Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

VAI TRÒ của IMF TRONG xử lý các CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.49 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ
BỘ MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
-----*****-----

TIỂU LUẬN:

VAI TRÒ CỦA IMF TRONG XỬ LÝ CÁC CUỘC KHỦNG
HOẢNG KINH TẾ
Họ và tên sinh viên :Trần Quốc Đạt

Đỗ Thị Hằng

Lê Thu Hiền

Phạm Hoàng Hải Yến

Phạm Thị Hậu

Phạm Thị Minh Ngọc

Hồ Thị Thu Hà

Nguyễn Thị Huệ

Hà Nội, Năm 2015


Mục Lục



Danh mục bảng biểu, đồ thị:
STT
Tên bảng biểu, đồ thị
2.1 Nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối ( đến cuối năm 1997)
3.1 So sánh rủi ro nợ công các nước
3.2 Chênh lệch lợi tức trái phiếu các nước so với Đức
3.3 Phân bổ trái phiếu chính phủ của Hy Lạp, Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha

Số trang
8
26
27
28

Danh mục chữ viết tắt
Chữ viết tắt
EU
ECB
NHTW

Nguyên văn
Liên minh châu Âu
Ngân hàng trung ương châu Âu
Ngân hàng trung ương


4

Lời mở đầu

Hội nhập kinh tế thế giới là một tình trạng tất yếu và bắt buộc đối với các
quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, nhất là sau khi gia nhập một loạt các
tổ chức và các hiệp định thương mại như WTO (2007) và TPP (2015), … , kéo
theo đó là việc dần phải chấp nhận các “luật chơi” cho các quốc gia tham gia
vào quá trình này. Đứng trước xu hướng đó các quốc gia chịu cả những thách
thức lẫn hưởng các thời cơ thuận lợi, các cơ hội đầu tư và những dòng tiền tính
bằng nghìn tỷ đô la từ những giếng dầu của Trung Đông kéo dài qua châu Âu và
sang tận bờ tây của Hoa Kỳ, kèm theo những tác động từ việc hạ hàng rào thuế
quan là mục tiêu mà các thành viên các tổ chức thương mại đều hướng đến
nhưng cũng kéo theo nguy cơ lan rộng của các cuộc khủng hoảng mà rõ ràng các
nước đang phát triển đang phải chịu nhiều khó khăn hơn cả và dễ bị chịu những
tác động. Trước năm 1997 không một nhà kinh tế hay một chính trị gia nào có
thể nghĩ rằng một cuộc khủng hoảng kinh tế lại diễn ra ở châu Á, một khu vực
với sự phát triển thần kỳ của các “con rồng châu Á” Hong Kong, Singapore, Hàn
Quốc và Đài Loan. Thế nhưng một khu vực được coi là sẽ trở thành trung tâm
phát triển của kinh tế thế giới ở thế kỷ 21 lại phải đối mặt với một cuộc khủng
hoảng với quy mô và mức độ phá hoại lớn như vậy hay gần đây liệu trong 10
năm trước có ai ngờ rằng Hy Lạp – xứ sở của các vi thần, một thành viên của EU
lại trở thành gánh nặng của cả châu Âu và thế giới.
Để hỗ trợ cho quá trình hội nhập và tham gia vào tiến trình của các nước,
dẫn đầu là các nước tư bản phát triển (G7), đã thiết lập những thể chế kinh tế
quốc tế có quy mô rộng lớn và những mục tiêu lớn lao.Qũy tiền tệ quốc tế (IMF)
là tổ chức lớn nhất thế giới hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đã thể hiện


5

vai trò của mình trong suốt gần nửa thế kỷ qua và đã hoạt động rất tích cực trong
các cuộc khủng hoảng, góp sức đưa khu vực khỏi cuộc khủng hoảng.
Hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã đi qua nhưng nhìn lại diễn

biến và vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng là một việc rất cần thiết và quan
trọng bởi vì qua đó mới có thể hiểu được nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
cũng như những cố gắng của IMF để góp phần lái con tàu kinh tế thế giới về
đúng quỹ đạo nhằm đối phó với các tình huống tương tự xảy ra trong tương lai.
Do sự hạn chế về mặt kiến thức và tài liệu nên sự sai sót là không thể tránh khỏi,
rất mong nhận được sự phản hồi và góp ý của giảng viên.


6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ IMF
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

1.1

IMF là tên viết tắt tiếng Anh - International Monetary Fund - Quỹ Tiền tệ
Quốc tế. Đây là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng
theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp
đỡ tài chính khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ
đô của Hoa Kỳ.IMF là một tổ chức tiền tệ, tín dụng liên chính phủ được thành
lập trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị quốc tế và tiền tệ, tài chính của Liên
Hợp Quốc diễn ra vào năm 1944 tại Bretton Wood với sự tham gia của 44 quốc
gia đã thành lập IMF dựa trên sự phối hợp 2 dự án : dự án Keynes và White.
IMF đi vào hoạt động năm 1945 với 29 nước thành viên và hoạt động như một
cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc với 49 hội viên từ ngày 1/3/1947.




