Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT - NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG “BÚT KÝ TRIẾT HỌC” CỦA LÊNIN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.64 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1.

Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm

1.1.
1.2.
2.

Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Kết cấu của tác phẩm
Những vấn đề về phép biện chứng trong
“Bút ký triết học” của Lênin và ý nghĩa đối
với việc bảo vệ, phát triển triết học Mác-

2.1.

Lênin hiện nay
Những vấn đề về phép biện chứng trong tác

2.2.

phẩm “Bút ký triết học” của Lênin
Ý nghĩa đối với việc bảo vệ, phát triển triết
học Mác-Lênin hiện nay

KẾT
LUẬN


Tên tiểu luận: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG
“BÚT KÝ TRIẾT HỌC” CỦA LÊNIN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN HIỆN NAY

MỞ ĐẦU


Triết học Mác – Lênin nó chung và phép biện chứng duy vật nói riêng ra
đời đã đánh dấu một bước ngoặt cách mạng vĩ đại trong lịch sử tư tưởng, tạo
ra một hệ thống triết học khác về chất so với tất cả các hệ thống triết học
trong lịch sử, hệ thống triết học đó không chỉ giải thích mà còn cải tạo thế
giới. Phép biện chứng duy vật ra đời, phát triển không phải là một hiện tượng
ngẫu nhiên, ý muốn chủ quan của một giai cấp trong lực lượng xã hôi này,
càng không phải do thượng đế hay các lực lượng siêu nhân khác tạo ra, mà nó
hoàn toàn mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động phát
triển của lịch sử nhân loại. Đồng thời đáp ứng yêu cầu cấp bách giải phóng
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức,
bóc lột của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Trải qua quá trình tồn tại và phát triển trong nhiều giai đoạn lịch sử phép
biện chứng duy vật đã trở thành phương pháp luận cho các Đảng Cộng sản và
phong trào công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chôngs lại chủ nghĩa tư
bản, xây dựng xã hội mới, xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Với sứ mệnh cao cả đó,
phép biện chứng duy vật “linh hồn sống của chủ nghĩa Mác” đã đưa lại sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhiều nước trên thế giới đến những thắng lợi
hết sức vĩ đại, tạo ra bước ngoặt lịch sử to lớn. Ngày nay, trước những biến
động đảo lộn diễn ra nhiều nơi trên thế giới, với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào tình trạng
khủng hoảng, phong trào cách mạng thế giới gặp nhiều tổn khó khăn. Lợi
dụng tình hình đó, phong trào chống Mác, chống lại những nguyên lý, quy
luật, phạm trù của triết học Mác - Lênin lại rầm rộ nổi lên. Các học giả tư sản,

các thế lực thù địch và những người giả danh mácxít ra sức kêu gào, xuyên
tạc, đòi phủ nhận học thuyết khoa học cách mạng đó. Họ cho rằng, triết học
Mác - Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật đã trở nên lỗi thời, lạc hậu,
không còn giá trị gì đối với lịch sử, và thời đại.


Với nhân quan khoa học, sự công bằng khách quan, chúng ta khẳng định
rằng, triết học Mác - Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng
vẫn là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa
học và thực tiễn cách mạng nhất là trong vấn đề bảo vệ, phát triển triết học
Mác – Lênin hiện nay. Với ý nghĩa đó, việc nghiêm túc nghiên cứu nhận thức
những vấn đề về phép biện chứng của Lênin trong hai tác phẩm kinh điển gốc
“Những “Người bạn dân” là như thế nào và họ đấu tranh chống những người
dân chủ xã hội ra sao?” và “Bút ký triết học” có ý nghĩa không chỉ về mặt lý
luận mà cả trong thực tiễn, không chỉ đối với lịch sử, hiện tại mà cả tương lai
đối với sự phát triển của triết học Mác – Lênin.


NỘI DUNG
1. Điều kiện lịch sử Lênin bảo vệ, phát triển phép biện chứng của
triết học Mác
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Tình hình thế giới
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc.
Giai cấp tư sản ngày càng thể hiện rõ tính chất phản động, chúng điên cuồng
sử dụng bạo lực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho những
mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản càng trở nên gay gắt, trầm trọng
dẫn đến chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914 đến năm 1918.
Trong điều kiện lịch sử đó, giai cấp vô sản phát triển mạnh cả về số
lượng và chất lượng. Bởi, chủ nghĩa tư bản phát triển nên kéo theo số lượng

