Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Nguyễn Thị Hoàng Yến _ lớp K37D luật kinh tế _thực trạng áp dụng pháp luật về thẻ thanh toán tại ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.27 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------

Đề tài:
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
THẺ THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG

Giáo viên hướng dẫn
TS. Viên Thế Giang

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hoàng Yến
MSV: 13A5021280
Lớp: K37D – Kinh Tế

Thừa Thiên Huế - 06/2016


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của trường Đại học
Luật- Đại học Huế, và được sự đồng ý của thầy
giáo hướng dẫn TS Viên Thế Giang, em đã thực
hiện đề tài “Thực trạng áp dụng pháp luật về thẻ
thanh toán tại ngân hàng”
Để hoàn thành bài niên luận này, trước hết
em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy
cô giáo đã và đang công tác tại trường Đại học
Luật- Đại học Huế đã trực tiếp giảng dạy, tạo
mọi điều kiện để em được học tập, cung cấp kiến
thức, dìu dắt em trong suốt thời gian qua. Đặc


biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Giảng viên
Tiến Sỹ Viên Thế Giang đã quan tâm hướng dẫn,
chỉ bảo và tận tình giúp đỡ em hồn thành bài
niên luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng học hỏi, nghiên
cứu, tìm hiểu các tài liệu có liên quan nhưng do
kiến thức của em còn nhiều hạn chế, kinh
nghiệm chưa nhiều, cho nên sẽ khơng khỏi tránh
những sai sót. Kính mong nhận được sự quan


tâm, góp ý của q thầy cơ giáo để bài niên luận
của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 10,tháng 06,
năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoàng Yến

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện nay đang trong xu thế hội nhập quốc tế, nền kinh tế ngày
càng phát triển, đời sống đại bộ phận dân cư đã được cải thiện đáng kể, điều này
đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu vực kinh tế nói chung và
lĩnhvực dịch vụ nói riêng, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng, nhất là hoạt
động thẻ thanh toán đang là dịch vụ rất được quan tâm hiện nay.
Hơn nữa, phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt đã trở thành một

phương thức thanh toán chủ yếu của người dân tại các nước phát triển và tại Việt
Nam thẻ thanh toán cũng đã có sự phát triển đáng kể.Tuy nhiên, để dịch vụ thẻ
thanh toán tăng trưởng bền vững và hiệu quả, cần những giải pháp phù hợp
hướng tới mục tiêu đẩy mạnh thanh tốn khơng dùng tiền mặt. Điều này đã góp
phần tạo một hành lang pháp lý rất quan trọng giúp thị trường có sự phát triển
vượt bậc về hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, số lượng các ngân hàng tham
gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng gia tăng với việc cho ra đời hàng loạt các
sản phẩm thẻ tương đối hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Tính chất đặc biệt này thể hiện ở việc các tổ chức tín dụng đã kết
hợp hai nghiệp vụ cơ bản của mình là hoạt động thanh tốn và hoạt động cấp tín
dụng vào một loại hình dịch vụ.Tương ứng với sự kết hợp này, chế định pháp
luật về thẻ thanh toán cũng phải được chắt lọc từ những quy phạm pháp luật
điều chỉnh hoạt động thanh toán và những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, mặc dù các ngành luật có đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng, nhưng giữa chúng luôn tồn
tại những mối liên hệ tất yếu. Pháp luật về thẻ thanh toán - một bộ phận của
ngành luật ngân hàng – cũng không phải là một ngoại lệ, đặc biệt là trong mối
liên hệ với pháp luật dân sự, pháp luật thương mại, pháp luật quản lý hành chính
nhà nước, tư pháp quốc tế, pháp luật hình sự...Nó khơng chỉ liên quan đến pháp
luật trong nước mà còn liên quan mật thiết đến các điều ước quốc tế; những
thông lệ, tập quán trong giao dịch quốc tế về thẻ thanh toán.
Như vậy, pháp luật về thẻ thanh tốn địi hỏi một sự kết hợp nhuần nhuyễn
các yếu tố kể trên, tạo thành một khung pháp lý hoàn chỉnh và đầy đủ. Tuy
nhiên, để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị trường thẻ thanh tốn thì
cần phải xây dựng và hồn thiện hành lang pháp lý, bảo đảm khả năng thích ứng
với sự biến động của hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán.

4



Vì vậy, việc nghiên cứu để hồn thiện hệ thống pháp lý điều chỉnh các vấn
đề về thẻ thanh toán đang là một nhu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Việc áp dụng thẻ thanh toán tại ngân hàng là một vấn đề phức tạp, đề cập
đến nhiều quan hệ khác nhau như dân sự,ngân hàng,... trong mỗi quan hệ khác
nhau thì sẽ có các cách nhìn cũng khác nhau về vấn đề này. Ở đây đề tài chỉ
nghiên cứu đến những vấn đề pháp luật điều chỉnh về việc áp dụng thẻ thanh
toán tại ngân hàng.
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về việc
áp dụng thẻ thanh toán tại ngân hàng và sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn
đề này. Đồng thời chỉ ra những thực trạng quy định của pháp luật về việc áp
dụng thẻ thanh tốn tại các ngân hàng từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển của thẻ thanh toán tại
các ngân hàng trong nền kinh tế hiện nay ở nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích thì đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp
như: phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với phương pháp thống kê,
phương pháp hồi cứu tài liệu…Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu này
giúp em xem xét vấn đề từ nhiều góc cạnh khác nhau trên cơ sở đó có cách nhìn
nhận về vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu,Nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo thì
Nội dung chính của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và quy định của pháp luật về thẻ thanh toán tại
ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về thẻ thanh tốn tại Ngân hàng
nơng nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Buôn Ma Thuột – tỉnh

Daklak.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THẺ THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG
1.1 Cơ sở lý luận về thẻ thanh tốn.
1.1.1. Q trình hình thành và phát triển của thẻ thanh tốn tại Việt Nam
Năm 1990, hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp
BFCE và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã mở đầu cho sự
du nhập của thẻ thanh toán vào Việt Nam,đặt viên gạch đầu tiên xây dựng hoạt
động thanh tốn khơng dùng tiền mặt nói chung, sử dụng thẻ thanh tốn nói
riêng tại Việt Nam. Các dự án đầu tư nước ngoài tăng từ số lượng đến quy mơ,
các định chế tài chính lớn đã chú ý đến Việt Nam và đi theo nó là các dịch vụ
song hành trong đó thẻ thanh tốn là không thể thiếu được.
Năm 1995, cùng với Vietcombank, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á
Châu, Ngân hàng Liên doanh First Vinabank và Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Eximbank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép chính
thức gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Mastercard.
Năm 1996,Vietcombank chính thức là thành viên của tổ chức Visa
International. Tiếp sau đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Cơng thương cũng
lần lượt là thành viên chính thức của tổ chức Visa Card. Cũng trong năm này
Vietcombank phát hành thí điểm thẻ ngân hàng đầu tiên, đồng thời Hội các ngân
hàng thanh toán thẻ Việt Nam cũng được thành lập với bốn thành viên sáng lập
gồm Vietcombank, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Eximbank)
và First Vinabank. Hành lang pháp lý cho hoạt động thẻ lúc ấy chỉ là quyết định
số 74 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký ban hành ngày10/4/1993, qui định
“thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán”. Việc ứng dụng thẻ ở