CHỨC NĂNG

Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên.
Cấp tín dụng cho các thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh



toán.
Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của

1.2



các nước thành viên.
Tư vấn cho các nước hội viên về chính sách kinh tế vĩ mô.
Cung cấp trợ giúp kĩ thuật.
NHIỆM VỤ
Giải quyết các vấn đề hối đoái giữa các quốc gia hội viên nhằm ổn định



mậu dịch quốc tế.
Tài trợ tín dụng cho các nước nghèo hầu tạo điều kiện cho họ phát triển



1.3

qua hình thức giúp ngân khoản trực tiếp hay hứa trả nợ cho 1 hội viên nào
1.4


đó.
CƠ CẤU TỔ CHỨC


7

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản
trị gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 lần,
hiện nay IMF có 188 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước khác
nhau. Hội đồng quản trị họp mỗi năm 1 lần.
Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng
điều hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám
đốc do 5 nước có mức đóng góp lớn nhất và Arab Saudi bổ nhiệm; 16 giám đốc
do Hội nghị toàn thể bầu ra có tính đến khu vực địa lý.Tổng giám đốc IMF hiện
tại là bà Christine Madeleine Odette Lagarde - cựu bộ trưởng tài chính Pháp.
Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ
quan tư vấn về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974.
Thành viên của Ủy ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên.
Nhiệm vụ chính của Ủy ban lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ
thế giới và kiến nghị với Hội đồng quản trị.
Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối
hợp giữa IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về
những nhu cầu đặc biệt của nước nghèo.
1.5

NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG
IMF là đòi hỏi các nước thành viên phải cho phép đồng tiền của nước

mình được trao đổi tự do khôngcó bất cứ hạn chế nào với tiền của nước khác
(đồng tiền chuyển đổi), thông báo cho IMF biết những thay đổi trong chính sách

tài chính và tiền tệ của nước mình có ảnh hưởng đến các nước thành viên khác,
và trong phạm vi có thể, sửa đổi các chính sách đó theo tư vấn của IMF để đáp
ứng yêu cầu của toàn thể cộng đồng. Để giúp các nước thành viên đang gặp khó


8

khăn tài chính thực hiện nguyên tắc này,IMF sẽ đứng ra huy động tài chính từ
các nước thành viên khác và cho nước gặp khó khăn vay.
Những quyết định lớn của IMF chỉ được thông qua nếu có ít nhất 85%
phiếu ủng hộ trong Ban điều hành. Các nước thành viên tùy theo số vốn đóng
góp vào IMF mà có tỷ lệ lá phiếu trong tổng số phiếu nhiều hay ít.
Bất kì một nước thành viên nào khi gia nhập IMF đều phải cho các thành
viên khác trong quỹ biết dự định về chuẩn giá trị đồng tiền của nước mình so
với đồng tiền của các nước khác để tự kiềm chế, hạn chế việc đổi đồng tiền của
họ lấy ngoại tệ và theo đuổi những cơ sở kinh tế sẽ làm tăng của cải của các
nước thành viên đó, của cả cộng đồng các nước thành viên bằng con đường hòa
hợp, có lợi.
Khi gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền
nhất định được coi là một khoản lệ phí hội viên. Tuy nhiên khoản đóng này chỉ
thực hiện khi quỹ có nhu cầu: khi có ai cần vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia
đó mới phải đóng.
1.6


VAI TRÒ VỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
Đối với nhiều quốc gia, IMF luôn là tổ chức giúp đỡ họ trong thời kỳ kinh
tế khó khăn. Trong những năm qua, tổ chức này đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc giúp các nước phục hồi thông qua các biện pháp viện






trợ kinh tế.
Ổn định các quan hệ tài chính tiền tệ trên phạm vi toàn thế giới.
Thực hiện khả năng điều tiết và phối hợp hành đông của các quốc gia.
Duy trì và phát triển kinh tế thế giới.

CHƯƠNG 2 : CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á (1997)


9

2.1

MỘT SỐ DIỄN BIẾN
Ngày 2/ 7/ 1997 sau khi tung ra gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng Baht

nhưng không thành công, Ngân hàng Trung Ương Thái Lan buộc phải tuyên bố
thả nổi đồng Baht mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Trong điều
kiện liên kết kinh tế giữa các nước ASEAN hiện nay khá chặt chẽ, việc đồng
Baht giảm giá lập tức tác động đến đồng tiền các nước khác trong khu vực.
Cuộc khủng hoảng lan rộng sang Malaysia, Philippines rồi Indonesia và
Singapore sau đó lan tiếp sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và rồi cả nước
Nga gây nên những khủng hoảng trầm trọng trên thị trường tài chính nước này,
các đồng tiền nước này bị mất giá chóng mặt. Các nhà đầu tư nước ngoài từ Âu
Mỹ rút khỏi thị trường châu Á nói chung và ASEAN nói riêng để chuyển sang
các khu vực khác có vẻ ổn định hơn (chu chuyển vốn vào các nước đang phát
triển ở châu Á giảm hơn 60 tỷ USD và chỉ còn 40 tỷ USD trong năm 1997).

Cuộc khủng hoảng làm phá sản hàng vạn các công ty khắp châu Á trong đó có
các tập đoàn lớn trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, điện tử và công nghiệp.
Các nước bị ảnh hưởng nặng bởi cuộc khủng hoảng hầu hết đều có mức tăng
trưởng âm và có tỷ lệ thất nghiệp cao. Đến 6/ 4/ 1998 IMF cho rằng thời điểm
tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á đã qua. Nhưng cuộc khủng
hoảng lại tiếp tục với nhiều diễn biến khó lường trước được đã cuốn các quốc
gia trong khu vực châu Á vào những nỗ lực vượt bậc. Hội nghị các thứ trưởng
tài chính và thống đốc ngân hàng nhà nước nhóm G7 và 11 nước châu Á - Thái
Bình Dương tại Tokyo thảo luận về việc ổn định đồng Yên và ngăn chặn cuộc
khủng hoảng tiền tệ lần thứ 2 tại khu vực và tìm cách khôi phục nền kinh tế
Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái chưa từng có trong 23 năm.


10

Các dấu hiệu hồi phục kinh tế bắt đầu xuất hiện từ tháng 4/ 1999, chấm
dứt một thời gian dài mà chỉ nghe thấy tin tức về sự sụt giá của các đồng tiền,
tăng trưởng âm... Sự hồi phục diễn ra mạnh nhất ở Malaysia, Singapore, Hàn
Quốc và Thái Lan trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với mức tăng GDP 9% so với
mức âm 6% năm 1998. Tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia ASEAN năm
1999 đạt 3% so với âm 7,5% năm 1998
2.2 NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
2.2.1

. Nguyên nhân bên trong.