giai cấp vô sản cũng ngày càng tăng lên, phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản được tổ chức, lãnh đạo chặt chẽ chuyển từ tự phát sang tự giác. Chủ nghĩa
Mác thâm nhập vào phong trào công nhân, các Đảng cộng sản lần lượt ra đời.
Giai cấp công nhân đã có khả năng lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Vào đầu thế kỷ XX tình hình thế giới diễn biến phức tạp, những mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt đẩy nhân loại vào cuộc đại chiến
thế giới, các nước đế quốc tàn sát lẫn nhau, tình hình đó cũng tạo ra điều kiện
thuận lợi để nổ ra cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phong trào cộng sản và công nhân lúc đó lại rơi vào cuộc khủng hoảng,
đa số các lãnh tụ của Quốc tế II không nhận rõ tính chất đế quốc xâm lược
của cuộc chiến tranh, đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa sôvanh nước lớn,
ủng hộ chính phủ tư sản tiến hành chiến tranh đế quốc, phản lại lợi ích giai
cấp vô sản, không biết chớp thời cơ biến cuộc chiến tranh giữa các nước đế
quốc thành nội chiến cách mạng, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
lật đổ giai cấp tư sản thống trị ở nước mình.


Lênin đã sớm nhận thức rõ những đặc trưng của thời đại mới, phân tích
sâu sắc những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc và chỉ ra chủ nghĩa đế quốc
là đêm trước của cuộc cách mạng của giai cấp vô sản. Nhưng đa số lãnh tụ
của Quốc tế II đã chống lại tư tưởng của Lênin, đưa Quốc tế II vào con đường
phá sản. Trước bước ngoặt mới của lịch sử và tình thế cách mạng, Lênin thấy
cần thiết phải vũ trang cho đảng cộng sản và giai cấp công nhân lý luận cách
mạng để nhận thức đúng về thời đại mới, về bản chất của cuộc chiến tranh đế
quốc, về con đường đi lên của cách mạng vô sản.
Tình hình thế giới đó đặt ra vấn đề đối với Đảng Xã hội - Dân chủ là:
đứng trên lập trường của giai cấp tư sản nước mình ủng hộ cuộc chiến tranh,
đi xâm lược dân tộc khác, chống lại người anh em giai cấp vô sản của mình
hay là chống lại cuộc chiến tranh đế quốc, biến cuộc chiến tranh đó thành

cuộc nội chiến cách mạng, đánh đổ giai cấp tư sản thống trị. Các lãnh tụ của
Quốc tế II đã chọn lập trường của giai cấp tư sản, phản bội lại giai cấp công
nhân. Cơ sở lý luận của đường lối phản động đó là chủ nghĩa chiết trung và
thuyết ngụy biện.
Về mặt lý luận, Lênin phải đề cao phép biện chứng duy vật, chống lại
thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung của những lãnh tụ Quốc tế II. Cơ sở
lý luận của những quan điểm và đường lối sai lầm của Quốc tế II là sự phản
lại phép biện chứng duy vật. Ngay từ năm 1899, Bécstanh đã công khai chống
lại phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác, ông ta đòi hỏi phải "trở về
với Cantơ".
Cauxky cũng là một lãnh tụ của Quốc tế II không hiểu ý nghĩa của phép
biện chứng duy vật và cũng chống lại phép biện chứng duy vật, nhưng không
trắng trợn, công khai như Bécstanh. Plêkhanốp là nhà triết học mácxít kiệt
xuất lúc đó, tuy vậy ông có hạn chế là coi nhẹ và lý giải lệch lạc phép biện
chứng duy vật, quy phép biện chứng chỉ là tổng cộng các ví dụ thực tế. Và
cuối cùng cũng đi theo chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II.


Vì không hiểu phép biện chứng duy vật và bị giai cấp tư sản mua chuộc
nên nhiều lãnh tụ của Quốc tế II đã không đứng vững trên lập trường cách
mạng của giai cấp vô sản, trước những tình hình phức tạp, họ đã trượt theo
chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Điều này thể hiện rõ nhất là thái độ
của họ đối với cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Khi nổ ra chiến tranh, thì
Plêkhanốp, Cauxky đã ngả theo lập trường của chủ nghĩa sôvanh của giai cấp
tư sản, kêu gọi giai cấp công nhân với chiêu bài "bảo vệ Tổ quốc" để bảo vệ
lợi ích của giai cấp tư sản nước mình mà tham gia vào cuộc chiến tranh đế
quốc, tàn sát những người anh em cùng giai cấp.
Hai quan điểm phát triển đối lập. Đó là quan điểm của phép biện chứng
duy vật, mà tiêu biểu cho quan điểm này là Lênin và quan điểm chống lại
phép biện chứng duy vật là quan điểm của một số lãnh tụ của Quốc tế II.