Việt Nam vào thời điểm đó cịn bị giới hạn rất nhiều về cơ sở pháp lý, điều kiện
kinh tế, hạ tầng kỹ thuật… Trên cơ sở thỏa thuận của Ngân hàng Nhà Nước,
ngân hàng thương mại thí điểm phát hành thẻ tự xây dựng qui chế, hợp đồng
phát hành và sử dụng thẻ, tức tính pháp lý chỉ dừng ở mức điều chỉnh “nội bộ”
giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ.
Đến năm 1999, Ngân Hàng Nhà Nước ban hành Quy chế phát hành, sử
dụng và thanh toán thẻ ngân hàng kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐNHNN1 đặt ra một khung pháp lý để các ngân hàng phát triển nghiệp vụ thẻ của
mình.
Thị trường thẻ năm 2006, 2007 trở lên sơi động vì Việt Nam đã tham gia
vào WTO, thị trường tài chính nước ta càng phải cạnh tranh quyết liệt hơn khi
6


có thêm nhiều ngân hàng nước ngồi đầu tư vào Việt Nam.Ngày 15/5/2007,
Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN kèm theo
Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung ứng dịch vụ hỗ trợ hoạt động
thẻ ngân hàng. Hàng loạt sản phẩm thẻ thanh toán ra đời, mở ra một cuộc “so
tài” phát hành thẻ giữa các ngân hàng trong nước. Đầu tiên là Ngân hàng
Techcombank, ngân hàng này đã tung ra hàng loạt thẻ thanh tốn, nổi trội là thẻ
Fastaccess. Tiếp theo đó, Ngân hàng TMCP Sài Gịn Thương Tín – Sacombank
đã kết hợp cùng tổ chức Visa ra mắt thẻ thanh toán Quốc tế Sacom Visa Debit.
Đây là phương tiện thanh toán năng động nhắm vào giới doanh nhân: chủ tài
khoản có thể dùng thẻ để thanh tốn trong và ngồi nước.
Có lẽ chính sách mở cửa thơng thống đã đem lại cho VN một bộ mặt kinh
tế – xã hội nhiều triển vọngvàdịch vụ thẻ thanh toán ở nước ta đang phát triển
hết sức nhanh chóng, đem lại tiện ích cho người dân, thúc đẩy chu chuyển vốn
trong xã hội và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Khái niệm về thẻ thanh toán
Ngày nay, thẻ thanh toán là một phương tiện thanh tốn hiện đại và tiên
tiến trên thế giới. Nó ra đời, phát triển gắn liền cùng với sự phát triển và ứng

dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thúc đẩy quá trình hội nhập
với nền tài chính của khu vực và thế giới.
Xét theo quan điểm kinh tế học, thẻ thanh tốn được hiểu là chìa khóa đa
năng để chủ thẻ kết nối với các chủ thể khác tham gia hệ thống thanh toán
thẻphục vụ quá trình lưu chuyển hàng hóa, tiền tệ được thỏa thuận trước nhằm
thực hiện các dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của mình.
Xét từ góc độ luật học, khái niệm thẻ thanh toán đã xuất hiện trong văn bản
pháp luật Việt Nam từ năm 1994 mặc dù chưa được định nghĩa chính thức. Tại
Điều 24 của Thể lệ thanh tốn khơng dùng tiền mặt, được ban hành kèm theo
Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 21/02/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, thẻ thanh tốn mới chỉ được giải thích là “do Ngân hàng phát hành và bán
cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán
khác và rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền
mặt tự động.”
Từ các quan điểm trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về thẻ thanh toán
như sau:“Thẻ thanh toán là phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, do
ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh tốn tiền hàng
hóa, dịch vụ hoặc để rút tiền mặt ở các máy rút tiền tự động (ATM) hay tại các
ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư của tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín
dụng được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Hóa đơn thanh tốn
7


thẻ chính là giấy nhận nợ của chủ thẻ đối với đơn vị chấp nhận thẻ. Đơn vị chấp
nhận thẻ và đơn vị cung ứng dịch vụ rút tiền mặt địi tiền chủ thẻ thơng qua
ngân hàng phát hành thẻ và ngân hàng thanh toán thẻ”.
1.1.3 Đặc điểm của thẻ thanh tốn
Từ khái niệm nêu trên ta có thể dễ dàng thấy được những đặc trưng của thẻ
thanh toán như sau:
Thứ nhất, tính linh hoạt.

Thẻ thanh tốn có nhiều loại, đa dạng, phong phú về hạn mức tín dụng của
thẻ nên thích hợp với hầu hết mọi đối tượng khách hàng, từ những khách hàng
có thu nhập thấp (thẻ thường) cho tới những khách hàng có thu nhập cao (thẻ
vàng), khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt (thẻ rút tiền mặt), cho tới nhu cầu du
lịch giải trí …,thẻ cung cấp cho khách hàng độ thoả dụng tối đa, thoả mãn nhu
cầu của mọi đối tượng khách hàng.
Thứ hai, tính tiện lợi.
Là một phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, thẻ cung cấp cho
khách hàng sự tiện lợi mà khơng một phương tiện thanh tốn nào có thể mang
lại được. Đặc biệt đối với những người phải đi ra nước ngồi đi cơng tác hay là
đi du lịch, thẻ có thể giúp họ thanh tốn ở gần như bất cứ nơi nào mà không cần
phải mang theo tiền mặt hay séc du lịch, không phụ thuộc vào khối lượng tiền
họ cần thanh toán. Thẻ thanh toán được coi là phương tiện thanh toán tốt nhất
trong số các phương tiện thanh toán phục vụ tiêu dùng trong xã hội hiện đại và
văn minh.
Thứ ba, tính an tồn và nhanh chóng.
Thẻ thanh tốn ln gắn liền với một chủ thể nhất định.Chủ thể này chính
là chủ sở hữu của thẻ thanh tốn.Tên, hình ảnh của chủ thẻ được in ngay trên
thẻvà chủ thẻ cũng phải ký tên lên mặt sau của thẻ ngay khi nhận thẻ.Người sử
dụng thẻ thanh toán có thể n tâm về số tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp
do móc túi hay trộm cắp. Ngay cả trong trường hợp thẻ bị lấy cắp, ngân hàng
cũng bảo vệ tiền cho chủ thẻ bằng số PIN, ảnh và chữ ký trên thẻ nhằm tránh
khả năng rút tiền của kẻ trộm. Hầu hết các giao dịch thẻ đều được thực hiện qua
mạng kết nối trực tuyến từ đơn vị chấp nhận thẻ hay điểm rút tiền mặt tới ngân
hàng thanh toán, ngân hàng phát hành và các tổ chức thẻ Quốc tế do đó việc ghi
nợ, ghi có cho các chủ thể tham gia quy trình thanh toán được thực hiện một
cách tự động, dẫn đến việc q trình thanh tốn diễn ra rất dễ dàng, tiện lợi và
nhanh chóng.