2.2.1.1 Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt.
Nhiều nước mới nổi ở châu Á đã gắn đồng tiền của mình với đồng USD
và đồng thời thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn bán
ngoại tệ bằng cách cho phép người dân trong nước thực hiện các khoản vay

bằng đồng USD và người nước ngoài buôn bán đồng nội tệ khá tự do. Việc
thực hiện chế độ tỷ giá cố định và nới lỏng kiểm soát ngoại tệ này nhằm khuyến
khích kinh tế phát triển cao từ khía cạnh tài chính bằng cách khuyến khích dòng
chảy tư bản bên ngoài vào và tạo ra các cơ hội đầu tư nhiều hơn cho các nhà đầu
tư nước ngoài.
Tuy nhiên dòng chảy tư bản lớn vào khu vực đã tạo ra sự chênh lệch tỷ
giá hối đoái. Việc giá các đồng nội tệ được định giá cao hơn giá trị thực làm cho
sức cạnh tranh của các nền kinh tế này bị suy giảm so với các quốc gia khác
đồng thời phải chịu các đợt đầu cơ vào dự đoán các đồng tiền này sẽ bị giảm giá
vào tương lai gần.
2.2.1.2. Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn.
Các nước Đông Nam Á là những nước xuất khẩu lớn bao gồm cả hàng
chế tạo và có thể dễ dàng bù đắp cho nợ nước ngoài lớn. Tuy nhiên là chỉ có thu


11

nhập từ xuất khẩu thì chưa đủ để trả nợ đặc biệt là vào những năm đầu thập kỷ
90 xuất khẩu của các nước này gặp khó khăn do thị trường đã bão hoà, sức cạnh
tranh giảm. Khi dự trữ ngoại tệ không đủ lớn để trả nợ gốc và lãi đến hạn thì các
nước này đã tuyên bố tình trạng khủng hoảng cần sự giúp đỡ quốc tế.
Bảng 2.1:Nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối ( đến cuối năm 1997)

Đơn vị: tỷ USD.
Nước
Thái Lan
Indonesia
Hàn Quốc
Malaysia


Nợ ngắn hạn

Tổng số nợ
91,7
137,4
154,40
44,1

( trong tổng số nợ)
65
60
70
55

Dự trữ ngoại hối
27
16,6
24,4
21,7

2.1.1.3 Sự hình thành bong bóng kinh tế.
Trong nền kinh tế nội địa khu vực phi hàng hoá bao gồm các ngành bất
động sản và xây dựng đã dần trở nên có khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận so
với khu vực kinh doanh hàng hoá,cũng chính vì vậy mà các nguồn lực đã được
phân bổ nhiều hơn vào khu vực phi hàng hoá này. Trong thời kỳ này, các khoản
đầu tư mới và trợ giúp về vốn thường tập trung vào lĩnh vực bất động sản và các
ngành kinh doanh phi hàng hóa khác. Trong khi đó sự yếu kém về quản lý của
các tổ chức tài chính, sự nới lỏng trong kiểm tra và giám sát của các tổ chức này
đã góp phần vào sự phát triển quá mức của khu vực phi thương mại. Kết quả là
những khoản vốn được tập trung vào lĩnh vực không sinh lời đã trở thành những

khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được. Tổng mức nợ khó đòi của các nền
kinh tế ASEAN đã lên tới 130 - 140% GDP. Khi đồng tiền bị phá giá, khu vực
bất động sản bị sụp xuống thì bản cân đối của các công ty tài chính các ngân
hàng bị phơi ra, vỡ nợ lan nhanh.


12

2.2.1.4. Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng.
Các ngân hàng thuộc các nước ASEAN đã chi và đầu tư mà không tính
đến khả năng cạnh tranh với nước ngoài. Họ đảm bảo và khích lệ các công ty
trong nước vay không cần giới hạn dùng các quan hệ “tín chấp” thay cho các
quan hệ thế chấp tài sản, quá lạc quan khi đánh giá cao vai trò của các đồng nội
tệ...điểm mạnh và đồng thời cũng là chỗ yếu của các nước Đông Nam Á là mối
liên hệ giữa chính quyền ngân hàng và doanh nghiệp. Mối liên kết chặt chẽ này
nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu và đề án phát triển lớn lao do nhà nước đề
ra. Chính sự liên kết này làm cho các thể chế kiểm soát và đánh giá tài chính
nhiều khi không cần thiết hoặc trở nên mất hiệu lực, thông tin bị nhiễu hoặc
không nhiều thì chính quyền cũng bằng mọi cách vực dậy các doanh nghiệp trên
đà phá sản. Do hậu quả của những yếu kém đó các thể chế tài chính trong nước
phải gánh chịu những rủi ro lớn tập trung do đầu tư vào những bong bóng kiểu
như bất động sản và những rủi ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái về mặt nghĩa vụ
nợ.
2.2.2. Nguyên nhân bên ngoài
2.2.2.1. Tự do hoá dòng chảy tư bản.
Toàn cầu hoá gây khủng hoảng. Di chuyển vốn quốc tế là một trong những
nội dung cơ bản của các giao dịch kinh tế quốc tế tạo nên sự lưu động các yếu tố
sản xuất và các loại tiền vốn trên thị trường thế giới. Từ những năm 80 xu thế
toàn cầu hoá thị trường tiền vốn quốc tế phát triển rất mạnh đã tăng cường ảnh
hưởng của lưu động tiền vốn quốc tế đối với tình hình kinh tế thế giới. Hơn nữa

do tiền vốn ký hiệu ngày càng phát triển đặc biệt loại tiền vốn ngắn hạn quốc tế
được gọi là “vốn lang thang” qúa lớn trong tổng số vốn lưu động trên thị trường
thế giới đã làm tăng tính biến động của nền kinh tế thế giới. Hiện nay có khoảng