Trong giai đoạn lịch sử này Lênin tập trung phê phán lý luận của các lãnh tụ
Quốc tế II như Cauxky và Plêkhanốp...Những lãnh tụ này dùng thuyết ngụy
biện và chủ nghĩa chiết trung biện hộ cho chủ nghĩa xã hội sôvanh.
Năm 1915, Lênin viết tác phẩm Về vấn đề phép biện chứng, lần đầu tiên
Lênin nêu lên tư tưởng về hai quan điểm phát triển đối lập nhau. Đây cũng là
một sự tổng kết cả quá trình đấu tranh tư tưởng của Lênin từ trước đến bây
giờ nhằm chống lại những tư tưởng phản biện chứng giả danh biện chứng.
Plêkhanốp và Cauxky ngả theo lập trường của chủ nghĩa sôvanh tư sản lập
luận một cách ngụy biện nhưng vẫn mang danh phép biện chứng.
Hơn nữa bước vào đầu thế kỷ XX tình hình mới đặt ra nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách cần được giải quyết:
Một là, làm rõ chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn tột cùng của nó là
chủ nghĩa đế quốc, phải làm rõ bản chất và những mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa đế quốc.
Hai là, làm rõ bản chất xâm lược và phản động của cuộc chiến tranh đế
quốc, chống lại lập trường của chủ nghĩa sôvanh tư sản.


Ba là, chớp thời cơ, biến cuộc chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách
mạng, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản.
Bốn là, vũ trang về mặt lý luận cho giai cấp công nhân, phê phán chủ
nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện của các lãnh tụ trong Quốc tế II, đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn cho phong trào công nhân.
Năm là, sự phát triển của khoa học tự nhiên và cuộc khủng hoảng vật lý
học cũng đang đặt ra những vấn đề cho triết học, nguyên nhân chủ yếu của
cuộc khủng hoảng đó là các nhà khoa học tự nhiên không nắm được phép
biện chứng duy vật.
Tình hình mới đặt ra những nhiệm vụ to lớn đó, đòi hỏi Lênin quan tâm
sâu sắc đến vấn đề lý luận, đặc biệt là về phép biện chứng duy vật.

Sau khi xuất bản tác phẩm triết học “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán” (1908), Lênin lại tiếp tục đi sâu nghiên cứu triết học,
đặc biệt là nghiên cứu phép biện chứng duy vật. Có lẽ Lênin định viết một tác
phẩm triết học về vấn đề này nhưng chưa kịp hoàn thành. Lênin chỉ để lại cho
chúng ta Tập bút ký, mà ngày nay tập hợp lại xuất bản thành sách với tên gọi
“Bút ký triết học” bao gồm những bản tóm tắt, những đoạn trích, những ghi
chú về các cuốn sách và những bài viết, những ghi chú, những nhận xét của
Lênin. Tác phẩm “Bút ký triết học” được Lênin viết trong khoảng thời gian
1895-1916, trong đó chủ yếu là 1914-1916 và lần đầu tiên xuất bản vào năm
1929-1930 sau đó được bổ sung và hoàn thiện dần.
1.2. Kết cấu của tác phẩm
Tập 29 trong V.I.Lê-nin Toàn tập gồm những bản tóm tắt, những đoạn
trích, những ghi chú về các cuốn sách và các bài khác nhau viết về triết học,
và cả những ý kiến và bút tích của Lê-nin ghi bên lề và trong văn bản các
cuốn sách triết học trong tủ sách riêng của Người.


Tập này được chia thành ba phần; trong mỗi phần có những tài liệu ít
nhiều đồng nhất về tính chất.
Phần I gồm 9 bản tóm tắt các tác phẩm triết học của Mác, Ăngghen,
Phoiơbắc, Hêghen…
Phần II gồm những ghi chú khác nhau về các sách, các bài viết và các bài
phê bình sách báo triết học từ 1903-1916.
Phần III gồm những đoạn trích các cuốn sách kèm theo những ý kiến và
bút tích của Lênin từ 1908-1911.
Trong các phần, tài liệu được sắp xếp theo thứ tự thời gian, trên cơ sở
những ngày tháng đã được xác định bằng phương pháp gián tiếp trước đây
hay là khi soạn tập này, bởi vì hầu như tất cả các tài liệu đều không được tác
giả đề ngày tháng.
Trong Lênin Toàn tập, cuốn “Bút ký triết học” thuộc về thời kỳ chiến

