Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nguyên lý thống kê thảo luận các biện pháp chống thâm hụt ngân sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.6 KB, 14 trang )

Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
A. MỞ ĐẦU
Trước đây khi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung, nền kinh tế suy
thoái, trì trệ, phương pháp quản lý yếu kém, ngân sách nhà nước luôn trong tình
trạng thâm hụt nặng nề, thu không đủ chi, vay nợ chồng chất. Sau khi chuyển
sang hoạt động theo cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước, nền tài chính
quốc gia cũng được đổi mới. Vấn đề cấp bách là phải giảm được thâm hụt ngân
sách đến mức cần thiết để hạ thấp cơn sốt lạm phát, ổn định giá cả.
B. NỘI DUNG
I. CÁC KHÁI NIỆM :
1. Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là tổng các kế hoạch chi tiêu, thu
nhập hàng năm của Chính phủ, bao gồm các khoản thu (chủ yếu từ thuế) và các
khoản chi ngân sách.
2. Thâm hụt ngân sách : Gọi B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách, ta có:
B=T–G
Khi

B > 0 ta có thặng dư ngân sách
B = 0 ta có cân bằng ngân sách
B < 0 ta có thâm hụt ngân sách

Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng, ngân sách Nhà nước không cần thiết
phải cân bằng theo tháng, theo năm. Vấn đề là phải quản lý các nguồn thu và chi
sao cho ngân sách không bị thâm hụt quá lớn và kéo dài. Tuy vậy, trong nhiều
nước đặc biệt là các nước đang phát triển, các Chính phủ vẫn theo đuổi một
chính sách tài khóa thận trọng, trong đó chi ngân sách phải nằm trong khuôn khổ
các nguồn thu ngân sách.
Thực ra, trong nên kinh tế thị trường, thâm hụt ngân sách thực tế chưa phải là
một chỉ bảo tốt về chính sách tài khóa của Chính phủ. Thật vậy, một khi nền
kinh tế vận động theo chu kỳ thì chính chu kỳ kinh doanh có tác dụng không
nhỏ đến thâm hụt ngân sách. Người ta dễ dàng nhận thấy thu ngân sách tăng lên


trong thời kỳ phồn thịnh và giảm đi trong thời kỳ suy thoái. Ngược lại, chi ngân
sách tăng trong thời kỳ suy thoái và giảm trong thời kỳ phồn thịnh. Chính vì
vậy, thâm hụt ngân sách sẽ trầm trọng hơn trong thời kỳ suy thoái, bất chấp sự
cố gắng của Chính phủ.

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

1


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Vì lý do trên, để đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến thâm hụt ngân
sách, người ta thường sử dụng ngân sách trong điều kiện nền kinh tế hoạt động ở
mức sản lượng tiềm năng.
Phân biệt 3 khái niệm thâm hụt ngân sách :
1. Thâm hụt ngân sách thực tế : Đó là thâm hụt khi số chi thực tế vượt số
thu thực tế trong thời kì nhất định.
2. Thâm hụt ngân sách cơ cấu : Đó là thâm hụt tính toán trong trường hợp
nếu nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
3. Thâm hụt ngân sách chu kỳ : Đó là thâm hụt ngân sách bị động do tình
trạng của chu kỳ king doanh.
Thâm hụt chu kỳ bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu.
Trong ba loại thâm hụt trên, thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ
quan của chính sách tài khóa như : định ra thuế suất phúc lợi, bảo hiểm... Vì
vậy, để đánh giá kết quả của chính sách tài khóa phải sử dụng thâm hụt cơ cấu.
II. PHÂN TÍCH CÁC BIỆN PHÁP TÀI TRỢ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
1. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nuớc những năm gần đây
Những năm gần đây, tình trạng bội chi ngân sách nhà nước ở nước ta vẫn
còn diễn ra, tuy nhiên, mức bội chi so hiện nay so với giai đoạn những năm 80

của thế kỷ trước đã đạt được nhiều thành tựu.
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ 2001 – 2007
Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm
Số Bội chi
Bội chi so với GDP
2001
25.885
4,67%
2002
25.597
4,96%
2003
29.936
4,9%
2004
34.703
4,85%
2005
40.746
4,86%
2006
48.500
5%
2007
56.500
5%