13

1500 tỷ USD được gọi là “vốn lang thang” trên thế giới, hình thành lực lượng
đầu cơ mạnh dễ gây nên những biến động tài chính tiền tệ quốc tế. Sự xuất hiện
tiền điện tử tạo điều kiện làm cho tiền và hàng không còn giữ mối quan hệ đáng
phải có, dẫn đến rối loạn hệ thống tài chính tiền tệ. Các dòng chảy tư bản ngắn
hạn đều có đặc điểm chung là có thể biến đổi cả nền kinh tế tức là chúng tăng
mạnh lên khi nền kinh tế đang phát triển và rút đi nhanh chóng khi nền kinh tế
có dấu hiệu bất ổn.
2.2.2.2. Đầu cơ quốc tế.
Các đồng tiền của các nước trong khu vực Đông Nam Á đã chịu những
đợt tấn công của các nhà đầu cơ tài chính quốc tế làm đồng tiền mất giá liên tục
kể cả khi ngân hàng trung ương can thiệp lớn cộng với sự giúp đỡ quốc tế.
Ngoài ra còn có các tác động của một số thế lực tài chính phương Tây. Họ muốn
làm giảm giá đồng tiền các nước Đông Nam Á nhằm: một là nâng cao giá trị
đồng USD để có lợi về kinh tế cho nước giàu; hai là dễ bề thúc ép các nước này
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cả chính trị.
2.2

CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG CỦA IMF
Ở các nước bị cuộc khủng hoảng hoành hành, tình trạng sụt giá tiền tệ

cũng như chứng khoán diễn ra mang tính chất dây chuyền nghiêm trọng và khó
chặn đứng. Người ta đổ xô đi mua USD và các ngoại tệ mạnh trong khi các nhà
đầu tư hối hả chuyển vốn ra nước ngoài. Cho đến đầu năm 1998 cuộc khủng

hoảng đẩy lên cao tới cao trào của sự hoảng loạn, kèm theo sự sụp đổ của tiền tệ
là sự rối loạn thị trường chứng khoán. Các nền kinh tế châu Á chao đảo đặc biệt
nghiêm trọng tập trung vào 3 nước Hàn Quốc, Indonexia và Thái Lan. chính
phủ của các nước này lâm vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ nặng nề để ngăn
chặn quá trình phá giá và giải quyết nợ nước ngoài, trong khi đó nguồn đầu tư


14

từ nước ngoài không những giảm mạnh mà còn có xu hướng rút ra càng làm
tình hình thêm khó khăn. Đứng trước tình hình này một số quốc gia lâm vào
khủng hoảng đã đề nghị IMF trợ giúp.
Với mục đích là cung cấp cho các nước hội viên và tín dụng ngắn hạn và
trung hạn khi gặp khó khăn về tiền tệ do cán cân thanh toán thiếu hụt, IMF đã
lập ra các kế hoạch giúp những nước yêu cầu sự giúp đỡ, đồng thời còn để cứu
cả các bên tư nhân nước ngoài khỏi bị vỡ nợ nếu những nước này không được
IMF cấp tiền. Trong chương trình cứu giúp của mình IMF đã đề ra các mục tiêu
chính là : kiên quyết ngăn chặn việc trốn tránh thi hành các nghĩa vụ với nước
ngoài (hàm ý nghĩa trả nợ nước ngoài); khôi phục lại cân bằng tài chính trong
đó đảm bảo cân bằng ngân sách là quan trọng, kiềm chế lạm phát gia tăng; tái
lập và củng cố dự trữ ngoại hối; cải cách hệ thống ngân hàng nâng cao hiệu quả
hoạt động và độ tin cậy của hệ thống này; xoá bỏ độc quyền tiến hành cải cách
sâu rộng khu vực phi tài chính trong nước; khống chế sự suy giảm sản lượng.
Để thực hiện các mục tiêu này, IMF cung cấp cho các nước thành viên
những khoản vay khổng lồ để hỗ trợ chương trình cải cách này. IMF phê duyệt
khoảng 26 tỷ SDR tương đương khoảng 36 tỷ USD trợ giúp các nước yêu cầu
hỗ trợ, khởi đầu việc huy động khoảng 77 tỷ USD tài chính bổ sung từ nguồn đa
phương và song phương để hỗ trợ cho các chương trình cải cách này. Sự trợ
giúp này giúp các quốc gia gặp khủng hoảng, tạm thời ngăn chặn việc xuống giá
tiếp tục của các đồng tiền và tái lập, củng cố dự trữ ngoại hối và quan trọng là

giúp thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, giúp các nhà đầu tư nước ngoài nhận được
món nợ từ các bên tư nhân lẫn nhà nước ở các nước gặp khủng hoảng.
Bên cạnh việc trợ giúp tài chính, IMF giúp đỡ 3 quốc gia bị ảnh hưởng
nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan - giàn xếp các chương trình cải cách