8



1.1.4 Phân loại thẻ thanh tốn
Dựa trên nhiều góc độ khác nhau thẻ thanh tốn có thể được phân loại theo
nhiều tiêu chí khác nhau như sau:
1.1.4.1 Theo chủ thể phát hành
Thẻ do ngân hàng phát hành: Là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho
khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng số
tiền do ngân hàng cấp tín dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất hiện
nay, khơng chỉ trong phạm vi một quốc gia mà cịn trên phạm vi tồn cầu. Ví dụ:
VISA, MASTERCARD...
Thẻ do các tồ chức phi ngân hàng phát hành: Đó là các loại thẻ du lịch giải
trí của các tập đồn kinh doanh lớn, hoặc có thể là thẻ do các cơng ty xăng dầu,
các cửa hiệu lớn phát hành…Ví dụ: thẻ Amex, thẻ Dinner Club…
1.1.4.2 Theo tính chất thanh tốn của thẻ
Thẻ tín dụng: đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất,là phương tiện
thanh toán do ngân hàng hoặc tổchức phi ngân hàng phát hành theo thỏa thuận
với chủ thẻ để đáp ứng các nhu cầu tín dụng, thanh tốn trong một hạn mức tiền
nhất định thơng qua việc xáclập quan hệ thanh toán giữa chủ thẻ với đơn vị chấp
nhận thẻ, đồng thời cũng xác lập quan hệ vay nợ giữa chủ thẻ với tổ chức đã
phát hành thẻ. Thẻ tín dụng là cơng cụ tín dụng trong lĩnh vực cho vay tiêu
dùng.
Thẻ ghi nợ: là loại thẻ mà chủ thẻ có thể chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ dựa
trên số dư tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản vãng lai của mình tại ngân hàng phát
hành thẻ. Thẻ ghi nợ khơng có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuộc vào số dư hiện
hữu trên tài khoản của chủ thẻ.Số tiền chủ thẻ chi tiêu sẽ được khấu trừ ngay vào
tài khoản của chủ thẻ. Chủ thẻ có thể được ngân hàng cấp cho một mức thấu chi
tùy theo sự thỏa thuận giữa chủ thẻ và ngân hàng. Đó là một khoản tín dụng
ngắn hạn mà ngân hàng cấp cho chủ thẻ.
Thẻ rút tiền mặt: dùng để rút tiền mặt từ tài khoản của chủ thẻ tại các máy

rút tiền tự động (ATM) hoặc tại các ngân hàng và sử dụng cho dịch vụ khác do
máy ATM cung cấp như chuyển khoản, kiểm tra số dư…Yêu cầu đặt ra đối với
loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền vào tài khoản hoặc được ngân hàng cấp
tín dụng thấu chi.
1.1.4.3 Theo phạm vi lãnh thổ
Thẻ nội địa: Là loại thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia
nên đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. Hoạt động của loại thẻ
9


này rất đơn giản, chỉ do một ngân hàng hoặc một tổ chức điều hành từ việc phát
hành, xử lý trung gian cho đến thanh toán.
Thẻ quốc tế: là loại thẻ sử dụng các loại ngoại tệ mạnh để thanh tốn, được
chấp nhận trên phạm vi tồn cầu. Thẻ được hỗ trợ quản lý trên toàn thế giới bởi
các tổ chức tài chính lớn như VISA, MASTERCARD…hoạt động thống nhất,
đồng bộ. Thẻ quốc tế đang rất phổ biến hiện nay bởi tính an tồn và tiện lợi của
nó.
1.1.4.4 Theo hạn mức của thẻ
Thẻ thường: Là một loại thẻ thanh toán mang tính phổ thơng, phổ biến và
được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Thẻ vàng: là loại thẻ ưu hạng phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính
của khách hàng có thu nhập cao. Thẻ được phát hành cho các đối tượng có uy
tín, có khả năng tài chính lành mạnh và nhu cầu chi tiêu lớn.
1.1.5. Vai trị của thẻ thanh tốn
1.1.5.1 Đối với người sử dụng thẻ
Thứ nhất, sự linh hoạt và tiện lợi trong thanh tốn ở trong và ngồi nước.
So với các phương tiện thanh tốn khác thì thẻ thanh tốn có những tiện ích
hơn hẳn, chủ thẻ khơng phải chuẩn bị một lượng tiền mặt hay séc khi đi ra nước
ngoài mà thay vào đó họ có thể mang theo thẻ thanh toán để thanh toán cho mọi
nhu cầu chi tiêu của mình.

Thứ hai, là một khoản tín dụng tự động, tức thời, tiết kiệm thời gian.
Khả năng mua hàng không bị gị bó dù việc mua hàng có được dự tính
trước hay khơng thì thẻ thanh tốn cũng là một nguồn tín dụng tự động giúp các
chủ thẻ khỏi phải đến ngân hàng xin vay vì tính ngắn hạn và thủ tục phát hành
đơn giản của nó. Chủ thẻ chỉ phải thanh toán một phần nhỏ khi đến hạn thanh
toán, số cịn lại thì có thể trả sau.
Hơn nữa, chủ thẻ có thể rút tiền mặt một cách nhanh chóng ở bất cứ nơi
nào, vào bất cứ lúc nào tại ngân hàng hoặc qua các máy rút tiền tự động ATM.
Thứ ba, kiểm sốt được chi tiêu thơng qua sao kê hàng tháng do ngân hàng
gửi đến chủ thẻ do đó chủ thẻ có thể dễ dàng kiểm sốt được các khoản chi tiêu
của mình trong tháng.
1.1.5.2 Đối với đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT)
Thứ nhất, đảm bảo chi trả và nhanh chóng thu hồi vốn.

10


Với thẻ thanh tốn,ĐVCNT có thể n tâm là được ghi có vào tài khoản
ngay khi thơng tin giao dịch được truyền qua hệ thống máy móc điện tử đến
ngân hàng phát hành hoặc khi ĐVCNT nộp hóa đơn thanh toán thẻ cho ngân
hàng phát hành. Nếu phải xin cấp phép thì việc xin cấp phép từ ngân hàng phát
hành cũng rất nhanh chóng qua các máy cấp phép tự động. Do đó, các ĐVCNT
có thể nhanh chóng thu hồi vốn để sử dụng vào mục đích quay vịng vốn hoặc
các mục đích khác.
Thứ hai, an tồn, bảo đảm, đơn giản và nhanh chóng.
Giao dịch bằng thẻ thanh tốn sẽ được trả ngay vào tài khoản của ĐVCNT
hoặc nếu chưa được trả ngay thì việc giao dịch bằng thẻ thanh tốn cũng ít có
khả năng bị mất cắp hơn là bằng séc hay tiền mặt.Hơn thế, hiện nay quá trình
giao dịch bằng thẻ thanh toán đã được thực hiện qua các thiết bị chuyển ngân
điện tử do đó chúng ta không phải mất nhiều thời gian trong việc nhận dạng,

thực hiện các giao dịch, giúp đẩy nhanh quá trình xử lý khi bán hàng mà không
cần phải trải qua quá trình xử lý thủ cơng trên giấy tờ.
Thứ ba, tăng doanh số bán hàng hóa, dịch vụ và thu hút thêm khách hàng.
Chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng một phương tiện
thanh tốn nhanh chóng, tiện lợi do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng
lên, doanh số bán hàng cũng từ đó tăng lên, tạo cho ĐVCNT khả năng cạnh
tranh với các đối thủ khác. Môi trường văn minh, hiện đại trong giao dịch, mua
bán khi thanh toán thẻ là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng.
1.1.5.3 Đối với ngân hàng
Thứ nhất, lợi nhuận mà thẻ thanh toán mang lại cho ngân hàng.
Lợi ích lớn nhất mà thẻ thanh tốn mang lại cho các ngân hàng đó chính là
lợi nhuận. Lợi nhuận thu được từ thẻ thanh tốn là phí cơ sở chấp nhận thẻ, phí
sử dụng thẻ (phí thường niên) và lãi suất cho khoản tín dụng chậm thanh tốn...
Ngồi ra tỷ lệ lợi nhuận tương đối cao từ kinh doanh thẻ có thể hỗ trợ chéo, bù
đắp cho các hoạt động kém sinh lời của ngân hàng.
Thứ hai, tăng nguồn vốn cho ngân hàng.
Thơng qua thẻ thanh tốn số lượng tiền gửi của khách hàng để thanh toán
thẻ và số lượng tài khoản của các ĐVCNT cũng tăng lên. Với lượng giao dịch
thẻ tương đối lớn, các tài khoản này sẽ tạo cho ngân hàng một lượng vốn – một
nguồn sinh lợi đáng kể cho ngân hàng.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ và hiện đại hóa công nghệ của
ngân hàng.
11