Nhóm thực hiện: Nhóm 05


2


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô

Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là thành tựu
đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này đă góp phần to
lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những năm 80. Giảm thâm hụt
ngân sách đạt được là do kết quả của những biện pháp cứng rắn như cắt giảm chi
tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ cấp qua giá, lương, trợ cấp cho xí nghiệp
quốc doanh… Nhiều năm thâm hụt giảm xuống dưới 5% so với GDP – một kết
quả đáng khích lệ.
Chúng tôi đưa ra bảng dưới đây để làm kết quả so sánh:
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM TỪ 1987 ĐẾN
1994
Đơn vị tính: Tỷ đồng
1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994
- Thâm hụt ngân sách
130,4 1072 1081 3033 1728 3847 7930 7714
- So với GDP (%)
4,9
8,1 8,1 7,9 2,5 3,8 6,3 5,9
Để đạt được những thành tựu này, chúng ta đã có nhiều đổi mới như: Về hệ
thống thuế: Thuế đã được xem xét đúng với vai trò cơ bản của nó trong cơ chế
thị trường là tạo nguồn thu cho ngân sách, kích thích tăng trưởng, điều chỉnh và
phân phối lại thu nhập. Hệ thống thuế đã và đang được cải cách theo hướng mở
rộng cơ sở thu thuế, tăng tỉ lệ động viên từ thuế so với GDP, đảm bảo công
bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các sắc thuế có nội dung rõ ràng,
đơn giản, dễ hiểu,dễ làm,dễ kiểm tra và không trùng lắp, nhiều sắc lệnh thuế
mới ban hành phù hợp với điều kiên nước ta và thông lệ quốc tế (thuế thu nhập,

thuế đất đai, thuế sử dụng tài nguyên)
Nhóm thực hiện: Nhóm 05

3


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Về chi tiêu ngân sách: Chuyển sang cơ chế thị trường, chi tiêu ngân sách
Nhà nước đã được đặt đúng vị trí của nó là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn
giá cả, định hướng phát triển sản xuất, đồng thời là công cụ điều tiết thu nhập,
đặc biệt thông qua các chương trình xóa đói, giảm nghèo, các chính sách trợ cấp
của Chính phủ.
Chi tiêu ngân sách hàng năm đã được Quốc hội thảo luận và thông qua trong
các phiên họp của mình, thể hiện rõ định hướng của nhà nước trong kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội. Chi ngân sách đã được thực hiên theo nguyên tắc tiết
kiệm, hiệu quả nhằm nâng dần phần tích lũy của ngân sách cho đầu tư phát
triển.Khoản chi thường xuyên của ngân sách thường được khống chế tối đa
trong khuôn khổ khả năng thu ngân sách. Mỗi khoản chi được xác định trên cơ
sở phân định rõ đối tượng và mục đích cụ thể. Tốc độ tăng chi thường xuyên
được khống chế thấp hơn tốc độ tăng chi cho phát triển.....
2. Các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách
Về cơ bản các biện pháp là “ tăng thu và giảm chi” và các biện pháp khác:
Vay nợ trong nước (vay dân); Vay nợ nước ngoài; Sử dụng dự trữ ngoại tệ.
2.1. Biện pháp “tăng thu, giảm chi”
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ được
giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế.... và cắt giảm chi
tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu và giảm chi thế nào để
gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế.
Hệ quả từ mô hính số nhân
m=1/(1-MPC) ; mt= -MPC/(1-MPC) ; m+mt = 1 (số nhân ngân sách cân bằng )

Ý nghĩa : khi chính phủ tăng chi tiêu (G) và tăng thuế (T) một lượng như
nhau thì ngân sách không đổi và sản lượng cân bằng sẽ tăng một lượng
tương ứng ∆Y = ∆G = ∆T
Số nhân ngân sách cân bằng cho ta một ý niệm về sử dụng công cụ thuế và
chi tiêu để tác động vào sản lượng cân bằng. Nếu Chính phủ đồng thời cũng
tăng chi tiêu và tăng thuế lên một lượng như nhau thì sản lượng sẽ tăng lên do
chi tiêu của Chính phủ làm tăng sản lượng nhiều hơn là số sản lượng bị giảm đi
do tăng thuế. Và số tăng lên của sản lượng đúng băng số tăng chi tiêu của Chính
phủ về hàng hoá và dịch vụ.
Các biện pháp tăng thu, giảm chi:
Tăng thu:
Nhóm thực hiện: Nhóm 05

