Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

CÁC KHÍA CẠNH CHÍNH SÁCH của của FDI tại các nước ĐANG PHÁT TRIỂN chủ đề 1 – các CHÍNH SÁCH QUỐC GIA cơ bản về FDI tại các nước ĐANG PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.07 KB, 107 trang )

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
CÁC KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VÀ KINH TẾ CỦA CÁC THỎA THUẬN ĐẦU TƯ
QUỐC TẾ (IIAs)

HỌC PHẦN 2
CÁC KHÍA CẠNH CHÍNH SÁCH CỦA FDI TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Mục lục
Giới thiệu về học phần 2
Chủ đề 1: Các chính sách FDI quốc gia chủ yếu tại các nước đang phát triển
Chủ đề 2: Các quy tắc quốc tế chính về FDI
Thuật ngữ


GIỚI THIỆU HỌC PHẦN 2
Vì các quốc gia tìm cách thu hút FDI theo hướng có lợi nhất cho nền kinh tế
và phát triển của quốc gia mình, các chính sách quốc gia và quốc tế có thể giúp hạn
chế các chi phí và rủi ro tiềm năng của FDI và tăng đóng góp của nó cho các nền
kinh tế chủ nhà. Trong vài thập kỷ gần đây, các quốc gia đang phát triển đã chú
trọng cải thiện khung chính sách quốc gia về FDI của mình cũng như tham gia vào
các thỏa thuận quốc tế tại cấp độ song phương, khu vực và liên khu vực.
Khi xây dựng và thực thi các chính sách FDI, các quốc gia đang phát triển
hướng vào thu hút FDI, thu được lợi ích lớn nhất có thể từ dòng vốn này và giải
quyết các lo ngại về FDI. Trong một vài thập kỷ qua, phần lớn nỗ lực của các nước ở
cấp độ quốc gia đã tập trung vào việc tạo ra một môi trường đầu tư ổn đinh, thân
thiện và có khả năng dự báo, thông qua tự do hóa, xúc tiến và bảo hộ đầu tư nước
ngoài. Nhưng nhiều nước đã rất cẩn trọng trong những nỗ lực này, sử dụng các
công cụ với mong muốn tiếp cận tốt hơn các mục tiêu phát triển. Thêm vào đó, khi
cạnh tranh thu hút FDI gia tăng, các hoạt động và công cụ xúc tiến đầu tư mà các
nước chủ nhà sử dụng trở nên phức tạp hơn. Cách tiếp cận gần đây trong xúc tiến
đầu tư tìm cách gắn các chiến lược của công ty con nước ngoài với các lợi thế địa


điểm của nước chủ nhà cũng như các nhu cầu phát triển thông qua xúc tiến đầu tư
có định hướng.
Ở cấp độ quốc tế, sự gia tăng đáng kể của các thỏa thuận đầu tư và liên quan
đến đầu tư tại cấp độ song phương, khu vực, liên khu vực và đa biên, bùng nổ khi
thiếu một sự nhất trí chung về một thỏa thuận đa phương, đã tạo ra một khung chính
sách đầu tư quốc tế phức tạp, không phải lúc nào cũng toàn diện và rất thách thức
đối với các các nước chủ nhà, đặc biệt các nước chủ nhà đang phát triển. Các hiệp
định đầu tư song phương (BITs), Hiệp định tránh đánh thúê hai lần (DTTs) và các
dạng thỏa thuận song phương, khu vực và liên khu vực khác với các điều khoản đầu
tư đã nâng số lượng các quy định đầu tư quốc tế lên mức kỷ lục. Điều này đi kèm
với việc gia tăng số lượng các tranh chấp đầu tư quốc tế. Việc ban hành các quy
định đầu tư quốc tế dường như sẽ gia tăng trong những năm sắp tới: nhiều IIAs hiện
nay đang được đàm phán hoặc tái đàm phán, và đầu tư ngày càng được đưa vào
các thỏa thuận bao hàm nhiều vấn đề, như thương mại hàng hóa và dịch vụ và các
nhân tố sản xuất khác.
Các quy định đầu tư quốc tế nhiều tầng lớp đã có tác động đến không gian
chính sách của nước chủ nhà. Một số vấn đề chính trong các chính sách quốc gia,


chủ yếu là những vấn đề liên quan đến thâm nhập, hoạt động và bảo hộ đầu tư có
thể tương tác theo phương thức phức tạp với các cam kết quốc tế của một quốc gia.
Sự linh hoạt của các chính phủ trong việc theo đuổi thành công các mục tiêu phát
triển của mình đòi hỏi các cam kết quốc tế của một nước phải gắn kết và phù hợp
với các chính sách quốc gia của nó. Điều này tạo ra một thách thức không chỉ với
việc đàm phán và xây dựng IIAs mà còn việc thực hiện chúng.
Học phần 2 bắt đầu bằng việc đánh giá các khía cạnh chính của chính sách
FDI tại cấp độ quốc gia (chủ đề 1). Sau đó, xem xét các đặc điểm chính của khung
chính sách đầu tư quốc tế bao gồm quá trình phát triển và những xu hướng gần đây
trong IIAs và các vấn đề chính về hợp tác liên quan đến mối quan hệ giữa các chính
sách quốc gia và quốc tế liên quan đến FDI (chủ đề 2).



CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
CÁC KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VÀ KINH TẾ CỦA CÁC THỎA THUẬN ĐẦU TƯ
QUỐC TẾ (IIAs)

HỌC PHẦN 2
CÁC KHÍA CẠNH CHÍNH SÁCH CỦA CỦA FDI TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN

CHỦ ĐỀ 1
CÁC CHÍNH SÁCH QUỐC GIA CƠ BẢN VỀ FDI TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN
MỤC LỤC
A. Tổng quan
B. Mục đích nghiên cứu
C. Sách hướng dẫn
1. Chính sách quốc gia về FDI: mục đích chính và các giải pháp
1.1.

Thu hút FDI

1.2.

Lợi ích từ FDI

1.3.

Lo ngại về tác động của FDI


2. Quá trình hình thành và phát triển của các chính sách về FDI
3. Các vấn đề chính trong chính sách FDI cấp độ quốc gia
3.1.

Định nghĩa

3.2.

Đối xử quốc gia

3.3.

Quốc hữu hóa, tước quyền sở hữu và trưng thu theo quy


định
3.4.

Giải quyết tranh chấp

3.5.

Yêu cầu hoạt động

3.6.

Các biện pháp ưu đãi

3.7.


Chuyển giao công nghệ

3.8.

Cạnh tranh

4. Xúc tiến đầu tư
4.1.

Ba thế hệ xúc tiến đầu tư

4.2.

Các nhân tố chính của xúc tiến đầu tư

5. Điều hành tốt và xúc tiến đầu tư
5.1.

Khả năng dự báo

5.2.

Khả năng chịu trách nhiệm

5.3.

Tính minh bạch

5.4.