Thẻ thanh toán làm phong phú hơn các dịch vụ ngân hàng, mang đến cho
ngân hàng một phương tiện thanh tốn đa tiện ích, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng. Việc phát triển thêm một loại hình thanh toán mới để phục vụ khách
hàng buộc các ngân hàng phải khơng ngừng hồn thiện, nâng cao trình độ, trang
thiết bị thêm trang thiết bị kỹ thuật công nghệ để cung cấp cho khách hàng

những điều kiện tốt nhất trong thanh tốn, đảm bảo uy tín, sự an tồn, hiệu quả
trong hoạt động của ngân hàng.
1.1.5.4 Đối với nền kinh tế, xã hội
Thứ nhất, giao dịch bằng thẻ thanh toán giúp giảm khối lượng tiền mặt
trong lưu thông tiền tệ, tăng nhanh khối lượng chu chuyển và thanh toán trong
nền kinh tế.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán khơng dùng tiền mặt nên nó
làm giảm khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông. Ngày nay, hầu
hết mọi giao dịch thẻ thanh toán đều được thực hiện và thanh tốn trực tuyến vì
vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn nhiều so với những giao dịch qua
các phương tiện khác như séc, ủy nhiệm chi,…bởi lẽ với giao dịch bằng thẻ
thanh tốn thì mọi thơng tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận
tiện, nhanh chóng.
Thứ hai, thẻ thanh tốn giúp thực hiện chính sách quản lý vĩ mơ của nhà
nước.
Trong q trình giao dịch bằng thẻ thanh tốn mọi hoạt động đều nằm dưới
sự kiểm soát của ngân hàng từ đó tạo nền tảng cho cơng tác quản lý thuế của nhà
nước, thực hiện chính sách ngoại hối quốc gia.
Thứ ba, giúp cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du
lịch và đầu tư nước ngồi.
Thanh tốn bằng thẻ giúp giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một
phương tiện văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một mơi trường kinh doanh
thương mại văn minh, hiện đại hơn. Ngày càng thu hút khách du lịch và các nhà
đầu tư nước ngoài hơn.
1.2 Pháp luật về thẻ thanh toán
1.2.1Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng thẻ thanh toán ở Việt Nam
Theo quy định của Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN cụ thể tại Điều 2 của
Quy chế ban hành kèm theo Quyết định trên thì các chủ thể liên quan đến việc
sử dụng thẻ thanh toán gồm nhiều chủ thể tham gia như: tổ chức phát hành thẻ
(TCPHT), tổ chức thanh toán thẻ (TCTTT), chủ thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ

(ĐVCNT), tổ chức chuyển mạch thẻ (TCCMT) và tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT).
12


Tổ chức phát hành thẻlà ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ
chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác khơng phải là tổ chức tín dụng được phép
phát hành thẻ theo quy định tại Điều 9, Quy chế này. Là đơn vị cấp thẻ thanh
toán cho các chủ thẻ sửdụng và cung ứng các dịch vụ thanh tốn liên quan đến
thẻ đó.
Tổ chức thanh tốn thẻ là ngân hàng, tổ chức khác không phải là ngân hàng
được phép thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ theo quy định tại Điều 14, Quy chế
này. Là đơn vị cung ứng dịch vụ thanh tốn cho khách hàng của mình là những
cơ sở chấp nhận thẻ.Một tổ chức vừa có thể đóng vai trị là tổ chức thanh tốn
vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành.
Chủ thẻ là cá nhân hoặc tổ chức được TCPHT cấp thẻ để sử dụng.Trong
trường hợp TCPHT cấp thẻ cho một cá nhân thì cá nhân này vừa là chủ tài
khoản thẻ vừa là người trực tiếp sử dụng thẻ.Trong trường hợp TCPHT cấp thẻ
cho một tổ chức thì tổ chức này là chủ tài khoản thẻ nhưng phải ủy quyền cho
một hoặc nhiều cá nhân trực tiếp sử dụng thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ là tổ chức hoặc cá nhân chấp nhận thanh tốn hàng
hóa và dịch vụ, cung cấp dịch vụ nạp, rút tiền mặt bằng thẻ.
Tổ chức chuyển mạch thẻlà tổ chức trung gian cung ứng dịch vụ kết nối hệ
thống xử lý giao dịch thẻ cho các TCPHT, TCTTT và ĐVCNT theo thoả thuận
bằng văn bản giữa các bên liên quan.
Tổ chức thẻ quốc tế là tổ chức cho phép các ngân hàng phát hành thẻ và
làm trung tâm xử lý, cấp phép, thơng tin giao dịch, thanh tốn của các ngân hàng
thành viên trên toàn thế giới. Khác với ngân hàng thành viên, tổ chức thẻ quốc tế
khơng có quan hệ trực tiếp với chủ thẻ hay đơn vị chấp nhận thẻ, mà chỉ cung
cấp một mạng lưới viễn thơng tồn cầu phục vụ cho quy trình thanh tốn, cấp
phép cho ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng. Mỗi tổ chức thẻ quốc tế

đều có tên trên sản phẩm của mình như Visa International, Mastercard
International, American Express, Diners Club, JCB…
Ngồi các chủ thể trên, cịn có các chủ thể liên quan đến quá trình phát
hành, sử dụng và thanh toán thẻ thanh toán như:
Đại lý phát hành thẻ là đơn vị thay mặt cho TCPHT phát hành thẻ cho chủ
thẻ.
Người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chủ thẻ là cá nhân, tổ chức cầm cố,
thế chấp tài sản của mình hoặc bảo lãnh cho chủ thẻ để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ của chủ thẻ đối với TCPHT.

13


Hội thẻ ngân hàng Việt Nam là một tổ chức do các ngân hàng kinh doanh
thẻ thanh toán thành lập để hoạch định chiến lược và định hướng phát triển dịch
vụ thẻ trên thị trường Việt Nam, là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, tạo sự hợp tác
tương trợgiữa các ngân hàng thành viên.
Liên quan đến việc phát hành, sử dụng thanh tốn thẻ thanh tốn cịn một
chủ thể đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước do các hoạt động của chủ thể này gắn
liền với quyềnlực nhà nước.
1.2.2 Các quan hệ xã hội liên quan đến thẻ thanh toán ở Việt Nam
1.2.2.1 Các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ thanh toán
Quan hệ giữa TCPHT và chủ thẻ:là một trong những quan hệ cơ bản liên
quanđến thẻ thanh toán. Quan hệ này là cơ sở cho việc phát hành thẻ thanh toán
ra thị trường.
Quan hệ giữa chủ thẻ với ĐVCNT: phát sinh khi chủ thẻ mua, sử dụng
hàng hóa,dịch vụ mà ĐVCNT cung cấp. Thay vì thanh toán bằng tiền mặt, séc…
Quan hệ giữa ĐVCNT với TCTTT: Các tổ chức, cá nhân cung ứng hàng
hóa dịch vụ cho người tiêu dùng đều có thể trở thành ĐVCNT nếu có ký kết hợp
đồng với TCTTT. Do vậy, mối quan hệ giữa ĐVCNT với TCTTT được xác lập,