15

kinh tế có khả năng phục hồi lòng tin và được IMF ủng hộ. Chương trình cải
cách kinh tế này nhằm xoá bỏ nguồn gốc của khó khăn thanh toán, ngăn chặn sự
lan truyền của khủng hoảng, khắc phục khủng hoảng và chuẩn bị nền tảng cho
tăng trưởng kinh tế. IMF cho rằng nguyên nhân cơ bản của thiếu hụt cán cân
thanh toán quốc tế là nhu cầu về tiền tệ quá lớn, liên quan trước hết đến việc
tăng quá lớn khối lượng tiền tệ và tăng chi phí của nhà nước. Đồng thời giữa chi
phí sản xuất và giá cả hàng hoá, dịch vụ ở những nước sản xuất chủ yếu không
phù hợp với nhau.
Vì vậy, để khắc phục sự thiếu hụt cán cân thanh toán theo đề nghị của
IMF, cần thực hiện hai phương pháp:
Thứ nhất giảm tổng nhu cầu về tiền nhờ chính sách tiền tệ - tín dụng và
quản lý ngân sách (tăng lãi suất chính thức, dự trữ tối thiểu, hợp lý hoá tín dụng,
hạn chế chi tiêu ngân sách về nhu cầu xã hội, về trợ cấp nhà nước, tăng thuế...);
Thứ hai là phá giá tiền tệ hoặc chuyển sang chế độ thả nổi.
Với cách tiếp cận như trên, IMF buộc áp dụng phương thức tỷ giá hối đoái
linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng phương thức này. Sửa đổi chính sách tài
chính công cộng, các chính phủ phải thực hành tiết kiệm, cắt giảm chi tiêu công
cộng, tăng các nguồn thu ngân sách từ thuế nhằm bảo vệ sự cân bằng tài khoản
vãng lai cũng như tái củng cố dự trữ ngoại hối quốc gia. Theo IMF cả hai nền
kinh tế Đông và Đông Nam Á đều phải thắt chặt chi tiêu ngân sách bằng cách
hoãn hoặc huỷ bỏ tất cả những dự án đầu tư lớn, có độ mạo hiểm cao, đồng thời
thu hẹp khu vực kinh tế nhà nước bằng chương trình tư nhân hoá do sự hoạt

động kinh tế kém hiệu quả, và mối quan hệ khăng khít đến dễ tham nhũng giữa
doanh nghiệp và nhà nước.


16

Các nước phải tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối
với cán cân thanh toán. Theo yêu cầu của IMF, các nước thực hiện thắt chặt tín
dụng trong nước, kiểm soát vấn đề nợ của khu vực tư nhân thật chặt chẽ, hạn
chế vay tín dụng bằng cách buộc các chính phủ phải nâng lãi suất vay lên mức
cao. Cơ sở của chủ trương thắt chặt tín dụng là ép cầu đầu tư cũng như cầu tiêu
dùng của xã hội xuống một mức hợp lý để dần dần sửa chữa hậu quả của nền
kinh tế bong bóng. Ở Thái Lan, chính phủ phải duy trì lãi suất cao (vào khoảng
20%).
IMF nhận định sự yếu kém trong hệ thống tài chính và ở mức độ đáng kể
trong vấn đề quản lý đã gây ra khủng hoảng. Sự kết hợp của quá trình giám sát
lĩnh vực tài chính không đầy đủ. Sự đánh giá và quản lý rủi ro tài chính yếu
kém, sự duy trì tỷ giá hối đoái tương đối cố định đã khiến cho các ngân hàng và
công ty vay một lượng vốn quốc tế, phần lớn trong số đó là ngắn hạn bằng
ngoại tệ và không được bảo hiểm. Theo năm tháng, nguồn vốn nước ngoài có
xu hướng được sử dụng để tài trợ cho những khoản đầu tư không có hiệu quả
kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng không được xây dựng trên
nguyên tắc tôn trọng hiệu quả tối đa mà bị chi phối bởi các mối quan hệ thiếu
lành mạnh giữa chính phủ doanh nghiệp ngân hàng. Do đó, IMF buộc các quốc
gia gặp khủng hoảng phải cải thiện hiệu quả các định chế tài chính trung gian
cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính. Ở Thái Lan, chính phủ phải cải
tổ cơ cấu của khu vực tài chính tập trung vào đình chỉ và cơ cấu lại các thiết chế
không thể đứng vững được (bao gồm 58 công ty tài chính), ở Hàn Quốc chính
phủ phải mở cửa thị trường tài chính cho các ngân hàng nước ngoài, đình chỉ
hoạt động cuả chín ngân hàng đầu tư mất khả năng thanh toán.



17

Nhằm đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai, IMF buộc các nước
gặp khủng hoảng cải cách cơ cấu nhằm xoá bỏ những đặc điểm yếu kém của
nền kinh tế, gây cản trở cho sự phát triển (như độc quyền, hàng rào mậu dịch,
thông lệ không minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp) các nước này
phải điều chỉnh cơ cấu thông qua giảm quan thuế, mở cửa đầu tư cho nước
ngoài vào các ngành kinh doanh và giảm bớt ưu đãi dành cho các tổ chức độc
quyền, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc kế toán phương Tây và bảo đảm độ
trung thực và minh bạch trong kinh doanh.
2.3 ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ
2.3.1 Một số đánh giá
2.3.1.1
Tích cực

CỦA IMF TRONG KHỦNG HOẢNG 1997

IMF mở đường cho các hoạt động đầu tư và các khoản trợ giúp tài chính
của các tổ chức quốc tế cũng như các quốc gia khác. Sau khi IMF thỏa thuận
được với các quốc gia Đông Á về cam kết can thiệp vào khủng hoản và các
điều kiện để nhận khoản viện trợ của IMF, thì các tổ chức tài chính quốc tế khác
như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á và các trợ giúp song
phương khác của Nhật, Mỹ, Anh .. .mới đồng ý giúp tài chính cho các nước này,
IMF đã đóng vai trò trung tâm trong việc giải quyết khủng hoảng. Tổ chức này
đã đứng ra giàn xếp các giải pháp để các nước này được vay số tiền khoảng 117
tỷ USD.
Các khoản trợ giúp tài chính của IMF có tác dụng tốt ngăn chặn sự lây lan
cũng như sự xuống dốc tiếp tục của nhiều nền kinh tế Châu Á. Mặc dù có nhiều

giai đoạn đồng tiền của các nước được IMF cho vay xuống giá liên tục và khủng
hoảng kinh tế sâu sắc hơn nhưng đến bây giờ thì nền kinh tế của các nước
khủng hoảng đã lấy lại tốc độ tăng trưởng cao. Các dấu hiệu phục hồi nền kinh
tế đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 4 – 1999 cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính


