghĩa vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng”. Do đó, Đảng phải biết lý luận cách mạng, phải
kết hợp lý luận với thực tế, với kinh nghiệm cách mạng trong nước và trên thế
giới. Đảng phải biết liên hệ trực tiếp với quần chúng, giữ kỷ luật nghiêm từ
trên xuống dưới, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, không che
giấu khuyết điểm của mình. Theo Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết
điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ
hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách để sửa chữa khuyết điểm đó.
Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Để kết luận,
Người viết:
Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào
2.4. Vấn đề đạo đức cách mạng
Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đề cập đến đạo đức cách mạng
trên nhiều khía cạnh, thể hiện rõ nét quan điếm tổng quát, toàn diện của Người.

7


Trước hết, Hồ Chí Minh xác định rõ vị trí, vai trò của đạo đức cách
mạng đối với Đảng nói chung và với từng cán bộ, đảng viên nói riêng. Người
gắn vấn đề đạo đức cách mạng liên quan đến thắng lợi hay thất bại của cách
mạng. Hồ Chí Minh viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang, cao cả, to tát, khó khăn đòi hỏi
người cách mạng phải có các phẩm chất tương ứng về đạo đức và đạo đức đó
phải trở thành “cái căn bản” của mỗi người.
Về nội dung, đạo đức cách mạng bao gồm năm tính tốt: Nhân, Nghĩa,
Trí, Dũng, Liêm. Những tính tốt này của đạo đức cách mạng mang đậm đà
bản sắc truyền thống dân tộc, được Người kế thừa từ đạo đức Nho giáo,
nhưng được them, bớt, thay đổi trật tự vị trí các chuẩn mực đạo đức và nhất là
nội dung của từng chuẩn mực đó được Hồ Chí Minh giải thích theo một tinh
thần hoàn toàn mới, mang tính cách mạng. Đạo đức cách mạng với năm tính
tốt đó khác với đạo đức cũ, nó “không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.
2.5. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ của Đảng
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm viêc”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ một
cách có hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ.
- Người xác định rất rõ: “Cán bộ là những người đem chinh sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ và nhân dân.
Trong tư duy Hồ Chí Minh, cán bộ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng: Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hoặc kém.

Người cán bộ cách mạng phải hội đủ các tiêu chuẩn: Đức và tài, phẩm
chất và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách , phương pháp
8


công tác tốt, trong đó phẩm chất đạo đức phải là yếu tố hàng đầu, là gốc, là
nền tảng.
- Phẩm chất và năng lực cán bộ quyết địh sự thành bại của sự nghiệp
cách mạng, vì thế công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng, là một vấn đề rất
trọng yếu, rất cần kịp.
- Đối với Đảng, thực chất công tác cán bộ là “ nuôi dạy cán bộ như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài , trọng
cán bộ, trọng mỗi con người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
- Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu liên hoàn, được Hồ Chí Minh
chỉ ra một cách rất chi tiết, cụ thể, dễ hình dung, dễ thực hiện. Đó là:
+ Huấn luyện cán bộ: Rất cần thiết, huấn luyện cán bộ toàn diện, mọi
mặt như huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp theo phương châm
làm việc gì học việc ấy, huấn luyện chính trị, gồm cả thời sự và chính sách
huấn luyện văn hóa, khoa học, kỹ thuật, huấn luyện lý luận.
+ Dạy cán bộ và dùng cán bộ: Hồ Chí Minh lưu ý các điểm chính như
phải biết rõ cán bộ, cân nhắc cán bộ cho đúng, phải khéo dùng cán bộ, phải
phân phối cán bộ cho đúng, phải giữ cán bộ.
+ Lựa chọn cán bộ: Theo Hồ Chí Minh phải căn cứ vào các tiêu chuẩn
cụ thể như lòng trung thành, hăng hái, sâu sát, gần gũi, gắn bó với nhân dân,
phải hiểu dân, thương yêu dân, có gan phụ trách, giải quyết vấn đề, có y thức
tổ chức kỷ luật.
+ Bồi dưỡng cán bộ: Phải làm tốt các nội dung như có chỉ đạo, tập
trung bồi dưỡng để nâng cao, thạo nghề, thạo việc, bồi dưỡng phải có kiểm
tra, đánh giá, bồi dưỡng kết hợp giữa xây dựng và cái tạo, nhất là tư tưởng,
sẵn sang giúp đỡ cán bộ.