thay đổi và chấm dứt theo các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng này.
Quan hệ giữa TCPHT và TCTTT: TCPHT và TCTTT đều là các tổ chức
kinh doanh dịch vụ thẻ và thông thường đều phát hành thẻ của riêng mình cũng
như có riêng mạng lưới các ĐVCNT. Tuy nhiên, trong q trình giao dịch thẻ
thanh tốn, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của TCPHT và TCTTT là riêng biệt.
Quan hệ giữa TCCMT với TCPHT và TCTTT: Trong nền kinh tế thị trường
tự do cạnh tranh, có rất nhiều các tổ chức cùng kinh doanh dịch vụ thẻ thanh
toán và không phải tất cả các tổ chức này đều ký kết hợp đồng hợp tác với nhau.
Để việc thanh tốn thẻ được tiện dụng, phổ biến và tương thích với thẻ thanh
toán quốc tế, trên thị trường xuất hiện các tổ chức trung gian làm đầu mối liên
hệ các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ thanh toán lại thành một mạng lưới. Để
thực hiện được việc thanh toán trong mạng lưới này, hợp đồng ký kết giữa
TCCMT với từng tổ chức kinh doanh thẻ phải ghi rõ quyền và trách nhiệm khi
đóng vai trị TCTTT, TCPHT và tổ chức trunggian thanh toán khi thực hiện giao
dịch thanh toán giữa hai bên TCPHT và TCTTT.
Quan hệ giữa TCPHT, TCTTT trong nước với TCTQT: TCTQT về bản
chất cũng là một Tổ chức thanh tốn trung gian. Một TCTQT thơng thường là
một TCPHT nước ngồi, có uy tín trong việc phát hành, sử dụng và thanh toán
một loại thẻ thanh toán như Visacard, MasterCard, Amex…
14


1.2.2.2 Các quan hệ liên quan gián tiếp đến giao dịch thẻ thanh toán
Quan hệ giữa đại lý phát hành thẻ với TCPHT: Phát sinh trên cơ sở hợp
đồng đại lý phát hành thẻ. Nhằm phát triển dịch vụ thẻ của mình khi mạng lưới
chi nhánh khơng đáp ứng được yêu cầu mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, các
TCPHT có thể lựa chọn một sốcá nhân, tổ chức theo tiêu chuẩn của mình để ủy
quyền thực hiện một số công đoạn của nghiệp vụ phát hành như marketing, tiếp
nhận thông tin khách hàng, nhận và trảthẻ cho khách hàng…
Quan hệ giữa chủ thẻ với đại lý phát hành thẻ: Phát sinh trên cơ sở khách

hàng đến thực hiện thủ tục phát hành thẻ tại đại lý phát hành thẻ.
Quan hệ về bảo đảm tiền vay: Đây là mối quan hệ giữa người bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của chủ thẻ với TCPHT. Người bảo đảm có thể là chính chủthẻ
khi chủ thẻ dùng tài sản của chính mình để cầm cố, thế chấp, ký quỹ… bảo đảm
cho nghĩa vụ trả nợ phát sinh hay cũng có thể là người thứ ba bảo lãnh cho chủ
thẻ hoặc cầm cố, thế chấp, ký quỹ… tài sản của chính mình để bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ của chủ thẻ đối với TCPHT.
Quan hệ giữa Hội thẻ ngân hàng Việt Nam với các thành viên: Xuất phát từ
nhu cầu xây dựng và phát triển lành mạnh thị trường thẻ Việt Nam, vào tháng
8/1996, Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam ra đời, do 4 TCPHT đầu tiên tại Việt Nam
lúc đó sáng lập nên.
Quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước với các chủ thể trên: “Chức năng quản
lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng là chức năng cơ bản của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam”. Cũng như đối với hoạt động ngân hàng nói chung,
để quản lý, điều tiết, kiểm soát hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán, ngoài việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, NHNN còn trực tiếp can thiệp vào
hoạt động của các chủ thể liên quan như: thẩm tra điều kiện, trình tự, thủ tục,
cấp và thu hồi giấy phép của các chủ thể phát hành, thanh toán thẻ thanh toán;
kiểm tra, thanh
tra hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán; xử lý các vi phạm; thúc đẩy sự
phát triển lành mạnh của thị trường thẻ thanh toán…
1.2.3 Phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ thanh toán
Cơ sở pháp lý của việc phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ thanh toán
được quy định tại Điều 8 của Quy chế ban hành kèm theo Quyết định
20/2007/QĐ-NHNN như sau:
“1. Việc phát hành, sử dụng, thanh toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt
động thẻ phải thực hiện theo các quy định tại Quy chế này và các quy định khác
của pháp luật Việt Nam có liên quan.
15



2. Trường hợp liên quan đến hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán
thẻ quốc tế, các tổ chức và cá nhân có thể áp dụng các quy định của tổ chức thẻ
quốc tế mà các tổ chức, cá nhân này tham gia và không trái với các quy định
khác của pháp luật Việt Nam có liên quan.
3. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tham gia ký kết hoặc là thành viên có quy định khác với quy định của Quy
chế này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
4. Trường hợp hoạt động liên quan đến hoạt động thẻ mà pháp luật Việt
Nam chưa có quy định thì các bên có thể thoả thuận áp dụng tập quán quốc tế
nếu việc áp dụng tập quán quốc tế đó khơng trái với những ngun tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam.”
Từ những quy định trên có thể thấy việc phát hành, thanh toán và sử dụng
thẻ thanh toán phải dựa trên những quy định, quy chế về thẻ của pháp luật quốc
gia, của tổ chức phát hành và tổ chức thẻ quốc tế.
1.2.3.1 Phát hành thẻ thanh toán
Điều kiện phát hành thẻ thanh toán được quy định tại Điều 9 của Quy chế
ban hành kèm theo Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN như sau:
“Điều 9. Điều kiện phát hành thẻ
2. Tổ chức phát hành thẻ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện sau:
2.1. Đối với phát hành thẻ nội địa:
a) Nghiệp vụ phát hành thẻ phù hợp với phạm vi, điều kiện và mục tiêu
hoạt động của tổ chức phát hành thẻ;
b) Tuân thủ các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
theo quy định của pháp luật;
c) Xây dựng quy chế, quy trình thực hiện các nghiệp vụ phát hành thẻ;
d) Bảo đảm các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện
tử đối với nghiệp vụ phát hành thẻ;
đ) Tuân thủ các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về kiểm tra,
kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ phát hành thẻ;

e) Đăng ký loại thẻ và chức năng của loại thẻ tại Ngân hàng Nhà nước
trước khi phát hành;
g) Báo cáo và cung cấp đầy đủ, chính xác các thơng tin và văn bản có liên
quan nhằm chứng minh các điều kiện bảo đảm thực hiện nghiệp vụ phát hành