Tính tham dự

D. Bài tập thực hành
E. Tài liệu tham khảo
F. Phụ lục


A. TỔNG QUAN
Các nước đang phát triển đang nỗ lực thu hút FDI cũng như khai thác tối đa
những lợi ích từ nó. Các quốc gia này đã và đang hướng đến những chính sách linh
hoạt hơn với thị trường và cơ chế tự do hóa để thu hút FDI cho nền kinh tế, điều này
giống như những gì các nước phát triển từng làm trước đây. Tuy nhiên, nhiều quốc
gia vẫn còn thận trọng trong vấn đề này vì cho rằng cấu trúc thị trường của mình còn
yếu kém và sự phát triển phải cần đến nhiều tác nhân hơn nữa. Vì vậy, họ tập trung
soạn thảo cũng như sử dụng các công cụ chính sách hoặc các biện pháp trực tiếp
hướng đến các mục tiêu phát triển của mình, trên cả 2 khía cạnh là thu hút đầu tư và
đạt được các mục tiêu trong các lĩnh vực tác động của FDI.
Như đã lưu ý trong phần thảo luận về chính sách với vai trò là nhân tố quyết
định FDI ở nước nhận đầu tư (học phần 1, chủ đề 2), thì một khung chính sách của
một quốc gia đối với vấn đề FDI sẽ bao gồm 2 loại chính sách: chính sách cốt lõi,
hay còn được hiểu là các chính sách liên quan trực tiếp đến FDI, và các chính sách
khác có tác động gián tiếp tới FDI. Phần nghiên cứu này chỉ tập trung vào các chính
sách có mối quan hệ trực tiếp với FDI, đó là các chính sách về gia nhập thị trường,
đối xử quốc gia, bảo hộ và khuyến khích FDI và đảm bảo cạnh tranh – và song song
với chúng là các biện pháp và công cụ giúp triển khai thực hiện. Ngoài ra, phần này
cũng xem xét các cách thức và phương thức theo đó thúc đẩy cơ chế điều hành tốt
trong xúc tiến đầu tư để bổ sung cho các biện pháp xúc tiến đầu tư.
Nỗ lực của các nước nhận đầu tư trong việc xây dựng các cơ chế FDI vừa
thân thiện với nhà đầu, vừa quan tâm đến những ưu tiên phát triển của đất nước đã
được thực hiện cùng với những nỗ lực và chính sách ở cấp độ quốc tế. Trong bối

cảnh đó, những vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt cũng cần
được xem xét trong sự tương tác giữa các chính sách, công cụ chính sách của quốc
gia cũng như các cam kết quốc tế. Các chính sách này liên quan đến việc đối xử với
FDI trên các khía cạnh như: thâm nhập thị trường và hoạt động kinh doanh sau đó
của các công ty con nước ngoài; quốc hữu hóa hoặc tước quyền sở hữu tài sản kể
cả gián tiếp tước quyền sở hữu tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài và cơ chế bồi
thường tương ứng; cơ chế giải quyết tranh chấp; áp dụng những biện pháp ưu đãi
hoặc các yêu cầu hoạt động; khuyến khích chuyển giao công nghệ: và đảm bảo
cạnh tranh kể cả việc kiểm soát các hành vi hạn chế kinh doanh của các công ty


nước ngoài. (Tất cả những vấn đề nêu trên và các vấn đề khác cũng được phân tích
theo quan điểm của IIAs trong học phần 3 của tài liệu này).
Những nỗ lực xúc tiến đầu tư – ở đây chỉ xét trên các phương diện như quảng
bá thông tin tại nước chủ nhà, mang đến cơ hội cho nhà đầu tư và quá trình thuyết
phục nhà đầu tư,.. sẽ chủ yếu thực hiện ở cấp quốc gia. Trong bối cảnh cạnh tranh
giữa các quốc gia trong thu hút FDI ngày càng gia tăng thì các nước cũng đã sử
dụng nhiều kỹ thuật quảng bá tinh vi, đồng thời đưa ra hàng loạt các dịch vụ hỗ trợ
nhà đầu tư nhằm thu hút cũng như giữ chân các nhà đầu tư lớn. Tuy nhiên, xúc tiến
đầu tư muốn thành công phụ thuộc vào nhiều yêu cầu vĩ mô như một cơ chế điều
hành tốt ở nước chủ nhà, trong đó có các yêu cầu về khả năng chịu trách nhiệm, khả
năng dự báo, tính minh mạch và tính tham dự.
B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Sau khi nghiên cứu học phần này, học viên có thể:


hiểu được mục đích chính của các biện pháp và chính sách quốc gia về FDI;




có thể liên hệ giữa các biện pháp và chính sách quốc gia về FDI với mục đích
chính của chúng;



hiểu và phân tích được quá trình hình thành và phát triển của các chính sách
về FDI, đặc biệt ở các nước đang phát triển;



hiểu và phân tích các vấn đề chính trong việc xây dựng chính sách quốc gia
về FDI trong bối cảnh các thỏa thuận đầu tư quốc tế;



hiểu được các biện pháp khuyến khích đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh về
FDI;



hiểu được vai trò của một cơ chế điều hành tốt trong xúc tiến đầu tư và phân
tích các thành phần chính của cơ chế đó.

C. SÁCH HƯỚNG DẪN
1. CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VỀ FDI: MỤC ĐÍCH CHÍNH VÀ CÁC BIỆN PHÁP
Các chính sách về FDI của nước nhận đầu tư nhằm ba mục đích chính là thu
hút FDI, đảm bảo nền kinh tế chủ nhà có thể khai thác triệt để các lợi ích kinh tế từ


FDI và nhận diện những tác động tiêu cực tiềm năng của FDI đối với nền kinh tế

nước chủ nhà. Các nước đang phát triển sử dụng một hệ thống các chính sách và
biện pháp ở cấp độ quốc gia để theo đuổi các mục đích này trong bối cảnh các nỗ
lực phát triển của mình.
Như đã lưu ý trong phần thảo luận về các nhân tố quyết định FDI (học phần 1,
chủ đề 3), các chính sách về FDI bao gồm các chính sách liên quan trực tiếp đến
FDI – hay còn gọi là chính sách "cốt lõi" – và những chính sách có liên quan gián tiếp
đến FDI – chính sách "vòng ngoài". Phần trình này cũng như các phần sau của tài
liệu sẽ tập trung vào các chính sách FDI cốt lõi và các biện pháp liên quan mặc dù,
như đã phân tích trong phần thảo luận về các nhân tố quyết định FDI, những chính
sách không cốt lõi như các chính sách liên quan đến thương mại và thuế quan cũng
có những ảnh hưởng mạnh mẽ lên dòng vốn FDI. Các chính sách và biện pháp cốt
lõi được định nghĩa là các chính sách, luật lệ và quy định liên quan đến việc thâm
nhập thị trường và hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài, các tiêu chuẩn về đối
xử của nước chủ nhà đối với nhà đầu tư (về phân biệt đối xử hoặc thiếu tiêu chuẩn
đối xử cũng như bảo hộ), và việc thực chức năng của thị trường (WIR 1998, trang
92, học phần 1, chủ đề 3). Việc xúc tiến đầu tư và các biện pháp liên quan, có tác
động trực tiếp đến dòng và các hoạt động FDI nhưng về bản chất tạo điều kiện cho
FDI hơn là cần thiết để FDI diễn ra, cũng được xếp trong nhóm biện pháp cốt lõi.
Để theo đuổi các mục đích như thu hút, có được lợi ích từ về FDI cũng như
xem xét những nguy cơ liên quan đến FDI và tác động của nó, các quốc gia đã sử
dụng các biện pháp liên quan đến một hoặc một số chính sách cốt lõi như đã nêu ở
trên. Các biện pháp được sử dụng để đạt một mục đích có thể chồng chéo hoặc
thâm chí mâu thuẫn với những biện pháp cần để đạt được mục đích khác. Phạm vi
cũng như sự đa dạng của các biện pháp sử dụng nhằm đạt được 3 mục đích đề cập
ở trên và các mục đích khác (như những mục đích gắn với đầu tư nói chung bao
gồm đầu tư trong nước và FDI) sẽ được minh họa trong Phụ lục 2, từ bảng A.1 đến
A.4. Các biện pháp đặc thù liên quan đến việc tăng cường ảnh hưởng tích cực của
FDI trong nhiều lĩnh vực trọng điểm cũng được đề cập trong tài liệu về FDI và phát
triển (học phần 1, chủ đề 4).
1.1. Thu hút FDI