+ Thực hiện chính sách đối với cán bộ: Bao gồm các nội dung như hiểu
biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cân nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình
cán bộ.

9


2.6. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ “cách
lãnh đạo”, từ đó đồng nghĩa với thuật ngữ “phương thức, phương pháp” lãnh
đạo mà chúng ta dùng hiện nay. Người cho rằng, muốn giữ vững vai trò lãnh
đạo, tập hợp quần chúng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Đảng
cầm quyền phải có cách lãnh đạo đúng, thích hợp.
Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng nghĩa là:
- Phải kiên quyết mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất
định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
- Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng
giúp thì không xoong.
- Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có
quần chúng mới được.
Về phương thức lãnh đạo, Người lưu ý kết hợp hợp chặt chẽ giữa các
mặt: Liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng; liê hợp lãnh đạo với quần
chúng.
Hồ Chí Minh đã xác định rõ 5 nguyên tắc trong lãnh đạo của Đảng, về
đại thể là việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với quần chúng; tin tưởng quần
chúng, theo trình độ giác ngộ và tự giác của quần chúng, tuyệt dối không theo
đuôi quần chúng; việc gì cũng phải “dưới nhoi lên”.
2.7. Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng
Hồ Chí Minh cho rằng, lực lượng quần chúng, của dân chúng nhiều vô

cùng. Nếu được dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được; dân chúng
không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, sửa đổi lối làm việc của Đảng cũng phải vì dân dựa vào dân thì
mới thành công, mới có kết quả mong muốn.
Muốn tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng, vấn đề rất quan trọng là
phải có cách tuyên truyền, vận động hợp lý, khoa học nhất là nói và viết sao
10


cho hiệu quả, làm thế nào mà “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải
tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ao ước của quần chúng”.
Phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng cần thực hiện đúng
các yêu cầu: học cách nói của quần chúng; dùng lời lẽ thí dụ thiết thực, dễ
hiểu; đúng đối tượng người đọc, người nghe; điều tra, nghiên cứu kỹ trước khi
nói, khi viết, chưa biết rõ chớ nói chớ viết; chuẩn bị kỹ, sắp đặt cẩn thận,
kiểm tra sau khi viết…
III. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG TRÊN CỦA NGƯỜI ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng – quy luật tồn tại và phát triển
của Đảng
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, Người đặc biệt quan tâm đến
việc xây dựng Đảng, vì vậy Người liên tục đề cập vấn đề xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hình thành một hệ thống các luận điểm mang tính nhất quán.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường
xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc
và nhân dân. Đó được coi là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài.

Khi cách mạng gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên
củng cố lập trường quan điểm, bình tĩnh, sáng suốt, không tỏ ra nao núng, bị
động, bi quan.
Khi cách mạng thuận lợi cũng cần xây dựng Đảng để xây dựng những quan
điểm, tư tưởng cách mạng khoa học, ngăn ngừa chủ quan, kiêu ngạo, tự mãn.
Hồ Chí Minh chỉ rõ xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại,
phát triển của Đảng. Còn Đảng, còn hoạt động, còn cần phải tổ chức, xây
dựng, chỉnh đốn. Đó là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết
11


định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với văn minh
của chế độ và của bản thân Đảng.
Hồ Chí Minh đã lý giải thuyết phục tính tất yếu khách quan của công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo các căn cứ sau:
Do quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo (Đảng lãnh đạo: đánh đổ đế quốc phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản...)
Sự nghiệp cách mạng đó là một quá trình, bao gồm nhiều thời kì, nhiều
giai đoạn; mỗi thời kì, mỗi giai đoạn lại có mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể khác
nhau. Vì vậy trước những diễn biến của điều kiện khách quan, đòi hỏi Đảng
phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp
và dân tộc.
Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng là một bộ phận hợp thành cơ
cấu của xã hội; mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi
trường xã hội, các quan hệ xã hội (cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, cái tiến bộ
và cái tiêu cực, lạc hậu). Vì vậy việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm rèn
luyện thường xuyên tư tưởng, phẩm chất đạo đức, chính trị cho mỗi cán bộ,
đảng viên, giúp họ tự đề kháng được những căn bệnh xã hội thẩm thấu vào
Đảng.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện, giáo dục, tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó, giữ vững được các phẩm chất đạo đức cách mạng.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ, Đảng viên hiểu rõ,
hiểu đúng và thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
Mặt khác, giúp cán bộ, Đảng viên phải nhìn lại mình, phát huy mặt tốt,
loại bỏ mặt xấu trong mỗi con người.
Vì vậy mỗi cán bộ, Đảng viên cần phải luôn luôn giữ vững phẩm chất tốt
đẹp của mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng trong mọi điều kiện,