16


thẻ; báo cáo đầy đủ và chính xác các thơng tin thống kê phục vụ cho mục tiêu
quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước;
h) Tuân thủ các quy định khác tại Quy chế này.
2.2. Đối với phát hành thẻ quốc tế:
Ngoài các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều này, tổ chức phát hành thẻ
quốc tế còn phải đủ điều kiện hoạt động ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam quy định.”
Quy trình phát hành thẻ gồm các bước như sau:
Bước 1: Khách hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ
Khách hàng cần xuất trình các giấy tờ tuỳ thân như chứng minh thư nhân
dân hoặc qn đội hoặc hộ chiếu. Ngồi ra cịn phải xuất trình một số giấy tờ
khác như: giấy thơng hành, biên lai trả lương, nộp thuế thu nhập...
Bước 2: Khi nhận đủ hồ sơ, TCPHT tiến hành thẩm định lại hồ sơ.
Thẩm định lại hồ sơ làxem xét tính chính xác của hồ sơ, tình hình tài chính
(nếu khách hàng là công ty), hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách
hàng (nếu là cá nhân).
Nếu hồ sơ xin phát hành thẻ đã hợp lệ thì TCPHT sẽ tiến hành phân loại
khách hàng theo các yếu tố sau: hạng thẻ phát hành (thẻ vàng hay thẻ thường),
hạn mức tín dụng, thời hạn thẻ.
Bước 3: Sau khi thẩm định và phân loại khách hàng, nếu khách hàng đáp
ứng đủ điều kiện thì TCPHT tiến hành mã hóa thẻ và in thẻ, xác định mã số cá
nhân (PIN) của chủ thẻ và gửi cho chủ thẻ. Chủ thẻ nhận thẻ, ký vào hợp đồng

sử dụng thẻ và chữ ký ở mặt sau của thẻ.
Sau khi giao thẻ cho khách hàng, coi như nghiệp vụ phát hành thẻ đã kết
thúc.
Thời gian kể từ khi khách hàng đề nghị mua thẻ đến khi nhận được thẻ
thơng thường khơng q 5 ngày.
1.2.3.2 Thanh tốn thẻ thanh tốn
QUY TRÌNH THANH TỐN THẺ
CHỦ THẺ

ĐƠN VỊ CHẤP
NHẬNTHẺ

TỔ CHỨC
PHÁT HÀNH
17


TỔ CHỨC
THANH TOÁN

TỔ CHỨC THẺ
QUỐC TẾ

Chấp nhận thẻ
Khách hàng sau khi mua thẻ có thể sử dụng ngay thẻ đó để mua hàng hoá,
dịch vụ tại các ĐVCNT.Khách hàng xuất trình thẻ, ĐVCNT sẽ tiến hành kiểm
tra tính hợp lệ của thẻ.Sau khi kiểm tra xong, ĐVCNT sẽ lập hóa đơn thanh tốn
và u cầu chủ thẻ ký vào đó.ĐVCNT sẽ so sánh chữ ký đó với chữ ký mẫu trên
thẻ.Sau một khoảng thời gian nhất định (thường là một tuần) các ĐVCNT sẽ lập
bản kê cho từng loại thẻ để nộp ngân hàng đề nghị thanh toán.

Xin cấp phép
QUY TRÌNH CẤP PHÉP
Tổ chức thanh
tốn thẻ

Trung tâm xử
lý số liệu

Tổ chức phát
hành thẻ

Đơn vị chấp
nhận thẻ
Trường hợp giá trị giao dịch bằng hoặc lớn hơn hạn mức thanh toán hay có
nghi ngờ thẻ giả hay chủ thể có vấn đề thì ĐVCNT phải liên hệ với TCPHT
thơng qua TCTTT và trung tâm xử lý số liệu thuộc tổ chức thẻ quốc tế để xin
cấp phép. TCPHT sau khi kiểm tra hạn mức tín dụng sẽ trả lời cấp phép cho
ĐVCNT thơng qua trung tâm và TCTTT.
Thanh tốn
Tại tổ chức thanh toán thẻ: khi tiếp nhận hoá đơn và bảng kê, TCTTT phải
tiến hành xem xét tính hợp lệ của các thơng tin trên hố đơn. Nếu khơng có vấn
đề gì thì TCTTT tiến hành ghi nợ vào tài khoản của mình và ghi có vào tài
khoản của ĐVCNT. Việc ghi sổ này phải tiến hành ngay trong ngày nhận được
hoá đơn và chứng từ của ĐVCNT.
Sau đó TCTTT tổng hợp dữ liệu gửi đến trung tâm xử lý dữ liệu.Trung tâm
sẽ tiến hành chọn lọc dữ liệu, phân loại để bù trừ giữa các TCTTT và TCPHT,
đồng thời thực hiện báo có và báo nợ trực tiếp cho các ngân hàng thành
viên.TCPHT khi nhận thông tin, dữ liệu sẽ tiến hành thanh toán.Định kỳ trong
18



tháng, ngân hàng phát hành lập bảng sao kê báo cho chủ thẻ các khoản chủ thẻ
đã sử dụng và u cầu chủ thẻ thanh tốn (đối với thẻ tín dụng).
Từ chối thanh toán thẻ: Căn cứ vào Điều 16 của Quy chế được ban hành
kèm theo Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN.
“1. Thẻ bị từ chối trong các trường hợp sau:
a) Thẻ giả hoặc có liên quan đến giao dịch giả mạo;
b) Thẻ đã được chủ thẻ thông báo bị mất;
c) Số dư tài khoản tiền gửi thanh tốn, hạn mức tín dụng hoặc hạn mức
thấu chi (nếu có) khơng đủ chi trả khoản thanh tốn;
d) Chủ thẻ khơng thanh tốn đầy đủ các khoản thấu chi, các khoản tín
dụng, lãi hoặc phí theo quy định của TCPHT;
đ) Chủ thẻ vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các quy
định của TCPHT, TCTTT hoặc các thoả thuận giữa chủ thẻ với TCPHT.”
1.2.3.3 Sử dụng thẻ thanh toán
Điều kiện sử dụng thẻ thanh toán được quy định tại Điều 11 của Quy chế
được ban hành kèm theo Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN như sau:
“Điều 11: Điều kiện để sử dụng thẻ
1. Việc sử dụng thẻ phải có hợp đồng sử dụng thẻ giữa chủ thẻ và TCPHT.
Chủ thẻ phải đáp ứng những điều kiện sau:
a) Đối với chủ thẻ chính là cá nhân:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật;
- Trường hợp sử dụng thẻ ghi nợ phải có tài khoản tiền gửi thanh toán mở
tại TCPHT;
- Các điều kiện khác do TCPHT quy định.
b) Đối với chủ thẻ chính là tổ chức, phải có đủ các điều kiện sau:
- Là pháp nhân;
- Các điều kiện khác do TCPHT quy định.
c) Đối với chủ thẻ phụ, phải có đủ các điều kiện sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật; hoặc có

năng lực hành vi dân sự và từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
được người đại diện theo pháp luật của người đó chấp thuận về việc sử dụng
thẻ;
19


- Được chủ thẻ chính cam kết thực hiện tồn bộ các nghĩa vụ phát sinh liên
quan đến việc sử dụng thẻ;
- Các điều kiện khác của TCPHT.
Các quy định tại Điểm a, b, c, Khoản này không áp dụng cho các thẻ trả
trước vơ danh.
2. Đối với thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ có hạn mức thấu chi phải có thêm
các quy định cụ thể bằng văn bản về việc cấp tín dụng giữa chủ thẻ và TCPHT.”
Phạm vi sử dụng thẻ được quy định tại Điều 12 của Quy chế ban hành kèm
theo Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN như sau:
“1. Thẻ nội địa được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại
ĐVCNT, gửi, nạp, rút tiền mặt và sử dụng các dịch vụ khác theo thoả thuận với
TCPHT trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Thẻ quốc tế được sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại
ĐVCNT, gửi, nạp, rút tiền mặt và sử dụng các dịch vụ khác bằng đồng Việt Nam
trên lãnh thổ Việt Nam hoặc bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và
các đồng tiền khác được TCTTT chấp nhận làm đồng tiền thanh tốn ngồi lãnh
thổ Việt Nam.”
Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ cho các mục đích thanh tốn hàng hóa, dịch vụ
tại các ĐVCNT trong và ngồi nước; rút tiền mặt tại các quầy, phịng giao dịch,
các điểm ứng tiền mặt của TCPHT, TCTTT, máy rút tiền tự động ATM…Ngồi
ra, chủ thẻ cịn có thể thực hiện một số dịch vụ khác như kiểm tra hạn mức tín
dụng cịn lại của thẻ và các thơng tin khác liên quan đến thẻ, thanh toán chuyển
khoản…