18

tiền tệ kéo dài 21 tháng đã qua thời kỳ chạm đáy và tác động xấu của nó phai
nhạt dần.
IMF đã đề ra những biện pháp cải cách cơ cấu kinh tế tài chính phù hợp để
đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai.
Các biện pháp khắc phục do IMF đưa ra có căn cứ trên các nguyên nhân
gây ra sự suy thoái kinh tế ở các nước Đông Á. Mặc dù các biện pháp này gây
đau đớn cho nền kinh tế các nước này nhưng nó là cần thiết. Trước hết để xóa đi
mối quan hệ khăng khít đến mức dễ dàng tham nhũng giữa chính phủ và doanh
nghiệp bằng cách thắt chặt chi tiêu ngân sách và hủy bỏ các dự án đầu tư lớn có
độ mạo hiểm cao, đồng thời thu hẹp khu vực kinh tế nhà nước, chấn chỉnh các
hệ thống tài chính – ngân hàng ở các nước trong khu vực bằng những cải cách
sâu rộng đóng cửa sát nhập, siết chặt hoạt động kiểm toán, quản lý chặt chẽ các
dư nợ làm cho cá ngân hàng hoạt động có hiệu quả tăng tính “trong suốt” của
các hoạt động.
IMF còn buộc các nền kinh tế này điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ở các nước
gặp khủng hoảng, các tập đoàn công nghiệp độc quyền được hưởng nhiều ưu
đãi từ chính phủ nhờ quan hệ thân hữu đã đẩy nền tài chính quốc gia vào thế
yếu nghiêm trọng làm giảm sút hiệu quả đầu tư và sa sút khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Do đó, IMF buộc các nước này phải ngừng ngay lập tức
những ưu đãi, bãi bỏ bảo hộ, tự do thương mại và đầu tư, tư nhân hóa mạnh
mẽ… nhằm giảm thiểu những bất tắc xảy ra do bất ổn về kinh tế - xã hội.
2.4.1.2 Tiêu cực

- IMF đã không dự đoán được cuộc khủng hoảng


19

Các thành viên trao cho IMF nhiệm vụ là đánh giá thành tựu của nền kinh
tế cho toàn thể các thành viên mộ cách trung thực là khảo sát tất cả các khía
cạnh của nền kinh tế nước thành viên do đó việc IMF không dự đoán được
khủng hoảng cũng cần được xem xét.Ngay cả đối với Hàn Quốc, IMF cũng “…
đã không hề nhắc nhở đến vấn đề các đại công ty (chaebol) hay đặt vấn đề nước
ngoài năm chủ quyền ngân hàng, hoặc sửa đổi quản lý ngân hàng là những điều
giờ đây mới xuất hiện trong những chương trình do IMF đề ra”. Đối với
Malaysia ngay hồi tháng 6 – 1997, IMF còn lên tiếng ca ngợi mô hình kinh tế
nước này và khen chính phủ Malaysia là đã giữ vững được cơ cấu tài chính
trong một hoàn cảnh đầy thách đố khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, chỉ bốn
tháng sau đó, IMF lại trở ngược và nặng lời phê phán Malaysia. Thậm chí ngày
6 – 4 – 1998, IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế
ở Châu Á đã qua nhưng ngay sau đó, đồng tiền của các nước này tiếp tục mất
giá chóng mặt đạt các mức lịch sử, các chỉ số chứng khoán tiếp tục giảm …
IMF đã có những biện pháp khắc phục sai lầm hay quá tay.
Những yêu cầu về kinh tế vĩ mô mà IMF đưa ra đều nhằm để ổn định các
đồng tiền và lấy lại chữ tín trên thương trường. Tại Thái Lan, Hàn Quốc và
Indonesia, đồng tiền các nước này tiếp tục mất giá với tốc độ ngày càng tăng,
ngay cả sau khi đã có sự can thiệp của IMF. Điều này cho thấy các chính sách
kinh tế của IMF vừa không trúng đích, vừa không có tác động “kỳ diệu” khôi
phục lòng tin của các thị trường và các nhà đầu tư. IMF cũng đã thay đổi liều
thuốc nhiều lần khi thấy các “bệnh nhân” mình bị dị ứng quá mạnh. Trước viễn
cảnh khó khăn do số người thất nghiệp và mức nghèo đói tăng nhanh tại
Indonesia, IMF đã 5 lần thay đổi đơn thuốc và ngày 20 -10 -1998, đưa ra một số
đề nghị mới trong chương trình cải tổ nhằm kích thích nền kinh tế bằng cách gia



20

tăng mức chi tiêu của chính phủ. Ở Thái Lan cũng vậy, IMF đồng ý chấp nhận
mức thâm hụt ngân sách bằng 1 – 2% GDP ngầm ý công nhận rằng đòi hỏi ban
đầu mà IMF đưa ra với thặng dư ngân sách là sai lầm và có thể thực tế đã góp
phần làm tăng trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng do tác động của nó đối cới
quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.Ở các nước Thái Lan, Hàn Quốc,
Indonesia, một trong những điều đầu tiên IMF đã mang ra thi hành là lập tức bắt
“đóng cửa” một số ngân hàng, việc này làm cho mọi người thêm sợ hãi vội vã
rút tiền ra khỏi ngân hàng không kể tốt xấu và làm mất lòng tin tất cả.
IMF giúp cho cả những người cho và người đi vay tránh khỏi những hậu
quả do những quyết định lựa chọn đầu tư kém không ngoan do họ gây ra. Điều
này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng trong tương lai khi không để cho các
bên tư nhân dính líu, chia sẻ sự thất bại và giải quyết các khó khăn của họ mà lại
dựa vào sự giúp đỡ của IMF. Trong khi đó, người dân phải chịu đững những hậu
quả của cuộc khủng hoảng nhiều nhất với sự sụt giảm mạnh mức sống như là
một điển hình của kết quả IMF can thiệp một điều trái với mục đích của IMF.
Các biện pháp tài chính trọn gói khổng lồ mà IMF đề xuất cho Thái Lan,
Indonesia và Hàn Quốc cũng không thích hợp. Nếu IMF đóng vai trò như một
người cho vay đối với nguồn dự trữ cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng tài
chính và ngăn chặn sự tháo chạy của các nhà đầu tư và chủ nợ thì nguồn vốn
của IMF cần phải được sử dụng cho các khoản chi tiêu tức thời trước mắt chứ
không bị giữ lại cho đến khi các nước này sẵn sang thực hiện các cải cách cơ
bản về cơ cấu.
Cuộc khủng hoảng Châu Á là cuộc khủng hoảng của khu vực tư nhân có
liên quan đến tình trạng vay nợ quá nhiều từ các nguồn tài chính dễ tiếp cận,
tiếp sau việc tự do hóa các tài khoản vốn bắt đầu từ những năm 1980. Vì thế