12


môi trường, hoàn cảnh xã hội khác nhau; luôn luôn tự giác rèn luyện, phấn đấu.
Đồng thời Đảng cũng cần giúp đỡ họ, kiểm soát, quản lý họ từ phía Đảng.
Trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, tự làm trong sạch nhân
cách của mõi cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt, trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền thì việc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng lại được Hồ Chí Minh coi là công việc càng phải
tiến hành thường xuyên hơn, bởi lẽ:
Người đã nhận thấy và nhận rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực:
Một mặt: quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới nếu biết sử dụng đúng.
Mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê ghớm nếu người nắm
quyền lực bị thoái hoá, biến chất trở thành lạm quyền, độc quyền, lộng
quyền... biến quyền lực của dân thành quyền của cá nhân...
Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến chỉnh đốn và đổi mới để hạn
chế, ngăn chặn, đẩy lùi mọi tệ nạn do thoái hoá, biến chất gây ra, trong điều
kiện Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.

Trong giai đoạn hiện nay, khi bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều
biến đổi to lớn, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức của
sự phát triển thì công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng lại càng trở nên cấp
thiết và quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị,
đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của
đất nước. Hơn nữa, nó còn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
3.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện
đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn
phát triển mới

13


Đảng ta là Đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng
hòa trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ
do tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện
mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh". Muốn
đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí
tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục
hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải
tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới
nảy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh,
đường lối, chủ trương của Đảng. Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới
phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh "Đảng... phải có chủ nghĩa làm cốt".

Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và
phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.
3.2.2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng
Đảng lả nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của
tổ chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất
ổn định chính trị - xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong
các điểm sau:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc. Trong
14


thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xã
hội mới là công việc "rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang.
Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa
vào lực lượng vĩ đại của toàn dân" .
Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm
trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,... không chỉ là sự
quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức

mạnh của toàn dân tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự
nghiệp cách mạng.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực
khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm
nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy
tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của
Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy,
toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức
đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để
tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự "là
đạo đức, là văn minh".
3.2.3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối,
chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
15


Nhà nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực tối thượng, điều chỉnh mọi
quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền
của Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội. Ngày nay, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng mở
rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát

triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối
với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: "Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong đấu tranh
và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn
và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".
3.2.4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu
nước vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng,
cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.
Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay
đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới.
Sự phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán
bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các "điểm nóng" liên
quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân
sinh,... liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình
thường trong mối quan hệ máu thịt này.

16


Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị,
quy định, quy chế,... để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu
quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng
vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có
hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ
chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các

ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được
thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách
được ban hành phải theo mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải
là công bộc của dân, "vì nhân dân phục vụ"; các biện pháp thực hiện phải dựa
vào sức dân và mang lợi ích cho dân... Điều quan trọng là mọi hoạt động của
tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.
3.2.5. Tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng
Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu
điểm, khuyết điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của
những yếu kém, khuyết điểm và đề ra những biện pháp khắc phục.
Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào
tiêu chuẩn chung quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII về Chiến lược cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, cần đặc biệt nhấn mạnh tiêu
chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả hoàn thành
nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xã hội; có tư duy đổi mới,
khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề phức tạp mới nảy
sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu
sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.

17


18


KẾT LUẬN
« Sửa đổi lối làm việc » thể hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về việc
vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về xây dựng Đảng kiểu

mới của giai cấp vô sản vào điều kiện nước ta. Những quan điểm của Người
trong tác phẩm là « cẩm nang », là « kim chỉ nam » cho công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng ta trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong
giai đoạn hiện nay. Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng tư tưởng của Người
trên mọi phương diện: về tư tưởng – lý luận, về chính trị, về tổ chức, và về
đạo đức để giữ vững và phát huy sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng
trong cuông cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ vững độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay. Bởi Đảng là yếu tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng, như Hồ Chí Minh đã khẳng định « Đảng có vững
cách mạng mới thành công ». Và tại Đại hội X của Đảng cũng nhấn mạnh:
“Xây dựng Đảng với vai trò là nhiệm vụ then chốt càng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.

19


MỤC LỤC



×