20


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẺ THANH
TỐN TẠI NGÂN HÀNG NƠNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NƠNG
THƠN CHI NHÁNH THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT - TỈNH DAKLAK
2.1 Một vài nét cơ bản về Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
chi nhánh thành phố - tỉnh Daklak
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) được
thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1988,hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng
Việt Nam, đến nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Agribank là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực
trong phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đầu tư cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn.Agribank là Ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ
cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Lúc mới thành
lập, ngân hàng này mang tên Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam.Cuối
năm 1990, ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam.Cuối năm 1996, ngân hàng lại được đổi tên thành tên gọi như hiện nay.
Ngày 22/12/1992 Thống đốc ngân hàng nhà nước có quyết định số
603/NH-QĐ về việc thành lập chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tỉnh Daklak và
các chi nhánh khác trên địa bàn của tỉnh trong đó chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Buôn Ma Thuột, trụ sở chính đóng tại
địa chỉ số 40 - 42 Quang Trung, Phường Thắng Lợi, TP.Buôn Ma Thuột, Daklak
là đơn vị trực thuộc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nơng thơn Việt Nam.
Có quyền tự chủ trong kinh doanh theo phân cấp của ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nơng thơn Việt Nam, có con dấu riêng và có bảng cân đối tài sản theo
quy định của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chịu sự
ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với ngân hàng tỉnh về chức năng nhiệm vụ
được giao. Là một chi nhánh ngân hàng cấp II trực thuộc ngân hàng nông nghiệp
tỉnh quản lý.
Trong thời gian ngắn, NHNo&PTNT thành phố Bn Ma Thuột 28 chi

nhánh và phịng giao dịch trực thuộc của thành phố bao gồm phòng giao dịch
Ban Mê, phòng giao dịch Đại học Tây Nguyên, chi nhánh NHNo&PTNT Phan
Chu Trinh, phịng giao dịch Thành Cơng…
Với nền kinh tế trên địa bàn có những đặc thù riêng ban lãnh đạo đã bố trí
đội ngũ cán bộ cơng nhân viên, giảm cán bộ tối đa gián tiếp, tăng cường cán bộ
tín dụng trực tiếp xuống dân để làm công tác huy động vốn và đầu tư cho vay.Cụ
thể đến ngày 31/12/2015, NHNo&PTNT thành phố Buôn Ma Thuột đã có 92
cán bộ.

21


Trong thời gian NHNo&PTNT thành phố Buôn Ma Thuột đã thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị trên địa bàn, bám sát nội dung chiến lược phát triển kinh tế
trong các kỳ đại hội Đảng bộ, các kỳ họp Hội đồng nhân dân. Định hướng kinh
doanh của NHNo&PTNT Việt Nam, các giải pháp kinh doanh của
NHNo&PTNT tỉnh Daklak và các giải pháp kinh doanh tại đơn vị. Ngân hàng
đã có những nội dung đổi mới khách hàng, bạn hàng trong lĩnh vực thanh toán,
dịch vụ tiền tệ. Ngân hàng tổ chức kinh doanh theo hướng tạo điều kiện thuận
lợi để khách hàng cùng ngân hàng cùng phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu
quả đảm bảo an tồn và thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính sách Pháp
luật của Nhà nước. NHNo&PTNT thành phố Buôn Ma Thuột thực sự là người
bạn đồng hành của nhà nông trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn và nơng dân. Những dịch vụ mới đã xuất hiện như Internet
banking, hoặc Homebanking, ATM để đáp ứng nhu cầu tối ưu của dân cư nhằm
nắm giữ phạm vi ảnh hưởng cũng như hoạt động kiếm lời. Bên cạnh nâng cao
chất lượng hiệu quả kinh tế dịch vụ ngân hàng bằng việc hạch toán kinh tế nội
bộ theo chủ trương của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam đề ra và định
hướng kinh doanh của NHNo&PTNT cho toàn ngành. Kịp thời nắm bắt truyền
tải thông tin thực hiện cơ chế nghiệp vụ đến các tổ chức kinh tế. Hoạt động kinh

tế của nhân dân đã cho NHNo&PTNT thành phố Buôn Ma Thuột nâng cao hiệu
quả kinh doanh, đa dạng hoá các nghiệp vụ đầu tư tín dụng, góp phần vào việc
kìm chế lạm phát, ổn định tiền tệ tạo thêm sức mạnh cho các thành phần kinh tế
khác. Đồng thời tận dụng triệt để các điều kiện sẵn có mở rộng thị trường và đáp
ứng những nhu cầu mới phát sinh của nền sản xuất ở địa bàn hoạt động.
2.2 Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về thẻ thanh toán của Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Buôn Ma
Thuột- tỉnh Daklak
2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc áp dụng pháp luật về thẻ thanh tốn
của Ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn chi nhánh thành
phố Buôn Ma Thuột- tỉnh Daklak
Trong những năm gần đây, dịch vụ thẻ thanh toán đã trở nên sơi động và
bắt đầu có chiều sâu. Đặc biệt sự ra đời của quyết định số 20/2007/NHNN của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam điều chỉnh các quy định về phát hành,
thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng. Điều
này đã góp phần tạo một hành lang pháp lý rất quan trọng giúp thị trường có sự
phát triển vượt bậc về hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, số lượng các ngân
hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng gia tăng với việc cho ra đời hàng
loạt các sản phẩm thẻ tương đối hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng yêu
cầu của khách hàng.
22


Nhằm đẩy mạnh phát triển thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong nền kinh
tế, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án Đẩy
mạnh TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2015” (Quyết định số
2453/QĐ-TTg) với mục tiêu đề ra là đến cuối năm 2015, tỷ lệ tiền mặt trong
tổng phương tiện thanh toán dưới 11%. Chính điều này đã tạo điều kiện cho dịch
vụ thẻ thanh toán ngày càng phát triển, dịch vụ thẻ thanh tốn trong thời gian
qua đã có những chuyển biến đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển phương tiện