21

chính sách của IMF yêu cầu tự do hơn nữa ngành tài chính và các luồng lưu
thông tài chính là sai lầm và làm tăng khả năng khủng hoảng trong tương lai.
Mặt khác, cuộc khủng hoảng ở Châu Á là do nằm ở khu vực tư nhân khác
với cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico năm 1994- nơi mà những món nợ chủ
yếu chồng chất lên khu vực kinh tế nhà nước. Do đó biện pháp đòi cắt giảm chi
tiêu cộng cộng là thiếu cơ sở, thậm chí cũng theo Liên Hợp Quốc khi nền kinh
tế đang thương tổn lại bị đè bẹp xuống hơn nữa dưới sức nặng của những bắt
buộc tiết chế nghiêm khắc đã đẩy tỷ giá hối đoái đến những cơn nóng bỏng mới.
Việc tăng tỷ lệ lãi suất lên cao đã làm cho hàng loạt các công ty phá sản gây ra
gánh nặng thất nghiệp. Ngoài ra IMF đã nhân cơ hội các nước bị khủng hoảng
để bỏ qua những quy trình chính trị của các quốc gia và áp đặt những thay đổi
về mặt kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà các đợt phản đối IMF có ở hầu hết
các nước khủng hoảng và sự thay đổi chính phủ ở nhiều nước.

CHƯƠNG 2: CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2007 – 2012
2.1
KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG
Khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 là cuộc khủng khoảng kinh
tế đầu tiên của thế kỷ 21 nhưng không giống các cuộc khủng khoảng kinh tế
trước nó. Có thể gọi đây là cuộc khủng khoảng của các nhà băng, khủng khoảng
tín dụng hay cuộc khủng khoảng "phi vật chất". Thế giới đã thực sự chao đảo,
nghiêng ngả bởi sức lan tỏa của cuộc khủng hoảng này.
2.2 NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 được đánh giá là cuộc khủng hoảng
kinh tế lớn nhất, nặng nề nhất trên thế giới trong hơn 60 năm qua từ sau Đại
khủng hoảng kinh tế Thế giới 1929-1933. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng được



22

xác định là bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài
chính ở Mỹ lại được xác định có nguyên nhân từ việc các ngân hàng thương mại
(NHTM) chovay mua nhà “dưới chuẩn” với một quy mô lớn. Việc một số lượng
lớn người dân đổ xô vào vay tiền ngân hàng (trả lãi và vốn trong một thời gian
dài) là do tình trạng lãi suất ưu đãi và dễ vay mượn ở Mỹ mà Cục dự trữ liên
bang Mỹ (FED) thực hiện để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, cứu nền kinh
tế.
Mỹkhỏi suy thoái sau cuộc khủng hoảng năm 2000-2001 (chỉ từ tháng
5/2001 đến tháng 12/2002, FED đã 11 lần giảm lãi suất cho vay từ 6,5% xuống
còn 1,75%/năm). Còn các NHTM có thể cho người dân vay mua nhà “dưới
chuẩn” đầy rủi ro với một quy mô lớn là do được các công ty tài chính và ngân
hàngđầu tư, trong đó đặc biệt là hai công ty Fanie Mae và Freddie Mac được
Chính phủ Mỹ bảo trợ, “cấp ” bằng cách mua lại các khoản cho vay của các
NHTM, biến chúng thành loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế
chấp để bán lại cho các công ty, các ngân hàng đầu tư lớn khác như: Bear
Stearms, Merrill Lynch…Các công ty tài chính, ngân hàng đầu tư này lại phát
hành trái phiếu trên cơ sở các chứng từ cho vay thế chấp đó để bán cho các ngân
hàng Mỹ khác và ngân hàng nhiều nước trên thế giới làm tài sản tích trữ do uy
tín của các ngân hàng phát hành. Việc “chứng khoán hoá” các khoản vay thế
chấp đã vượt khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Chuỗi hoạt động kinh doanh
mang tính chất đầu cơ đã làm thị trường nhà đất nóng lên, giá nhà đất bị đẩy lên
cao, trở thành “bong bóng”. “Bong bóng” nổ là không thể tránh khỏi. Đó chính
là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính Mỹ, và sự buông
lỏng quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của nhà nước
là nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Mỹ là một



23

quốc gia có nền kinh tế ảnh hưởng sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu, vì thế mà
cuộc khủng hoảng tài chính trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và sau đó
nhanh chóng lan rộng, làm suy giảm kinh tế toàn cầu.
2.3