4


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Để bù đắp thâm hụt ngân hụt Chính phủ tăng thu từ thuế. thuế tiêu thụ đặc
biệt tăng lên do mở rộng đối tượng chịu thuế, thuế giá trị gia tăng có xu hướng
đưa về 10% nhưng sẽ thu hẹp đối tượng miễn thuế, mức thuế môn bài tăng lên
3.6 lần, triển khai thuế thu nhập cá nhân, tặng thuế đối với các mặt hàng nhập
khẩu.
Tích cực chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng thu đề ra các biện pháp thu
cụ thể, nắm quản lý tốt các khoản thu truyền thống và xử lý nghiêm các đơn vị
không thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế. Tăng cường hoạt động chống thất thu
ngân sách, tập trung vào các đối tượng nộp thuế ngoài quốc doanh, các đối
tượng kinh doanh vận tải, vật liệu xây dựng.
Chính phủ đề ra các giải pháp thực hiện các biện pháp chống gian lận
thương mại, trốn lậu thuế, đảm bảo tổng thu ngân sách vượt dự toán. Áp dụng
thuế xuất khẩu với một số mặt hàng.

Giảm chi:
Kiểm tra giám sát trong chi tiêu nhằm chi đúng, chi tiết kiệm có hiệu quả
nhất là trong quản lý hành chính. Tổ chức lại bộ máy quản lý Nhà nước sao cho
đơn giản, gộn nhẹ, hoạt động có hiệu quả nhằm chi cho quản lý hành chính.
Cơ chế quản lý tài chinh, tài sản cũng được từng bước đổi mới theo hướng
chặt chẽ hơn, cụ thể hơn đảm bảo yêu cầu chi cần thiết.
Đổi mới cơ chế quản lý biên chế và kinhn phí đối với cơ quan hành chính
và các tổ chức được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động. Theo báo cáo thực hiện
năm 2003 của 30 tỉnh thành phố với 399 cơ quan quản lý hành chính thực hiện
thí điểm khoán đã giảm được 1512 biên chế. Ngoài ra, đối với các việc khoán
chi đã tiết kiệm được 39737 triệu đồng.
2.2. Vay nợ trong nước (Vay dân) :
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công
trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà
nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các
dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ
thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức:
tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.
Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu ngắn hạn dưới 1năm huy động vốn để bù
đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước tạm thời trong năm tài chính.

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

5


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu có thời hạn từ 1năm trở lên huy động
vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước đáp ứng nhu cầu chi đầu tư, phát
triển trong kế hoạch ngân sách nhà nước được duyệt.

Trái phiếu công trình là loại trái phiếu có thời hạn từ 1năm trở lên huy động
cho từng công trình cụ thể theo kế họch đầu tư vủa nhà nước.
Trong những năm gần đây, Việt Nam lên kế hoạch huy động lượng vốn lớn
thông qua trái phiếu chính phủ song tỉ lệ thực hiện không cao.
Năm Số tiền vay trong nước để bù đắp
bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ đồng)
2007 43.000
2006 36.000
2005 32.420
2004 27.450
2003 22.895
2002 18.382
Việc huy động vốn từ trái phiếu vẫn còn thấp là do lãi suất thấp chưa thực sự
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và do tổng sản phẩm quốc nội thấp, thu nhập
bình quân đầu người thấp, số tiết kiệm của dân cư nhỏ, hơn nữa dân chúng chưa
quen với việc mua công trái. Vì vậy nguồn vay của Nhà nước từ dân bị hạn chế,
hoặc nếu có vay được chủ yếu là vay ngắn hạn.
Ưu điểm:
Việc phát hành trái phiếu của Chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập
trung nguồn vốn cho ngân sách nhà nước bởi phát hành trái phiếu không làm
tăng thêm lượng tiền cần thiết lưu thông trên thị trường, không làm tăng sức
mua chung của xã hội, chủ động trong đầu tư. Nhờ hình thức này mà nhà nước
có thể tập trung vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng và những công trình quan trọng
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây cũng là biện pháp cho phép chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân
sách mà không cần phải giảm dự trữ quốc tế.
Vì vậy biện pháp này được coi là một biện pháp hiệu quả để kiềm chế lạm
phát.