Có nhiều cách để các quốc gia thu hút FDI. Họ có thể thông qua các chính
sách ưu đãi đối với việc gia nhập thị trường của nhà đầu tư nước ngoài cũng như
cho phép thành lập các công ty nước ngoài. Bên cạnh đó, họ cũng có thể ưu đãi
bằng cách bảo hộ tài sản của nhà đầu tư và tạo điều kiện cho việc chuyển các quỹ
về nước. Họ cũng có thể khuyến khích dòng vốn FDI vào nước - một cách tổng thể bằng cách không chú trọng thu hút các dự án đầu tư đặc biệt nào hoặc lựa chọn và
chỉ giới hạn một vài nhà đầu tư, địa bàn đầu tư và lĩnh vực đầu tư.
Các biện pháp để hiện thực hóa chính sách phải được triển khai trên cơ sở
kết hợp. Ví dụ như chính sách thông thoáng đối với nhà đầu tư nước ngoài thường
được kết hợp với các công cụ khuyến khích đầu tư nhằm tạo lập một môi trường
đầu tư tốt hơn và những nỗ lực nhằm thu hút được các dự án đầu tư mong muốn.
Cách thức mà các quốc gia đã và đang tìm kiếm để gia tăng số lượng các dự
án đầu tư là (WIR 2003, trang 87):


Giảm thiểu những rào cản đối với FDI thông qua việc dở bỏ các giới hạn về
gia nhập thị trường và thành lập công ty cũng như những giới hạn đối với hoạt
động của các công ty nước ngoài.



Nâng cao các tiêu chuẩn về đối xử với nhà đầu tư nước ngoài bằng cách
không phân biệt đối xử đối với các nhà đầu tư nước ngoài và, tốt hơn nữa, là
không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài



Bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài thông qua các chính sách đền
bù trong trường hợp quốc hữu hóa hoặc truất quyền sở hữu, các cơ chế giải

quyết tranh chấp và đảm bảo cho việc chuyển lợi nhuận về nước.



Khuyến khích dòng vốn FDI vào trong nước thông qua ác biện pháp quảng bá
hình ảnh nước chủ nhà, cung cấp thông tin về các cơ hội đầu tư, đưa ra các
công cụ khuyến khích đầu tư và tạo điều kiện cho FDI thông qua cơ chế hành
chính và pháp lý phù hợp hoặc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau đầu tư.

Câu hỏi 1
Nêu các cách thức mà thông qua đó một quốc gia có thể thu hút FDI. Hãy
đưa ra ví dụ từ thực tiễn quốc gia hoặc khu vực bạn đang đang sống.


Nhìn chung, khuynh hướng của các chính sách thu hút FDI vẫn là giảm những
rào cản, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư và khuyến khích FDI. Tuy vậy,
các biện pháp áp dụng ở từng quốc gia là khác nhau bởi những lợi thế về vị trí địa lý
là khác nhau, tính kinh tế của các biện pháp cũng khác nhau và các quốc gia cũng
quan niệm khác nhau về cách tốt nhất để thu hút FDI.
1.2. Lợi ích từ FDI
Thu hút được FDI không đồng nghĩa với việc nước nhận đầu tư sẽ hưởng lợi
tối đa từ nó. Các nhà đầu tư nước ngoài phản ứng lại với các cơ hội đầu tư thông
qua chiến lược và mục tiêu lợi nhuận của họ, và kết quả kinh doanh của họ không
nhất thiết phải đem lại lợi ích cho phát triển của nước nhận đầu tư theo mức hoặc
theo phương thức mong đợi,. Tuy nhiên, các chính sách mà các nước đang phát
triển đưa ra cũng có thể khiến các nhà đầu tư hành động theo cách mang lại nhiều
lợi ích cho quá trình phát triển, thông qua việc chuyển giao công nghệ, nâng cao tay
nghề lao động trong nước, sử dụng nguồn cung ứng nội địa, v.v.
Các chính sách và biện pháp cơ bản mà các quốc gia sử dụng để tối đa hóa
những tác động tích cực của FDI đối với quá trình phát triển gồm có (WIR 2003,

trang 87):


Biện pháp bắt buộc. Các biện pháp này quy định những gì các công ty con
nước ngoài phải thực hiện trong phạm vi các khía cạnh hoạt động nhất định
liên quan đến các mục tiêu phát triển của nước nhận đầu tư, ví dụ như gia
tăng xuất khẩu, thuê và đào lao động trong nước hoặc chuyển giao công
nghệ. Chẳng hạn, những biện pháp hoặc các yêu cầu hoạt động này đòi hỏi
các công ty con nước ngoài phải đạt được một hạn mức xuất khẩu hàng hóa
hoặc dịch vụ sản xuất ra hoặc quy định mua sắm một số mặt hàng trong phạm
vi lãnh thổ nước chủ nhà hoặc chuyển giao một phần dây chuyền sản xuất.
Tuy nhiên, các biện pháp bắt buộc này ngày nay không còn được ưa chuộng
do một số lý do (WIR 2003, trang 119-120) như: WTO không có phép sử dụng
các biện pháp có thể gây bóp méo thương mại, hoặc dễ xảy ra nguy cơ sụt
giảm FDI và ảnh hưởng đến cạnh tranh nếu hạn chế các nhà đầu tư trong
việc lựa chọn nguồn lực cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của họ và
nguy cơ biến dạng nguồn lực trong nước; và lý do cuối cùng là vì các biện


pháp thân thiện với thị trường nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển đang trở nên
được ưa chuộng hơn.


Khuyến khích các công ty con nước ngoài hoạt động theo cách mong đợi
thông qua việc đưa ra ưu đãi đầu tư. Bên cạnh các hình thức khuyến khích
đầu tư như cung cấp thông tin đặc thù hoặc hợp tác giữa chính phủ nước
nhận đầu tư và các công ty con nước ngoài thì đưa ra ưu đãi đầu tư cũng là
một hình thức khuyến khích đầu tư quan trọng. Ưu đãi đầu tư được hiểu là
các biện pháp (như giảm thuế, cung cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các yếu tố đầu
vào cho sản xuất hoặc ưu đãi tín dụng) mà có thể giúp tăng tỷ suất thu hồi

vốn của các dự án FDI cũng như có thể giảm thiểu chi phí và rủi ro của dự án.
Các biện pháp này nếu được áp dụng sẽ gây ảnh hưởng lên hành vi của các
công ty nước ngoài, chẳng hạn như đối với vấn đề tạo việc làm và cung cấp
các dịch vụ đào tạo. Trong vài trường hợp, các ưu đãi đầu tư phải có sự liên
hệ chặt chẽ với các yêu cầu về hoạt động của công ty. Tuy nhiên, cần lưu ý là
các ưu đãi đầu tư không tự động tác động đến quyết định đầu tư và trong một
số trường hợp chi phí của các ưu đãi đầu tư này có thể vượt hơn so với lợi
ích thu được từ các dự án FDI đã vào hoặc đang hướng tới (xem thêm trong
học phần 1, chủ đề 3).
Khi xem xét các chính sách và biện pháp có thể trực tiếp giúp tối đa hóa lợi

ích của hoạt động FDI thì các nước nhận đầu tư cũng nhận thức được rằng họ chỉ
có thể gây ảnh hưởng lên hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài theo hướng
tăng cường tính hiệu quả của FDI một khi củng cố được năng lực quốc gia mình:
công nghệ mới chỉ có thể được khuếch tán rộng rãi chỉ khi nước chủ nhà có nền
tảng kỹ thuật tương đối đầy đủ hoặc khi các nhà cung cấp và đối thủ cạnh tranh
trong nước đáp ứng yêu cầu của các TNC và học hỏi được từ họ; hoặc xuất khẩu chỉ
có thể tăng trưởng khi chất lượng của cơ sở hạ tầng đáp ứng được. Vì vậy, chính
phủ các nước đang tập trung soạn thảo và triển khai các chính sách để xây dựng
năng lực quốc gia, và, bên cạnh các yếu tố khác, dựa vào các công ty con nước
ngoài và các công ty mẹ trong nỗ lực này.
Câu hỏi 2
Theo nhóm, hãy thảo luận tác động có thể đối với hành vi của các TNC của
các biện pháp bắt buộc và các biện pháp không bắt buộc mà nước nhận