tranh thế giới thứ nhất, khi đó Lê-nin đã viết xong phần chính của các bản
tóm tắt, các đoạn trích và các ghi chú. Chính trong thời gian này, Lênin tóm
tắt cuốn "Khoa học lô-gích", và song song với việc đó, Người tóm tắt phần
một cuốn "Bách khoa toàn thư các bộ môn triết học" của Hêghen, "Những bài
giảng về lịch sử triết học" và "Những bài giảng về triết học của lịch sử" của
Hêghen, tác phẩm của Phoiơbắc "Trình bày, phân tích và phê phán triết học
của Lai-bni-txơ", của Ph.Lát-xan "Triết học của Hê-ra-clít Bí ẩn ở Ê-phe-xơ",
"Phép siêu hình" của A-ri-xtốt và một số cuốn sách khác về triết học và khoa
học tự nhiên. Những bản tóm tắt và những ghi chú này là nội dung của tám
tập bút ký giống nhau, bìa màu xanh mà Lênin đặt đầu đề là “Bút ký triết học.
Hê-ghen, Phơ-bách và những tác giả khác"; thuộc về loại này còn có bản tóm
tắt cuốn "Những bài giảng về bản chất của tôn giáo" của Phơ-bách; bản tóm
tắt này được viết trên các tờ rời, sớm nhất là năm 1909.


2. Những vấn đề về phép biện chứng trong “Bút ký triết học” của
Lênin và ý nghĩa đối với việc bảo vệ, phát triển triết học Mác-Lênin hiện
nay
2.1. Những vấn đề về phép biện chứng trong tác phẩm “Bút ký triết
học” của Lênin
Trong “Bút ký triết học”, Lênin tập trung chú ý vào vấn đề phép biện
chứng. Đây là một nội dung chủ yếu của triết học Mác. Kế thừa tư tưởng về
phép biện chứng trong lịch sử triết học và đặc biệt là triết học của Hêghen,
Lênin đã nêu ra và trình bày một cách sáng tạo về phép biện chứng duy vật.
Khái niệm về phép biện chứng
Bàn về khái niệm phép biện chứng trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”,
Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về phép biện chứng như sau: “Phép biện chứng
chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”1
Để bảo vệ, phát triển phép biện chứng của Mác và Ăngghen trong tác

phẩm này, Lênin đã đi từ việc phân tích sự khác nhau giữa hai quan điểm
khác nhau về phát triển trong lịch sử triết học qua đó đưa ra định nghĩa về
phép biện chứng. Lênin cho rằng trong lịch sử đã tồn tại hai quan điểm khác
nhau về sự phát triển: hoặc phát triển được xem như sự tăng lên đơn giản về
lượng, sự lặp lại (quan điểm thứ nhất); hoặc như sự thống nhất của các mặt
đối lập (quan điểm thứ hai). “Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự
vận động, động lực của nó, nguồn gốc của nó, động cơ của nó nằm trong bóng
tối (hay người ta đem nguồn gốc ấy đặt ra bên ngoài - Thượng đế, chủ thể
etc.). Với quan niệm thứ hai, sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận
thức nguồn gốc của “tự” vận động”2.
Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ
hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của “sự tự
1
2

C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, HN.1994, tr96
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, tr 379. Nxb TBM.1981


vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá
của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự
“chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”1.
Lênin nhấn mạnh rằng: Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ và sự
vận động. Trước hết, Lênin nói về sự vận động và tự thân vận động. Vận
động và vận động tự thân có những ý nghĩa khác nhau. Vận động là sự liên hệ
qua lại giữa các sự vật và hiện tượng, sự vận động tự thân là muốn nói đến
nguồn gốc của sự vận động, là mâu thuẫn bên trong của sự vật và hiện tượng.
Trong “Bút ký triết học”, Lênin nhấn mạnh đến sự vận động tự thân. Lênin
trích dẫn một đoạn của Hêghen nói về vận động tự thân: "Vận động và "tự