Nhóm thực hiện: Nhóm 05

6


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Hạn chế : Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy không gây
ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương
lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc vay từ dân trực tiếp
sẽ làm giảm khả năng của khu vực tư nhân trong vviệc tiếp cận tín dụng và gây
sức ép làm tăng lãi suất trong nước.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện
nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở
nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ
thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có
thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc
huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau.
2.3. Vay nợ nước ngoài:
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài
thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính
phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức
liên chính phủ, tổ chức quốc tế...
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức
liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nứoc nhằm
thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu
là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...
Thực trạng: Nợ nước ngoài của nước ta chưa tới mức nguy hiểm nhưng

chúng ta không thể chủ quan mà ngược lại cần rất thận trọng trong chiến lược
vay và trả nợ nước ngoài. số liệu về tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam trong
sự so sánh với một số tiêu chuẩn quốc tế:
1. Chỉ số nợ công/GDP vào cuối năm 2003 của Việt Nam khoảng 30-40%
trong khi theo tiêu chuẩn của các nước châu Âu muốn tham gia vào khu vực
theo Hiệp ước Maastricht là 60%.
2. Chỉ số trả nợ/xuất khẩu cuối năm 2002 của Việt Nam là 6% trong khi tiêu
chuẩn đối với các nước nghèo mắc nợ cao (HIPC – Heavily Indepted Poor
Countries) là 20%.
3. Giá trị hiện tại của nợ/xuất khẩu cuối năm 2002 của Việt Nam là 70%
trong khi tiêu chuẩn HIPC là 150%.

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

7


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
4. Giá trị hiện tại của nợ/thu ngân sách cuối năm 2002 của Việt Nam là
192% trong khi tiêu chuẩn HIPC là 250%.
Năm

2007
2006
2005
2004
2003
2002

Số tiền vay nước ngoài để

bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
13.500
12.500
8.326
7.253
7.041
7.125

Nguyên nhân:
Thứ nhất, những chỉ tiêu so sánh với HIPC không phải là ngưỡng so sánh
an toàn mà là so sánh với các nước nghèo mắc nợ cao, cần đến sự hỗ trợ quốc tế
thông qua các hình thức cơ cấu lại nợ, trong đó có cả xoá nợ...
Thứ hai, theo “ngưỡng” khuyến cáo của các tổ chức tài chính quốc tế thì
nếu chỉ số nợ nước ngoài/GDP trong khoang 30-50% thì quốc gia đó đang gặp
khó khăn. Trong khi đó số liệu công bố của IMF đến cuối năm 2002 chỉ số này
của Việt Nam đã là 38.3%. Bên cạnh đó với việc duy trì mức độ thâm hụt ngân
sách khoảng 5% GDP như hiện nay, nếu không kiểm soát chặt chẽ hoạt động
vay và trả nợ nước ngoài thì có khả năng các chỉ số về nợ nước ngoài sẽ tăng lên
vượt ngưỡng an toàn.
Thứ ba, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cả GDP và xuất
khẩu của Việt Nam còn nhỏ, dự trữ ngoại hối thấp...
Thứ tư, trong những năm qua số trả nợ của chúng ta còn thấp do hầu hết là
những khoản vay mới chưa đến kì hạn trả nợ, trong những năm tới áp lực trả nợ
sẽ tăng lên mạnh hơn do nhiều khoản vay đã đến hạn trả nợ. Đặc biệt với tình
trạng sử dụng nợ chưa thực sự hiệu quả, nhất là nguồn vốn ODA như hiện nay
thì áp lực về nợ nước ngoài trong tương lai sẽ không nhỏ
Tóm lại, mặc dù tình hình nợ nước ngoài của Việt nam vẫn nằm trong tầm
kiểm soát của chính phủ song chúng ta không thể chủ quan mà đã đến lúc phải