đầu tư thực hiện nhằm hưởng lợi từ FDI

1.3. Nhận diện những lo ngại về tác động của FDI
Trong nhiều thập kỷ qua, bất chấp sự thay đổi thái độ theo hướng ủng hộ FDI,

vẫn có những lo ngại đáng kể về những tác động tiêu cực tiềm ẩn của nó vẫn hiện
hữu. Một số những lo ngại có thể kể đến như (WIR 2003, trang 88):


Hành vi chống cạnh tranh của các công ty nước ngoài



Sự bất ổn của dòng vốn đầu tư và các khoản thanh toán liên quan có thể tác
động tiêu cực tới cán cân thanh toán



Hành vì gian lận thuế và định giá chuyển giao bất hợp pháp của các công ty
con nước ngoài



Chuyển giao công nghệ lạc hậu và hoạt động gây ô nhiễm môi trường



Loại bỏ các công ty trong nước và không khuyến khích hoạt động kinh doanh
trong nước phát triển



Bào mòn các nguyên tắc về lao động và môi trường, đặc biệt là các khu chế
xuất (EPZs)




Can thiệp vào các quyết định kinh tế của nước nhận đầu tư, có thể gây tác
động tiêu cực đối với quá trình phát triển công nghiệp và an ninh quốc gia.
Trong những năm qua, nhiều quốc gia kể cả phát triển hay đang phát triển

đều chia sẻ những mối lo ngại này và lấy đó làm cơ sở để đưa ra các quy định và
yêu cầu kiểm soát trong quá trình thâm nhập và hoạt động của FDI. Mặc dù đã có
nhiều thay đổi trong nhận thức về FDI nhưng những mối lo ngại này vẫn hiện hữu rất
rõ rệt ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia đang gặp khó khăn về
kinh tế. Các chính sách và biện pháp chủ yếu có thể giúp nhận diện những lo ngại
này là:


Những hạn chế liên quan đến chấp thuận đối với FDI và đối với việc thành lập
và hoạt động của các công ty con nước ngòai. Chẳng hạn như không cho
phép nhà đầu tư gia nhập thị trường dưới hình thức mua lại và sáp nhập vì có


thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, không
cho phép đầu tư vào một số vùng hoặc khu vực nhất định của một quốc gia
liên quan đến chiến lược hoạch định vùng hoặc vấn đề an ninh quốc gia, hoặc
coi việc xem xét các đánh giá về tác động đến môi trường là điều kiện để
chấp nhận các dự án FDI vào một số lĩnh vực ở nước nhận đầu tư.


Các biện pháp liên quan đến hoạt động của các công ty nước ngoài. Nước
chủ nhà cũng có thể quy định các yêu cầu đối với hoạt động của các công ty
con nước ngoài xuất phát từ lo ngại về tác động tiêu cực tiềm ẩn. Ví dụ như
có thể áp dụng yêu cầu về hạn mức thu nhập từ xuất khẩu hoặc hạn chế nhập

khẩu hàng hóa vốn để làm dịu bớt những tác động tiêu cực lên cán cân thanh
toán; không cho phép các công ty nước ngoài tham gia đấu thầu trong các dự
án mua sắm của chính phủ hoặc hạn chế khả năng tiếp cận các khoản vay tín
dụng trong nước để tránh việc loại bỏ các doanh nghiệp trong nước trong kinh
doanh.
Rất nhiều chính phủ lo ngại về những rủi ro mang tính tiêu cực phải thận trọng

khi cho phép các TNC gia nhập thị trường nước mình và đồng thời tìm cách kiểm
soát hoặc tác động tới hoạt động của các TNC. Những cân nhắc này có thể tác động
đến cả các quy định về chuyển lợi nhuận hoặc giải quyết tranh chấp liên quan đến
nhà đầu tư nước ngoài.
Câu hỏi 3
Hãy nêu những lo ngại về FDI mà chính sách FDI của nước nhận đầu tư
cần tiếp cận. Dẫn chứng những trường hợp tại nước hoặc khu vực của
bạn mà trong đó có những lo ngại về tác động tiêu cực của FDI và thảo
luận về những chính sách của quốc gia để phản ứng đối với những lo
ngại này.

2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CHÍNH SÁCH VỀ FDI
Suốt thời kỳ hậu Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 đến đầu thập niên 80, vẫn có
nhiều nước hoài nghi về vai trò của FDI đối với sự phát triển của nền kinh tế và thậm
chí hạn chế và tìm cách cản trở dòng vốn này. Thái độ cũng như chính sách của họ
đối với FDI một phần xuất phát từ hậu quả của những định hướng chính trị mà trong


đó đề cao sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế. Có thể nhận thấy điều này ở
các nước xã hội chủ nghĩa hoặc những khu vực bị thực dân hóa cũng như nhiều
nước đang phát triển khác. Tuy nhiên, chúng đồng thời là kết quả của của các chiến
lược phát triển chú trọng xây dựng các doanh nghiệp và năng lực trong nước,
thường trong một một môi trường được bảo hộ.

Thập niên 90 đã chứng kiến một xu hướng ổn định chưa từng có của làn sóng
tự do hóa trong các chính sách liên quan đến thu hút FDI ở các nước đang phát triển
(Hộp 1). Và hiển nhiên, xu hướng này gắn liền với xu hướng tự do hóa trong các
chính sách kinh tế nói chung. Ở một số nước đang phát triển, tự do hóa trong chính
sách đầu tư khởi nguồn từ đầu thập niên 80 khi cuộc khủng hoảng nợ tác động to
lớn đến nền kinh tế của nhiều nước và khiến họ nhận thức tích cực hơn về vai trò
của FDI. Tuy nhiên, đến đầu thập niên 90 thì khuynh hướng tự do hóa đối với FDI lại
có động lực đáng kể. Ngày càng nhiều nước xem xét lại quan điểm của mình về FDI
bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là khi rút ra được bài học từ kinh nghiệm
cũng như áp lực cạnh tranh đang gia tăng trong một thế giới toàn cầu hóa.
Ngày nay, thực tiễn đã khác hẳn hai thập niên trước. Hầu hết các nước đang
phát triển không đơn thuần chấp nhận các dự án FDI mà họ tìm cách thu hút những
dự án có thể hỗ trợ chặt chẽ hơn cho chiến lược phát triển của quốc gia mình. Quá
trình toàn cầu hóa đã không còn giới hạn các hoạt động kinh tế trong phạm vi biên
giới quốc gia và vì thế, đồng thời cạnh tranh trong thu hút FDI giữa các quốc gia
cũng gia tăng. Các nước với nhu cầu phát triển cao cần coi FDI là nguồn lực cơ bản
của phát triển kinh tế, và các nước đang phát triển cần tìm cách xây dựng một chính
sách tạo điều kiện cũng như một khung pháp lý theo quan điểm khuyến khích FDI
đến mức tối đa có thể. Cùng lúc đó, các nước phát triển can thiệp vào tiến trình tự do
hóa các chính sách trong một số lĩnh vực có quan hệ chặt chẽ với FDI, chẳng hạn
như dịch vụ. Và vì thế, ngày nay, hầu hết các quốc gia không chỉ cho phép mà còn
nỗ lực thu hút FDI, và trong một số trường hợp còn có chiến lược thu hút ở cấp địa
phương.
Những dữ liệu được UNCTAD thống kê về các thay đổi trong hệ thống luật và
quy định của các quốc gia đã nêu bật một xu hướng tự do hóa mạnh mẽ trong các
chính sách về FDI. Theo thống kê, giai đoạn 1991 – 2004, có tổng cộng 2156 thay
đổi trong quy định của các nước và phần lớn những thay đổi này là nhằm tạo cơ chế