thanh tốn khơng dùng tiền mặt.Đối với NHNo&PTNN Việt Nam nói chung
NHNo&PTNN chi nhánh thành phố Bn Ma Thuột – tỉnh Daklak nói riêng,
việc phát triển dịch vụ thẻ thanh toán triển khai tương đối chậm so với các
NHTM khác. Tuy nhiên, dịch vụ thẻthanh toán của ngân hàng đã có những bước
phát triển đáng kể, từ vị thế là một ngân hàng đứng ở top dưới về dịch vụ thẻ,
song đến nay đã nhanh chóng phát triển trở thành một trong những ngân hàng
thương mại dẫn đầu.
Riêng với NHNo&PTNT chi nhánh thành phố Buôn Ma Thuột – tỉnh
Daklak, trước xu thế phát triển chung của toàn hệ thống và áp lực cạnh tranh
ngày càng
gay gắt, ngân hàng đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm
dịch
vụ nhằm thu hút khách hàng và khẳng định vị thế của mình.Quy mơ cung
ứng dịch vụ thẻ thanh tốn tăng trưởng qua từng năm, được thể hiện qua: số
lượng thẻ thanh toán, phát triển khách hàng và doanh số thanh toán.Thị trường
thẻ thanh toán đang và ngày càng phát triển đa dạng về chủng loại và nâng cao
về chất lượng. Số lượng thẻ tăng đều qua các năm. Đa dạng hóa sản phẩm dịch
vụ thẻ thanh toán. Chất lượng dịch vụ thẻ thanh toán tăng lên.Mức độ kiểm soát
và tần suất rủi ro thanh toán thẻ tại NHNo&PTNT chi nhánh thành phố Bn
Ma Thuột – tỉnh Daklak có chiều hướng giảm, độan tồn cao, tăng uy tín cho
ngân hàng.
Trong xu hướng gia tăng tính cạnh tranh, ngân hàng đã phát hành các loại
thẻ có độ bảo mật cao và cung cấp nhiều tiện ích đi kèm cho khách hàng sử
dụng thẻ, như rút tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán hoá đơn hàng hóa dịch vụ,
mua hàng hố trực tuyến, thấu chi tài khoản, hưởng các ưu đãi về dịch vụ và
giảm giá mua hàng tại các điểm liên kết, trả tiền bảo hiểm qua thẻ…

23



2.2.2 Những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về thẻ thanh tốn của Ngân
hàng nơng nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thành phố Buôn
Ma Thuột- tỉnh Daklak
Thứ nhất, các quy định về cho vay và bảo đảm an tồn trong hoạt động cho
vay cịn nhiều bất cập.
Nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ thanh toán là một trong các phương
thức cho vay do đó cần phải tuân theo các quy định của pháp luật về cho vay.
Tuy nhiên, phương thức cho vay bằng thẻ thanh toán có những đặc trưng riêng
mà việc áp dụng các quy định chung về cho vay vẫn còn những yếu tố khơng
phù hợp.
Về mục đích sử dụng vốn và nhu cầu sử dụng vốn: Quy chế cho vay 1627
cũng quy định một trong những nguyên tắc vay vốn là “Sử dụng vốn vay đúng
mục đích”. Nhưng với đặc thù của việc thanh toán bằng thẻ thanh toán là chi trả
tại ĐVCNT mà khơng thể xác định cụ thể và chính xác mục đích sử dụng vốn
ngay từ đầu trong Hợp đồng sử dụng thẻ thanh tốn.Ngồi ra, một trong những
điều kiện vay vốn là “mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp” (Điều 7 Quy chế cho
vay 1627) và quy định về các nhu cầu vốn không được cho vay (Điều 9) cũng
khó có thể bảo đảm.
Về mức lãi suất cho vay: Một trong những đặc thù của lãi suất cho vay
bằng thẻ thanh tốn là khi chủ thẻ khơng thanh toán đủ số tiền vay trong một
thời hạn nhất định thì TCPHT phải áp dụng mức lãi suất cao hơn rất nhiều lãi
suất cho vay thông thường. Quy định này vừa là thực tiễn và tập quán áp dụng ở
các quốc gia khác, vừa là quy định bắt buộc của TCTQT nên việc điều chỉnh
giảm mức lãi suất cho vay để phù hợp với Điều 476 BLDS 2005 về mức lãi suất
cho vay tối đa không vượt quá 150% lãi suất cơ bản là khó khả thi.
Về những trường hợp khơng được cho vay, cho vay khơng có tài sản bảo
đảm (Điều 77, Điều 78 Luật các tổ chức tín dụng và Điều 19, Điều 20 Quy chế
cho vay 1627): Quy định này không phù hợp với việc cho vay bằng thẻ thanh
tốn vì các khoản vay bằng thẻ thanh toán đều là các khoản vay nhỏ, số lượng
các đối tượng bị cấm và hạn chế nêu trên không phải là nhiều nên mức độ ảnh

hưởng đến rủi ro tín dụng không phải là lớn.
Thứ hai, các quy định về quản lý hoạt động thanh tốn.
Nhìn chung, pháp luật đã có những quy định cơ bản để thị trường thẻ vận
hành. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần có sự điều chỉnh sâu hơn của pháp
luật như: Vấn đề trích lập dự phịng rủi ro đối với nghiệp vụ thanh toán thẻ
thanh toán, vấn đề mua bảo hiểm cho nghiệp vụ thẻ thanh toán, vấn đề xử lý vi
phạm trong hoạt động thẻ thanh toán và vấn đề xử lý tranh chấp.
24


Thứ ba, các quy định về quản lý ngoại hối.
Theo Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 và Nghị định số
160/2006/NĐ-CP ngày 28-12-2006 về Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Ngoại hối thì Thẻ thanh tốn được coi là “ngoại hối” và do vậy thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật về quản lý ngoại hối. Tuy nhiên, quá trình phát hành,
thanh toán và sử dụng thẻ thanh toán cũng có nhiều bất cập và rất cần có sự điều
chỉnh rõ ràng của pháp luật.
Một là, khi công dân Việt Nam xuất cảnh qua cửa khẩu mà có mang theo
một hoặc nhiều thẻ thanh tốn thì khơng coi là hành vi mang ngoại tệ (vì khái
niệm ngoại tệ khơng bao gồm thẻ thanh toán).
Hai là,hạn mức khai báo hải quan khi mang ngoại tệ xuất cảnh là
7000USD/người, nếu vượt hạn mức này thì ngồi nghĩa vụ khai báo hải quan
cịn cần có giấy phép mang ngoại tệ khi xuất cảnh.
Ba là, khi chủ thẻ sử dụng thẻ thanh toán ở nước ngồi, sẽ phát sinh nghĩa
vụ thanh tốn bằng ngoại tệ cho chủ thể ở nước ngoài dẫn đến nhu cầu chuyển
ngoại tệ qua tài khoản của TCPHT ở trong nước cho tổ chức, cá nhân nước
ngoài (ĐVCNT ở nước ngồi).
Thứ tư, các quy định về phịng ngừa gian lận và tội phạm thẻ.
Vấn đề tội phạm thẻ thuộc ngành luật hình sự điều chỉnh. Tuy nhiên, việc
tìm hiểu các hành vi gian lận và tội phạm thẻ để nhận định các rủi ro trong hoạt

động kinh doanh thẻ, từ đó đưa ra các biện pháp phịng ngừa, phân định trách
nhiệm các bên và xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp là một nhu cầu cấp
thiết. Mặc dù có khá nhiều các hành vi gian lận và tội phạm trong lĩnh vực thẻ,
các quy định về phòng ngừa rủi ro, giải quyết tranh chấp phát sinh lại tương đối
hạn chế. Như vậy, mặc dù các hành vi gian lận và tội phạm thẻ là khá đa dạng
thì cơ chế xử lý và giải quyết hậu quả lại chưa rõ ràng, chưa đồng bộ, đồng thời
chưa có cả các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Chế tài xử phạt còn quá nhẹ nên
chưa đủ tính răn đe tội phạm. Nếu việc phân định trách nhiệm được minh bạch
và rõ ràng hơn thì khả năng phịng ngừa rủi ro chắc chắn cũng sẽ đạt được hiệu
quả cao hơn.
2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thẻ thanh tốn
của Ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thôn chi nhánh thành phố
Buôn Ma Thuột- tỉnh Daklak
Với những khó khăn trên thì sẽ có các giải pháp tương ứng như sau:
Thứ nhất, Về một số quy định cho vay bằng thẻ thanh toán.

25


×