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

8


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
thận trọng hơn trong vay nợ nước ngoài, kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn vay nợ
nước ngoài, đặc biệt là nợ phi chính phủ và ODA
Giải pháp: Đối với hoạt động vay và trả nợ nước ngoài, có 2 vấn đề chính
chúng ta cần quan tâm là hiệu quả vay và sử dụng vay nợ nước ngoài, luôn kiểm
soát được nợ nước ngoài hay đảm bảo tính bền vững trong hoạt động vay và trả
nợ vay nước ngoài.
Cần nâng cao trách nhiệm của đơn vị sử dụng nguồn vay nợ nước ngoài.
Vay nợ nước ngoài hiện nay chủ yếu là ODA. Do vậy, việc sử dụng vốn vay nợ
nước ngoài có một số đặc điểm như sau: việc vay ODA của chính phủ phải chịu
nhiều điều kiện ràng buộc như có dự án, chấp nhận chế độ tài chính của nước
ngoài, mua máy móc thiết bị của nước cung cấp ODA, thuê chuyên gia... Vay
ODA của chính phủ được sử dụng để cho vay lại nên tư tương bao cấp, ỷ lại vào
nhà nước vẫn còn khá lớn, thậm chí có hiện tượng chạy dự án ODA...
Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù
đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế.
Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong
nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhược điểm: Một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt, nợ nước ngoài gia tăng
cũng vậy, nó vừa có ảnh hưởng lại vừa tạo ra những tác động tiêu cực đến nền
kinh tế - xã hội nói chung và tình hình tài chính tiền tệ nói riêng. Các tác động
tích cực của sự gia tăng nợ nước ngoài có thể kể đến là: tăng tiềm lực tài chính,
tăng nguồn thu ngoại tệ đáp ứng các nhu về nhập khẩu hàng hoá, dịch
vụ...nhưng bên cạnh đó cũng nảy sinh rất nhiều tác động tiêu cực như nó sẽ
khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, tăng nguy cơ khủng

hoảng, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ,hoạt động quản lý và kiểm soát
luồng vốn và nhất là luồng ngoại tệ ra – vào quốc gia phức tạp hơn, vấn đề hạn
chế tình trạng đôla hoá cũng trở nên khó khăn hơn. Đồng thời, nó cũng dễ khiến
cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản
vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính
trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
Giải pháp: Để hạn chế được tiêu cực và phát huy tác động tích cực, chính sách
tài chính - tiền tệ cần phải đạt được:
Đầu tiên việc quản lý chính sách tài chính - tiền tệ cần đảm bảo nâng cao
khai thác các nguồn tài chính nội địa, nâng cao hiệu quả phối hợp và sử dụng
tổng thể các nguồn lực tài chính. Việc kiểm soát chặt chẽ sự luân chuyển của
dòng tài chính ra, vào quốc gia cũng hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, chúng ta
phải kiểm soát chặt chẽ sự luân chuyển của dòng ngoại tệ, tránh tình trạng đôla
hoá.
Nhóm thực hiện: Nhóm 05

9


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Việc tính toán, xác định nguồn dự trữ ngoại tệ một cách hợp lý nhằm tối ưu
hoá về mặt chi phí trong điều kiện vẫn bảo đảm nhu cầu thanh toán, nhu cầu rút
vốn và khả năng can thiệp nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ... cũng là một trong
những việc phải làm ngay.
2.4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ:
Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan
hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ dưới dạng ngoại tệ
nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia.
Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân
sách.

Ưu điểm: của việc này là dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh được
khủng hoảng.
Nhược điểm: Việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách
lại tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng. Vì nếu khu vực tư nhân
cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia hết sức mỏng mảnh, thì sự mất
niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối có
thể dãn đến một dòng vốn ồ ạt chảy ra thế giới bên ngoài, làm cho đồng nội tệ
giảm mạnh giá và làm tăng sức ép lạm phát. Kết hợp với việc vay nợ nước ngoài
ở trên, việc giảm quỹ dự trữ ngoại tệ cũng sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm
suy yếu sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước. Nếu dự trữ quá lớn
cũng là một trong những yếu tố dẫn đến lạm phát. Mặt khác, chi phí cho dự trữ
quá lớn cũng rất tốn kém. Ngược lại nếu dự trữ không đảm bảo khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn cũng rất nguy hiểm vì dự trữ ngoại tệ là phương tiện
cuối cùng của nền kinh tế quốc gia nhằm mục đích phòng vệ.
Ngoài ra Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách có thể đi vay Ngân hàng
Trung ương để bù đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung
ương sẽ tăng việc in tiền. Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó
được gọi là tiền tệ hoá thâm hụt.
Ưu điểm của biện pháp này là nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà
nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh
thêm các gánh nặng nợ nần.
Nhưng, nhược điểm của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần. Việc in
thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho
việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi. Trong những năm 80 của thế kỷ
20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