thuận lợi hơn cho FDI (bảng 1). Riêng năm 2004, 102 nước đã tiến hành 217 hạng

mục sửa đổi đối với cơ chế đầu tư, và hơn 4/5 những sửa đổi này là tạo điều kiện
thuận lợi cho FDI. Trong khi chính sách thông thoáng với FDI tiếp tục ra đời thì tỷ lệ
các chính sách ít tạo thuận lợi cho FDI lại cao hơn vào năm 2004 (15% so với 10%
hoặc ít hơn 10% những năm trước đó), điều này phản ánh thái độ bảo thủ ngày càng
tăng ở mốt số quốc gia bất chấp tính hiệu quả của tiến trình do hóa đầu tư cũng như
việc sử dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư quốc gia và những nỗ lực khuyến khích
thu hút dòng vốn FDI.
Những thay đổi nhằm xây dựng cơ chế đầu tư thông thoáng hơn thường đi
liền với một mức độ tự do hóa cao hơn trong các cơ chế FDI, một mức độ bảo hộ
tích cực hơn cho nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhiều nỗ lực hơn trong quảng bá.
Vì thế, những thay đổi này chú trọng đến việc dỡ bỏ các rào cản gia nhập, đưa ra
những tiêu chuẩn đối xử quốc gia, đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư trong trường
hợp quốc hữu hóa, giảm bớt những hạn chế trong việc chuyển lợi nhận, linh hoạt
hơn trong cơ chế giải quyết tranh chấp, đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư
trọng điểm và tổng hợp, cung cấp nhiều dịch vụ cũng như công cụ khuyến khích đầu
tư cho các nhà đầu tư.
Bảng 1. Thay đổi trong quy định quốc gia liên quan đến FDI, 1991-2004
Hạng mục

1991

1992

1993

1994

1995

1996


1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

Số lượng quốc gia có thay
đổi trong cơ chế FDI

35

43

57

49

64


65

76

60

63

69

71

70

82

102

Số lượng thay đổi chính
sách, trong đó:

82

79

102

110

112


114

151

145

140

150

208

248

244

271

Thuận lợi hơn cho FDIa

80

79

101

108

106


98

135

136

131

147

194

236

220

235

Kém thuận lợi hơn cho FDIb

20

-

1

2

6


16

16

9

9

3

14

12

24

36

a

bao gồm các thay đổi tự do hóa hoặc các thay đổi nhằm mục đích củng cố chức năng thị trường,
cũng như tăng ưu đãi
b
bao gồm các thay đổi nhằm mục đích tăng kiểm soát, cũng như giảm ưu đãi.
Nguồn: WIR 2005, trang 26

Những thay đổi trong cơ chế FDI vừa thể hiện trong quy định pháp lý về FDI
nói riêng và nhiều quy định pháp lý khác. Tuy nhiên, theo thời gian, nhiều nước tiếp
nhận đầu tư đã cụ thể hóa những quy định về FDI dưới dạng này hoặc dạng khác

nhằm nêu ra những đặc thù của cơ chế FDI ở nước mình. Cho đến năm 1998, các
nước đang phát triển gồm 47 nước ở châu Phi, 46 nước châu Á và Thái Bình Dương


và 21 nước Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê đã ban hành luật hoặc các nghị định
chỉ điều chỉnh vấn đề liên quan đến FDI (WIR 1998, trang 56). Cùng thời điểm này,
nhiều nước phát triển khác cũng giảm bớt phạm vi điều chỉnh của các luật về FDI
bằng cách đưa các điều khoản liên quan vào trong các văn bản luật khác như luật
thương mại và kinh doanh nói chung trong đó có quy định về thuế, tỷ giá hối đoái,
loại hình kinh doanh và các vấn đề về cạnh tranh.
Câu hỏi 4
Mô tả và giải thích tiến trình hình thành và phát triển của các chính sách
FDI từ thập niên 90. Thảo luận theo nhóm về tiến trình hình thành và phát
triển của các chính sách liên quan đến FDI ở nước bạn

3. CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VỀ FDI
Trong khi ban hành và triển khai các chính sách quốc gia về FDI, chính phủ
nhiều nước phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề như làm sao để cân bằng giữa các
mục tiêu khác nhau trong chính sách FDI cũng như cân bằng giữa chính sách FDI
với các chính sách khác trong nền kinh tế. Ngoài ra, khi ngày càng nhiều nước tham
gia vào các thỏa thuận đầu tư quốc tế (IIAs), bản thân mỗi nước cũng phải tìm cách
hài hòa nhiều khía cạnh trong chính sách của quốc gia với các khuôn pháp lý theo
cam kết quốc tế mà họ đã ký kết. Trong bối cảnh đó, nhiều vấn đề quan trọng đã nảy
sinh và buộc những nhà hoạch định chính sách phải lưu ý soạn thảo các chính sách
quốc gia về FDI (cũng như khi đàm phán về IIAs). Một cách cụ thể, những vấn đề
này là (WIR 2003, trang 99):


Làm thế nào để đối phó với sự thâm nhập của FDI và sự mở rộng hoạt động
của các công ty nước ngoài (câu hỏi quan trọng nhất là câu hỏi về "đối xử

quốc gia" trước và sau khi thâm nhập).



Các tiêu chuẩn bảo hộ được sử dụng để chiếm hữu các tài sản bao gồm quá
trình quốc hữu hóa hay sung công tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài
cũng như việc chiếm hữu gián tiếp; và phân chia ranh giới giữa việc chiếm
hữu theo quy định và theo các chính sách hợp pháp như thế nào.



Sử dụng cơ chế nào để giải quyết tranh chấp.




Làm thế nào để sử dụng các yêu cầu về hoạt động và các biện pháp ưu đãi
đầu tư.



Làm thế nào để khuyến khích chuyển giao công nghệ.



Làm thế nào để đảm bảo cạnh tranh, bao gồm kiểm soát các hoạt động hạn
chế kinh doanh của các công ty con nước ngoài
Những vấn đề này rất quan trọng đối với việc hoạch định chính sách, xét trong

bối cảnh tạo lập quy tắc quốc tế. Những vấn đề đó cũng được bàn đến ở học phần 3

trên quan điểm pháp luật, đặc biệt liên quan tới IIAs. Phần dưới đây xem xét sơ lược
từng khía cạnh xét từ quan điểm chính sách quốc gia và mối quan hệ tương tác giữa
các chính sách quốc gia và IIAs.
Một vấn đề quan trọng trong mối quan hệ tương tác giữa các chính sách FDI
quốc gia và IIAs nhưng không phải là vấn đề liên quan đến bản chất các chính sách
FDI quốc gia và do đó không được xem xét ở dưới đây là câu hỏi về định nghĩa đầu
tư trong các nguồn luật quốc gia và các thỏa thuận quốc tế. Câu hỏi chính liên quan
đến khái niệm đầu tư trong các nguồn luật quốc gia và IIAs không phải là liệu FDI có
nên được coi là đầu tư hay không (WIR 2003, trang 100) - nó là đầu tư. Câu hỏi ở
đây là: các khoản đầu tư khác có cùng địa vị như FDI không: nguồn vốn đầu tư gián
tiếp (cả đầu tư cổ phiếu và trái phiếu), các dòng vốn khác (các khoản cho vay ngân
hàng và phi ngân hàng, các dòng vốn khác) và các tài sản đầu tư khác (kể cả hữu
hình và vô hình, bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ).
3.1. Nguyên tắc đối xử quốc gia
Việc đối phó với sự thâm nhập của FDI và mở rộng hoạt động của các công ty
con nước ngoài có lẽ không phải là vấn đề quan trọng nhất liên quan đến chính sách
FDI quốc gia. Hiện nay, khía cạnh đầu tiên (đối xử liên quan đến thâm nhập) đặt ra
câu hỏi về đối xử quốc gia trước khi thành lập và khía cạnh thứ hai (đối xử đối với
hoạt động của các công ty nước ngoài) là câu hỏi về đối xử quốc gia trong giai đoạn
hậu thành lập. Nguyên tắc "đối xử quốc gia" có thể được định nghĩa là "một nguyên
tắc mà theo đó một nước chủ nhà dành cho các nhà đầu tư nước ngoài sự đối xử
không kém hơn các ưu đãi mà nước này giành cho các nhà đầu tư nước mình trong
những trường hợp tương tự" (WIR 1999, trang 102).