HẬU QUẢ CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Hậu quả lớn và nặng nề nhất là phá huỷ lực lượng sản xuất, đẩy lùi sự phát

triển của kinh tế thế giới, trước hết là đối với nước Mỹ. Ở Mỹ, cuộc khủng
hoảng tài chính biến thành cuộc khủng hoảng kinh tế, sản xuất suy thoái, thất
nghiệp tăng lên, do đó được xem là cuộc khủng hoảng “3 trong 1”. Cuộc khủng
hoảng làm phá sản hàng loạt ngân hàng và công ty tài chính, kể cả những ngân
hàng, công ty tài chính hàng đầu nước Mỹ. Bear Stearn – một trong những tập
đoàn môi giới chứng khoán và ngân hàng đầu tư hàng đầu phố Wall, đã có bề
dày hoạt động 85 năm trên thị trường tài chính Mỹ, bị thua lỗ nặng nề khi thị
trường nhà đất sụt giá, ngày 16/3/2008 đã tuyên bố phá sản, bị Morgan Chase
mua lại với giá 2 USD một cổ phiếu. Còn Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư
đứng hàng thứ tư ở phố Wall có 158 năm hoạt động, ngày 15/9/2008 đã phải
nộp đơn xin bảo hộ phá sản do thua lỗ, tổng số nợ lên đến 768 tỷ USD.…
Sản xuất và tiêu dùng ở Mỹ cũng rơi vào tình trạng hết sức khó khăn.
Ngành sản xuất ô tô, một trong những ngành sản xuất quan trọng nhất của kinh
tế Mỹ, doanh thu giảm nghiêm trọng. Ba hãng sản xuất ô tô hàng đầu nước Mỹ
là General Motor, Ford, Chrysler đều thua lỗ nặng nề. Tháng 1/2008, Nortel
Networks Corp, một trong những tập đoàn thiết bị viễn thông lớn nhất của Mỹ,
tháng 2/2008, Lyondell Chemical, một trong những nhà sản xuất hoá chất lớn
nhất nước Mỹ, đã phải nộp đơn xin bảo lãnh phá sản… Kinh tế suy thoái, tiêu
dùng suy giảm nghiêm trọng làm hàng loạt các công ty bán lẻ lớn buộc phải phá
sản hoặc xin bảo hộ phá sản. Sản xuất đình đốn, sa thải lao động làm thất nghiệp



24

của Mỹ tăng lên từng tháng và đạt mức cao nhất trong 25 năm trước đó, từ 2,59
triệu người năm 2007 lên 3,84 triệunăm 2008 và 4,61 triệu người vào tháng
2/2009.
Từ Mỹ, cuộc khủng hoảng làm chao đảo thị trường tài chính, thị trường
chứng khoán, làm phá sản nhiều ngân hàng. Theo thống kê, từ cuối năm 2007
đến giữa năm 2009 toàn thế giới đã có khoảng 33 ngân hàng ở các qui mô khác
nhau bị mua lại, 92 ngân hàng phải tuyên bố phá sản.
Bản đồ thế giới cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP thực tế năm 2009. Cuộc
khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 đã có những ảnh hưởng đáng kể
đối với nền kinh tế toàn cầu. Và đây cũng là lúc khẳng định vai trò quan trọng
của IMF trong việc thực hiện các gói cứu trợ cho các quốc gia trên thế giới
trong thời kỳ khủng hoảng.
2.4

CÁC BƯỚC ĐI CỦA IMF TRONG KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
THẾ GIỚI 2008 - 2012
Bước vào quý IV năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế được đẩy lên một

nấc thang mới khi nền tài chính và kinh tế của nhiều quốc gia bị đe dọa nghiêm
trọng. Iceland là nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên quy mô quốc gia. Chính
phủ Iceland đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán, và quốc hữu hóa những
ngân hàng hàng đầu. Từ đó, đồng nội tệ Krona của nước này mất giá trầm trọng
và gần như bị xóa sổ.Trước tình hình trên, ngày 24/10/2008 Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào Iceland, họ đã cho Iceland vay
một khoản tiền trị giá 2,1 tỷ USD khi hệ thống ngân hàng của nước này đối mặt
với sự sụp đổ.



25

Ngày 26 tháng 10 năm 2008, IMF đưa ra gói cứu trợ với Ukraina trị giá
16,5 tỷ USD. Ngày 27 tháng 10 năm 2008, IMF cho Hungary vay khoản tiền trị
giá 15,7 tỷ USD.
Đối với các nước đang phát triển, IMF cam kết cho các nước này vay 175
tỷ USD để ổn định thị trường tài chính (Iceland, Ukraina, Pakistan, Hungari).
Đối với các nước có thu nhập thấp, IMF đã thực hiện một gói cứu trợ toàn
diện để trợ giúp các nước này trong thời kỳ khủng hoảng.Ngay khi cuộc khủng
hoảng lan rộng ra trên toàn cầu, Ban điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã
thông qua các biện pháp chưa từng có để tăng mạnh các nguồn lực sẵn có cho
các nước thu nhập thấp trong cuộc khủng hoảng. Các nguồn tài nguyên bao gồm
từ việc bán vàng của IMF, đẩy mạnh cho vay ưu đãi của Quỹ lên đến $ 17 tỷ
USD cho đến năm 2014, trong đó có tới 8 tỷ USD trong hai năm 2008-2009.
Ngoài ra, IMF thông báo không thanh toán lãi suất trên số dư nợ cho vay ưu đãi
cho đến cuối năm 2011 cho tất cả các thành viên có thu nhập thấp. Một tập hợp
các công cụ cho vay mới được củng cố tăng cường trong gói hỗ trợ này.
IMF tăng cường các nguồn lực ưu đãi: Để đáp ứng với sự gia tăng nhu cầu
tài chính của các nước thu nhập thấp trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
IMF tăng cho vay ưu đãi đáng kể từ 1,2 tỷ USD trong năm 2008 đến 3,8 tỷ USD
năm 2009, và trung bình hàng năm 2,0 tỷ đô la Mỹ trong thời gian 2010-2012.
Lãi suất cứu trợ, IMF thông báo các nước có thu nhập thấp không phải
thanh toán lãi suất trên số dư nợ cho vay ưu đãi của mỗi nước cho đến cuối năm
2011 để giúp các nước vượt qua khủng hoảng.


×