10



Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền
kinh tế bị trì trệ...
Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ
năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước.
2.5. Một số hạn chế khác trong việc bù đắp nhân sách nhà nước ở Việt Nam
2.5.1- Đi vay trong nước thông qua việc phát hành chứng khoán nợ của
Chính phủ:
Do thị trường thứ cấp ở Việt Nam kém phát triển, uy tín tài chính quốc gia
thấp, hình thức và chủng loại chứng khoán nghèo nàn, năng lực quản lý nợ công
còn nhiều hạn chế nên nợ Chính phủ dưới dạng trái phiếu và tín phiếu kho bạc
rất thấp, chiếm khoảng 2,7%GDP. Trong khi đó, nợ nước ngoài của Chính phủ
tính đến 30/6/2994 chiếm 31,5%GDP, điều này đồng nghĩa với việc trong những
năm tới nghĩa vụ trả nợ (gốc và lãi) của Chính phủ tăng, hậu quả là gây áp lực
lên tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế, khi đó sẽ tác động tiêu cực lên
cân đối tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngay cả di vay, dường như Chính phủ
cũng “sính ngoại” hơn! Diễn biến thị trường trái phiếu Chính phủ thời gian vừa
qua đã phản ảnh sự yếu kém của quản lý Ngân sách hiện nay, và đó cũng là kết
quả tất yếu của tình trạng thiếu sự đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách
tài khoá.
Sự bất cập còn thể hiện ở việc hàng năm, Ngân hàng Nhà nước tính toán
mức cung ứng tiền, điều tiết khối lượng tiền phải do Chính phủ phê duyệt. Để tài
trợ cho thâm hụt Ngân sách, chính sách tiền tệ cần phải tính toán kỹ để xác định
khối lượng tiền cần bơm, hút, trong khi đó Bộ Tài chính lại quy định tần suất
tiến hành hoạt động các phiên đấu thầu chứng khoán nợ, quy định lãi suất chứng
khoán Chính phủ và lãi suất trái phiếu phát hành qua Ngân hàng Nhà nước luôn
bị đẩy lên tối đa. Điều này gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước.

Khi chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá theo đuổi những mục tiêu khác
nhau dẫn tới có sự xung đột ngoài qui luật thị trường. Chính sách tiền tệ thắt
chặt làm giảm lạm phát nhưng có thể làm cho nền kinh tế phát triển chậm lại,
thậm chí dẫn tới suy thoái, dẫn đến nguồn thu Ngân sách bị giảm, khi đó Chính
phủ lại phải đi vay và làm tăng cầu tiền tệ dẫn đến biến động lãi suất, gây mất ổn
định thị trường tài chính. “Vòng tròn” luẩn quẩn này sẽ mãi là bài toán cực khó
gỡ nếu không có một cơ chế minh bạch hoá theo hướng buộc mối quan hệ nói
trên phải tuân thủ nghiêm ngặt cơ chế quan hệ giữa “con nợ” và “chủ nợ” theo
đúng qui luật thị trường.

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

11


Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
2.5.2- Chính sách tiền tệ tài trợ thâm hụt Ngân sách thông qua việc Ngân
hàng Nhà nước trực tiếp chi cho Chính phủ vay:
Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải cung ứng một lượng tiền không
nhỏ cho NGÂN SÁCH NHÀ NƯớC để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯớC và khoản tiền này phải hoàn trả trong năm Ngân sách theo
Luật định. Tuy nhiên thực tế các khoản tạm ứng này thường không có đảm bảo
và không được hoàn trả trong năm theo đúng như luật định. Bên cạnh đó, các
khoản mục cho vay Chính phủ ròng trên bảng cân đối tài sản của Ngân hàng
Nhà nước và bảng cân đối tiền tệ toàn ngành biến động mạnh vì Chính phủ
thường xuyên phát hành trái phiếu, tín phiếu. Theo đó tiền hút về hoặc bơm ra từ
kênh tiền gửi Chính phủ và cho vay Chính phủ tương đối lớn, mà tiền gửi của
Chính phủ tại các NHTM chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của Chính phủ tại hệ
thống Ngân hàng đã hạn chế tới việc kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước . Khi Chính phủ gửi tiền tại các NHTM thì lượng tiền này lại có khả năng