Quyền kiểm soát quá trình cấp phép và thành lập theo thông lệ là công cụ
quan trọng nhất để điều chỉnh FDI. Nhưng không có gì đáng ngạc nhiên khi các biện
pháp hạn chế hiện nay vẫn được duy trì và không một quốc gia nào chấp nhận việc
cấp phép vô điều kiện đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hầu hết chính phủ các
nước nằm ngoài khối OECD vẫn đảm bảo quyền kiểm soát quá trình cấp phép và

thiết lập trong các IIAs mà mình tham gia. Các biện pháp kiểm soát mà các quốc gia
sử dụng có thể bao gồm các biện pháp từ việc loại trừ toàn bộ hoặc từng phần FDI
đến các biện pháp hạn chế như về tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài, yêu
cầu về liên doanh hay việc thẩm tra hồ sơ thâm nhập do một cơ quan được chỉ định
thực hiện. Khi các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư thì nước nhận đầu tư
cho các công ty con nước ngoài hưởng chế độ đối xử quốc gia, nhưng trong trường
hợp này điều khoản "trong các trường hợp tương tự" tỏ ra có ưu thế, tạo khả năng
cho các chính phủ cấp hỗ trợ đặc biệt cho các công ty trong nước trong các trường
hợp không tương tự.
Vấn đề trọng tâm về nguyên tắc đối xử quốc gia trước khi cấp phép đầu tư
của nước chủ đầu tư liên quan đến vấn đề thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước,
xây dựng cũng như đẩy mạnh nội lực. Trong điều kiện thị trường tự do, việc thâm
nhập không bị hạn chế của FDI có thể kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nước và tạo ra ít tác động lan tỏa hơn các công ty trong nước. Các lĩnh vực
được quan tâm chủ yếu là:
• Bảo hộ các ngành công nghiệp còn non yếu. FDI có thể làm phương hại đến
các doanh nghiệp nội địa thông qua việc cản trở các nhà đầu tư trong nước
tham gia vào các hoạt động có sự hiện diện mạnh của nước ngoài.
• Chuyên sâu công nghệ trong nước. Sự hiện diện mạnh của nước ngoài có thể
gây cản trở cho các đối thủ cạnh tranh trong nước đầu tư vào các lĩnh vực
năng lực đổi mới nhiều rủi ro, ngược với việc mua công nghệ có sẵn và các
kỹ năng từ nước ngoài. Hơn nữa, nếu FDI ngăn cản hoạt động R&D ở các
doanh nghiệp trong nước khi khoảng cách về công nghệ giữa các công ty này
với các công ty đa quốc gia tăng lên, khiến các công ty này trở nên mờ nhạt
trong các hoạt động có hàm lượng công nghệ cao.
• Khai thác công nghệ mới. Khi cả công ty nước ngoài và công ty trong nước
đều tham gia vào hoạt động R&D cũng như tạo ra các công nghệ mới thì các


công ty trong nước có thể khai thác lợi ích từ việc đổi mới trong nước chủ

nhà hơn là các công ty con nước ngoài, những công ty con này có thể
chuyển giao tri thức cho các công ty mẹ nhằm khai thác nguồn tri thức này ở
những khu vực khác.
• Các tác động lan tỏa lớn hơn. Ngay cả các công ty trong nước và nước ngoài
có những điểm tương đồng trên nhiều khía cạnh khác thì các công ty trong
nước có thể tạo ra nhiều lợi ích hơn vì họ am hiểu thị trường nội địa và gắn
kết với thị trường nội địa chặt chẽ hơn.
• Hoạt động không ràng buộc. Các nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng chuyển
đến các quốc gia khác hơn các doanh nghiệp nội địa khi các điều kiện thay
đổi. Các doanh nghiệp nội địa gắn kết với nền kinh tế trong nước chặt chẽ
hơn - và do đó có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào việc nâng cao năng lực
cạnh tranh nội địa.
• Mất khả năng kiểm soát về mặt kinh tế. Các công ty con nước ngoài phản ứng
với các dấu hiệu từ các thị trường quốc tế và các chiến lược của các nhà
hoạch định chính sách ở nước ngoài. Chúng cũng sẽ có trách nhiệm với các
sức ép từ chính phủ của nước chủ đầu tư.
Với các lý do trên và một số lý do khác, các nước chủ đầu tư có thể sẽ không
muốn cấp phép tự do hay đối xử quốc gia trước khi đầu tư cho các nhà đầu tư nước
ngoài trong một số ngành và lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là ở những ngành mà rủi ro
đào thải các đối thủ cạnh tranh trong nước là cao. Hoặc ví dụ, họ có thể khuyến
khích các hoạt động R&D của các doanh nghiệp trong nước thông qua nhiều biện
pháp ưu đãi đầu tư khác nhau mà không dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, do
đó tạo ra sự khác biệt về đối xử. Hơn thế nữa, nhiều chính phủ mong muốn thu hút
FDI nhằm thu được những lợi thế như công nghệ cao hay các mặt hàng xuất khẩu
chất lượng tốt có thể cảm thấy rằng các doanh nghiệp không cần phải đối phó với sự
cạnh tranh không đáng có từ FDI nếu như các nhà đầu tư nước ngoài không mang
lại những lợi thế như vậy. Một số chính phủ đặc biệt nhạy cảm với việc mở rộng hoạt
động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc này có thể tạo ra một lượng lớn công
ăn việc làm và có thể kết nối cộng đồng, kỹ năng và các giá trị truyền thống khác một
cách sâu rộng.



Trong khi các vấn đề thảo luận ở trên có nhiều ý nghĩa, bằng chứng về sự
hạn chế sự thâm nhập của FDI khá lẫn lộn (WIR 2003, trang 106). Bằng chứng này
cho thấy việc hạn chế FDI hay tự do hóa FDI dần dần và có chọn lọc đều chứa đựng
những lý do kinh tế chính đáng. Nhưng công cụ này cũng cần phải được sử dụng
một cách cẩn trọng.
Khi câu hỏi đặt ra là đối xử với các công ty con nước ngoài và liệu có chấp
thuận đối xử quốc gia sau khi cấp phép đầu tư không thì có thể tạo ra một tình
huống kinh tế trong những thất bại về thể chế thị trường (WIR 2003, trang 107).
Trước hết, các công ty con có xu hướng hoạt động hiệu quả hơn và do đó có
thể bị từ chối áp dụng quy tắc đối xử quốc gia trong hoàn cảnh " doanh nghiệp non
yếu", miễn là sự khác biệt hóa về đối xử chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định và
các doanh nghiệp trong nước hoàn toàn có thể cạnh tranh.
Thứ hai, các công ty con có thể có các lợi thế hơn các công ty trong nước,
không phải vì họ hoạt động hiệu quả hơn mà bởi vì các thị trường tín dụng, kỹ
năng... đều được phân đoạn và mang lại điều kiện tốt hơn đơn giản bởi cơ ấu sở
hữu nước ngoài của các công ty đó. Nhưng việc mang lại các điều kiện tốt hơn cho
các công ty đó nhằm bù đắp lại những ảnh hưởng đối nghịch của phân đoạn thị
trường là một giải pháp gần như là tốt nhất và, hơn thế nữa, phân đoạn thị trường
gây khó khăn cho việc phân biệt thông lệ thương mại lành mạnh.
Thứ ba, cần giới hạn đặc quyền dành cho các công ty con, những đặc quyền
này giúp cho các công ty có thể tiếp cận được với nguồn thông tin chiến lược hoặc
công nghệ nhạy cảm hay các hoạt động văn hóa- xã hội. Vấn đề tranh luận phi kinh
tế này rất khó đánh giá, nhưng lại rất quan trọng và nhiều chính phủ có thiện chí với
nguồn vốn FDI sẽ đưa ra các đặc quyền cụ thể (như xem xét vấn đề tiếp cận với các
hoạt động liên quan đến phòng thủ) đối với các doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, các công ty con có thể trở thành lực lượng thống trị và lạm dụng sức
mạnh thị trường. Nhằm ngăn chặn điều này bằng cách phân biệt đối xử là một giải
pháp gần như là tốt nhất. giải pháp tốt nhất có thể là đẩy mạnh chính sách về cạnh

tranh.
Các vấn đề tranh luận ở trên đã cho thấy rằng có một số lý do giải thích tại
sao các chính phủ thiên về duy trì tự do đặt ra các biện pháp kiểm soát FDI và thực


hiện các cách thức linh hoạt theo quy tắc đối xử quốc gia trong giai đoạn hậu cấp
phép đầu tư. Nói cách khác, quy tắc đối xử quốc gia về giai đoạn hậu cấp phép đầu
tư là vấn đề trọng tâm trong các chiến lược toàn cầu của các công ty đa quốc gia.
Thâm nhập (rất cần thiết) là bước đầu tiên trong hoạt động của các công ty đa quốc
gia, và quy tắc đối xử quốc gia trong thời kỳ hậu cấp phép cho phép các doanh
nghiệp tự do trong vấn đề tiếp cận thị trường và các nguồn lực và yêu cầu một khối
tài sản trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh. Đối xử quốc gia sau khi thâm
nhập từ đó cho phép các doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh bình đẳng với các
doanh nghiệp trong nước.
Do đó, khi đàm phán IIAs, một số nước muốn áp dụng quy tắc đối xử quốc gia
đối với FDI nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hoặc hỗ trợ các nhà đầu tư
ngoài lãnh thổ quốc gia họ.
Vấn đề chủ yếu nhất của IIAs đã bảo đảm quyền kiểm soát hoàn toàn của
chính phủ đối với việc cấp phép và thiết lập trong khi áp dụng quy tắc đối xử quốc
gia trong thời kỳ hậu cấp phép của quá trình đầu tư (WIR03, trang 107-108). Tuy
nhiên, các vấn đề tranh chấp ngày càng gia tăng, có xem xét đến quy tắc đối xử
quốc gia. Các câu hỏi chính phát sinh có liên quan tới các tiêu chuẩn đối xử. Khi nào
thì hai trường hợp thực sự giống nhau? Khi nào thì sự đối xử được coi là "kém thuận
lợi hơn" cho các nhà đầu tư nước ngoài? Công bằng về chính sách đối với sự khác
biệt về đối xử là gì? Có ý định phân biệt đối xử nào đối với nước chủ đầu tư không?
Có một cách mà theo đó những lợi ích mâu thuẫn của các nhà hoạch định
chính sách với những ưu tiên trong nước khác nhau có thể được hài hòa thông qua
các ngoại lệ của IIAs. Cả quy tắc đối xử quốc gia trước và sau khi cấp phép nói
chung đều bị ràng buộc bởi các ngoại lệ đó. Những ngoại lệ dựa trên sự phát triển
kinh tế đều rất quan trọng đối với các nước đang phát triển bởi chúng giúp cho các

nước này duy trì sự linh hoạt trong quá trình theo đuổi những mục tiêu phát triển
thông qua các chính sách FDI trong khi vẫn thu được lợi ích từ việc tham gia vào
IIAs.
Câu hỏi 6
Nếu những mối quan tâm về vấn đề phát triển mà nước chủ đầu tư là nước
đang phát triển cần xem xét trong quốc sách có đề cập đến quy tắc đối xử


quốc gia giành cho các nhà đầu tư nước ngoài là gì? Thảo luận những vấn
đề này theo 2 nhóm: từ quan điểm của các nhà đầu tư nước ngoài và quan
điểm của nước chủ đầu tư.

3.2. Quốc hữu hóa, tước quyền sở hữu hữu và trưng thu theo quy định
"Chiếm hữu tài sản" thông qua quá trình quốc hữu hóa và tước quyền sở hữu
là vấn đề xa xưa nhất trong quy định về FDI (WIR 2003, trang 110). Những khoản
trưng thu tài sản của các công ty nước ngoài trong thế kỷ 20 đã dẫn tới việc ban
hành các quy định luật quốc tế truyền thống nhằm thiết lập các điều kiện mà theo đó
các khoản chiếm hữu đó là hợp pháp: việc chiếm hữu phải nhằm mục đích công
cộng, không phân biệt đối xử và phải đi kèm với khoản đền bù. Các nguyên tắc cơ
bản này đã được chấp nhận trong các nguồn luật và hoạt động quốc gia và các
thông lệ, được tham chiếu trong IIAs.
Gần đây, vấn đề chính liên quan đến chiếm hữu tài sản là việc đền bù chính
xác được trả cho việc quốc hữu hóa hoặc tước quyền sở hữu. Vấn đề này hiện nay
được mở rộng để chiếm hữu gián tiếp, bao gồm cái được gọi "chiếm hữu dần" và
"chiếm hữu theo quy định", có thể được điều chỉnh theo các tiêu chuẩn bảo hộ.
Việc phân biệt các loại chiếm hữu tài sản không phải lúc nào cũng dễ dàng.


Chiếm hữu tài sản trực tiếp liên quan đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu
về tài sản cũng như các quyền hợp pháp khác. Việc chiếm hữu này có thể có

nhiều hình thức, từ hình thức quốc hữu hóa hoàn toàn trong tất cả các lĩnh
vực kinh tế hay trên cơ sở ngành rộng đến chiếm hữu quy mô lớn về đất đai
của nhà nước hay các khoản chiếm hữu đặc biệt (trưng thu).