tạo tiền và do vậy tác động tới M2 làm cho Ngân hàng Nhà nước khó có thể
kiểm soát được. Chính vì thế ngân hàng Nhà nước sẽ bị động trong quá trình
điều hành chính sách tiền tệ.
2.5.3- Chính sách tiền tệ tài trợ thâm hụt NGÂN SÁCH NHÀ NƯớC thông
qua việc Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn cho các NHTM.
Việc Ngân hàng Nhà nước cung ứng tiền để tài trợ cho thâm hụt NGÂN
SÁCH NHÀ NƯớC là không nhỏ, song so với khoản tái cấp vốn cho các NHTM
NN được sử dụng cho mục đích Ngân sách có nguy cơ gây nên những tác động
bất lợi cho điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước . Tính độc lập
của Ngân hàng Nhà nước trong bộ máy của Chính phủ còn hạn chế đã tạo sự
phụ thuộc của chính sách tiền tệ vào chính sách tài khoá là điều không tránh
khỏi. Bên cạnh đó, việc phải theo đuổi đa mục tiêu có nhiều khả năng xung đột
với nhau trong trung và dài hạn, đặc biệt là ổn định giá trị đồng tiền và tăng
trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ do đó còn phải chịu sự tác động bởi áp lực và
phải neo vào các mục tiêu ngắn hạn của Chính phủ.
Tuy vậy nhưng không thể nói là việc thực hiện bù đắp ngân sách nhà
nước chỉ toàn hạn chế chứ không đạt được gì và những điều đạt đc đó thể
hiện cụ thể như sau:
Đối với vay nước ngoài, thực hiện chính sách chỉ vay ưu đãi nước ngoài,
không vay thương mại nước ngoài cho đầu tư phát triển. Đối với những khoản
vay thương mại nước ngoài và nợ quá hạn trước đây đã được xử lý qua Câu lạc
bộ Pari và Câu lạc bộ Luân Đôn. Thực hiện xử lý nợ với Nga, Angiêry,....Nhờ
thực hiện tốt quá trình cơ cấu lại nợ, cũng như chính sách vay mới mà dư nợ
Chính phủ hiện nay ở mức 35% GDP vào năm 2005, mức an toàn, đảm bảo an
ninh tài chính quốc gia.
Nhóm thực hiện: Nhóm 05

12



Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô
Đối với vay nợ trong nước: hàng năm Ngân sách phải huy động một khoản
tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi Ngân sách. Để việc huy
động vốn không ảnh hướng lớn đến thị trường tiền tệ, đến lãi suất, Bộ Tài chính
thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn rỗi từ các quỹ tài chính
Nhà nước như: Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Tích lũy trả nợ,...phần còn thiếu sẽ
thực hiện phát hành trái phiếu và tín phiếu Chính phủ. Đối với tín phiếu (loại
thời hạn dưới 1 năm), thực hiện phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đấu thầu
(đấu thầu về lãi suất) qua Ngân hàng Nhà nước, đây là biện pháp vừa để đảm
bảo nguồn bù đắp bội chi cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời cũng tạo điệu
kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi, chưa cho vay được thực
hiện mua tín phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều tổ chức tín dụng
đã mua tín phiếu kho bạc).

C. KẾT LUẬN
Có nhiều biện pháp có thể sử dụng để tài trợ cho thâm hụt. Mỗi biện pháp
đều có thể gây nên những ảnh hưởng phụ đến nền kinh tế. Nghệ thuật quản lý vĩ
mô là phải làm sao cho hạn chế và trung hoà các ảnh hưởng này, làm cho chúng
không gây nên những tác động xấu đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Nhìn lại quá trình cải cách kinh tế, thành tựu nổi bật nhất trong thời kì đầu
chuyển đổi cơ chế là việc giảm một cách đáng kể thâm hụt ngân sách nhà nước.
Thành tựu này đã góp phần to lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối
những năm 80. Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của những biện
pháp cứng rắn như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xoá bỏ dần các loại trợ cấp qua
giá, lương, trợ cấp cho xi nghiệp quốc doanh...

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

13



Bài thảo luận Kinh tế học vĩ mô

Nhóm thực hiện: Nhóm 05

14



×