Chiếm hữu gián tiếp không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản.
Việc chiếm hữu này bao gồm chiếm hữu dần dần, liên quan đến sự chiếm
hữu tích lũy về một hoặc nhiều quyền sở hữu cho đến khi khiến cho chủ sở
hữu không còn lợi ích từ tài sản. Việc chiếm hữu này cũng bao gồm chiếm
hữu theo quy định mà trong đó việc thực thi sức mạnh điều tiết của chính phủ
- quyền đánh thuế hoặc kiểm soát hoạt động nhằm mục đích bảo vệ môi
trường - giảm thiểu giá trị kinh tế của tài sản của chủ sở hữu mà không lấy đi


quyền sở hữu về mặt hình thức của họ.
Việc chiếm hữu theo quy định là một vấn đề đặc biệt nhạy cảm vì các quy
định của chính phủ có thể tác động tới giá trị tài sản cá nhân. Chính vì vậy, việc thực
thi mở rộng việc chiếm hữu theo quy định có thể làm giảm đi quyền lực điều tiết của
Chính phủ. Vấn đề quan trọng là phải phân biệt được việc thực thi hợp pháp theo
chủ ý của chính phủ làm hạn chế quyền sở hữu của nhà đầu tư với sự chiếm hữu
theo quy định đòi hỏi phải đền bù. Điều này đòi hỏi phải cân đối giữa việc đạt được
các mục tiêu chính sách công trong khuôn khổ quy định, có thể làm giảm giá trị tài
sản - hoặc các giá trị tiềm năng được các thực thể kinh doanh không bị kiểm soát tạo
ra - và đảm bảo giá trị của các tài sản sinh lợi của các thực thể đó.
Trên thực tế, khi việc can thiệp vào quyền sở hữu tư nhân làm phương hại
đến quyền lợi hợp pháp hay kỳ vọng của chủ sở hữu, nhà nước có thể cần phải đền
bù. Khi một biện pháp được thực thi như một phần của quyền điều tiết lợi ích công
cộng thì có thể không cần đền bù. Tuy nhiên, mục đích của các biện pháp đó, tác
động hiệu quả lên quyền của nhà đầu tư nước ngoài hay khoản đền bù cần trả là

một vấn đề khó đánh giá và có thể làm gia tăng mâu thuẫn giữa các nhà đầu tư, cả
trong nước lẫn nước ngoài, và nước chủ nhà. Mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài,
thông qua việc đưa ra các điều kiện bảo đảm đối với quốc hữu hóa và tước quyền
sở hữu phải được phân tích trong bối cảnh những rủi ro về tranh chấp và chi phí mà
mục tiêu này có thể tạo ra đối với nước chủ nhà.
Phần lớn IIAs có các điều khoản về chiếm hữu tài sản, thường định nghĩa
chiếm hữu tài sản theo cả các quan niệm truyền thống về nội địa hóa và chiếm hữu
cũng như chiếm hữu dần dần và chiếm hữu theo quy định. Các hành động vì quyền
lợi điều tiết thông thường như vì mục đích đánh thuế, quyền sở hữu trí tuệ và nợ
công có thể hoặc không đủ để tạo ra chiếm hữu gián tiếp. Hơn thế nữa, phần lớn
IIAs đòi hỏi phải có sự tuân thủ các yếu tố cơ bản của việc chiếm hữu hợp pháp: vì
mục đích công cộng, không phân biệt đối xử và đền bù. Tuy nhiên, không có một sự
thống nhất về tiêu chuẩn đền bù. Xét trên góc độ phát triển, những thông lệ gần đây
trong IIAs cho thấy các nước đang phát triển luôn cố gắng đạt đến sự cân đối giữa
việc đưa ra các hành động bảo hộ hợp lý cho các nhà đầu tư và duy trì quyền điều
tiết của họ.


Câu hỏi 7
Vấn đề chính hiện nay liên quan đến việc chiếm hữu tài sản là gì? Ý nghĩa
cơ bản đối với nước chủ nhà là gì?

3.3 Giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư và nước chủ nhà là vấn đề mấu
chốt trong chính sách FDI. Thông thường, nước chủ nhà đưa ra cơ chế giải quyết
tranh chấp như một phần của pháp luật đất đai. Nhưng, trong một số trường hợp,
các nhà đầu tư có thể thiên về cách tiếp cận quốc tế hóa đối với cơ chế giải quyết
tranh chấp, thường là cơ chế trọng tài giữa nhà đầu tư và nước chủ nhà.
Các chính sách quốc gia về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và
nhà đầu tư là khác nhau (WIR 2003, trang 114):



Một số yêu cầu chỉ áp dụng các thủ tục và phương thức quốc gia.



Một số đòi hỏi phải ưu tiên áp dụng các biện pháp trong nước ở nước chủ
đầu tư trước khi được phép sử dụng các hệ thống giải quyết tranh chấp quốc
tế hóa.



Và một số cho phép các nhà đầu tư được tự do lựa chọn giữa cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc gia và quốc tế.
Việc nước chủ nhà sẵn sàng chấp nhận cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế

hóa có thể bắt nguồn từ mong muốn thể hiện cam kết nhằm tạo ra môi trường đầu tư
thuận lợi, đặc biệt là khi các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn hệ thống quốc tế
hóa công bằng. Điều này đóng vai trò quan trọng đối với những quốc gia áp dụng
chính sách FDI hạn chế và mong muốn thay đổi chính sách đó. Nói cách khác, trọng
tài quốc tế đòi hỏi nhiều thời gian và tiền bạc hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp
tại các tòa án trong nước.
Các luật đầu tư quốc gia thường cho phép quốc tế hóa việc giải quyết các
tranh chấp đầu tư thông qua việc dành lựa chọn cho nhà đầu tư trong điều khoản
đặc biệt về giải quyết tranh chấp trong quy định pháp luật về FDI. Nhưng nhiều luật
về FDI không đề cập đến vấn đề này. Trong những trường hợp như vậy, nhà đầu tư
cần áp dụng các biện pháp nội bộ mà họ được phép theo luật của nước chủ nhà.


Điều này cũng đúng đối với những nước không có luật về FDI. Trong những trường

hợp này thì các biện pháp quốc tế có thể được áp dụng theo các nghĩa vụ quốc tế
của nước chủ nhà trong IIAs.
Giải quyết tranh chấp đóng vai trò quan trọng trong IIAs, nhiều IIAs hiện nay bao
gồm các điều khoản về tranh chấp giữa các quốc gia (có liên quan đến các tranh
chấp vượt quá phạm vi áp dụng của một IIA) và tranh chấp giữa nhà nước và nhà
đầu tư. Các thỏa thuận đều khác nhau ở phạm vi lựa chọn của nhà đầu tư đối với
các phương tiện giải quyết tranh chấp có thể áp dụng nhưng phần nhiều trong số
các thỏa thuận đó hiện nay cho phép sự lựa chọn đơn phương của nhà đầu tư về
cách thức giải quyết tranh chấp khi các biện pháp hòa giải không giúp giải quyết
tranh chấp. Việc đề cập đến giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư
trong IIAs có thể giúp cải thiện môi trường đầu tư thông qua đưa ra một mức độ tái
đảm bảo đối với nhà đầu tư mà theo đó quyền lợi của họ được bảo lưu thông qua
quy trình giải quyết tranh chấp của một bên thứ ba khi biện pháp hòa giải trở nên vô
hiệu. Tuy nhiên, các trường hợp về giải quyết tranh chấp và trọng tài quốc tế có thể
đòi hỏi nhiều hơn về nguồn lực và trình độ chuyên môn, có thể khiến các nước đang
phát triển rơi vào tình thế bất lợi. Hơn thế nữa, xu hướng quốc tế hóa thủ tục giải
quyết tranh chấp cần phải được cân bằng với nguy cơ mất chủ quyền kiểm soát
trong giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp tại địa phương có thể ít được áp
dụng, làm chậm lại quá trình phát triển chuyên môn trong nước trong khi làm gia
tăng chi phí.
Câu hỏi 8
Đưa ra lý do giải thích tại sao nhà đầu tư nước ngoài muốn áp dụng cơ
chế giải quyết tranh chấp quốc tế và một lý do tại sao các nhà đầu tư mong
muốn áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp tại các tòa án trong nước hơn
quốc tế.

3.4 Các yêu cầu hoạt động (performance requirements):
Các yêu cầu hoạt động là những quy định áp dụng đối với các công ty con
nước ngoài nhằm đảm bảo các công ty này hoạt động theo cách có lợi cho nền kinh
tế của nước nhận đầu tư. Những quy định phổ biến nhất liên quan đến tỷ lệ nội địa

hóa, hoạt động xuất khẩu, tỷ lệ vốn góp nội địa, liên doanh, chuyển giao công nghệ


×