vận động" (đây là NB! vận động tự thân (độc lập), tự nhiên, tất yếu bên
trong), "sự biến đổi", "vận động và sức sống", "nguyên tắc của tất cả mọi sự
tự vận động", "xung lực"... kích thích "sự vận động" và "sự hoạt động" - đối
lập với "tồn tại chết"...". Lênin cho rằng, Hêghen đã nêu rõ căn nguyên bên
trong của vận động tự thân, đó là tính tất nhiên bên trong, xung lực bên trong
và sức sống... Do đó, vật chất là tự vận động, có tính năng động. Lênin nói
tiếp: "Ai có thể tin rằng đấy là bản chất của "chủ nghĩa Hêghen"... Cái bản
chất đó, phải phát hiện nó ra, hiểu nó,... bóc nó ra, lọc cho nó trong, và đó là
công việc mà Mác và Ăngghen đã làm"2. Ở đây Lênin chỉ ra hạt nhân hợp lý
của triết học Hêghen và nêu lên thái độ đúng đắn đối với nó. Bản thân Mác và
Ăngghen cũng đã làm như vậy.
Khoa học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ thứ XX đã chứng minh cho nguyên
lý vận động và phát triển của phép biện chứng duy vật. Điều đó làm cho
những người có đầu óc siêu hình cũng phải thừa nhận. Song, sự thừa nhận của
họ là miễn cưỡng, là bề ngoài, là không thực chất, hoàn toàn khác với phép
biện chứng duy vật. "Ở thế kỷ XX (và ngay hồi cuối thế kỷ XIX), "mọi người
1
2

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, tr 379. Nxb TBM.1981
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr150


đều đồng ý" với "nguyên tắc về sự phát triển". - Nhưng sự "đồng ý" nông cạn,
thiếu suy nghĩ, ngẫu nhiên, Philixtanh ấy là một loại đồng ý mà người ta dùng
để bóp nghẹt và tầm thường hoá chân lý". Tiếp đó, Lênin nói về nguyên lý
phát triển theo quan điểm biện chứng như sau: "Nếu tất cả đều phát triển thì
tức là tất cả đều chuyển hoá từ cái nọ sang cái kia, bởi vì, như người ta đã
biết, sự phát triển không phải là một sự lớn lên, một sự tăng thêm (respective
một sự giảm bớt) etc. đơn giản, phổ biến và vĩnh viễn"1.

Lênin đi sâu vào luận giải sự thống nhất phép biện chứng và nhận thức
luận. Lênin nói: "Một là phải hiểu một cách chính xác hơn sự tiến hoá là sự
sinh ra và sự huỷ diệt của mọi vật, là những sự chuyển hoá lẫn nhau. - Và hai
là, nếu tất cả đều phát triển, thì cái đó có áp dụng cho những khái niệm và
những phạm trù chung nhất của tư duy không? Nếu không thì tức là tư duy
không có liên hệ gì với tồn tại cả. Nếu có, thì tức là có phép biện chứng của
những khái niệm và phép biện chứng của nhận thức, phép biện chứng này có
một ý nghĩa khách quan"2.
Lênin nói về nguyên lý mối liên hệ của phép biện chứng duy vật. Sau khi
phân tích, phê phán "lôgích học" của Hêghen, Lênin cho rằng: "Nếu tôi không
lầm thì ở đây có nhiều chủ nghĩa thần bí và sự trống rỗng thông thái rởm
trong những suy luận ấy của Hêghen, nhưng tư tưởng cơ bản thì thiên tài".
Lênin muốn nói đến: "Tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, toàn diện, sống của
tất cả, với tất cả, và về sự phản ánh của mối liên hệ ấy"3.
Có nhiều loại liên hệ, nhiều hình thức liên hệ giữa các sự vật và hiện
tượng, mối liên hệ bản chất nhất là quy luật phổ biến. Theo Lênin, "quy luật =
phản ánh yên tĩnh của những hiện tượng". Trong cuộc sống, trong giới tự
nhiên, mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn biến đổi, nhưng cũng có những
mối liên hệ ổn định, tồn tại trong những quá trình đó, đấy là quy luật. Lênin
cho rằng: "Quy luật là hiện tượng có tính chất bản chất" và "quy luật và bản
1

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr270
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr270-271
3
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr155
2


chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một bậc), hay nói đúng hơn, là

cùng một trình độ, những khái niệm này biểu hiện con người nhận thức ngày
càng sâu các hiện tượng, thế giới"1.
Lênin trích dẫn câu nói của Hêghen: "Như vậy, quy luật là một quan hệ
bản chất", rồi sau đó ông viết: "Quy luật là quan hệ. Cái này NB đối với
những người theo chủ nghĩa Makhơ và những người theo thuyết bất khả tri
khác và những người theo chủ nghĩa Cantơ etc."2.
Lênin tán thành cách nói của Hêghen và cho rằng, điều đó đã chống lại
quan điểm của chủ nghĩa Makhơ... vì những người theo quan điểm duy tâm
chủ quan này và những người theo thuyết bất khả tri giải thích quy luật là
những giả thiết, những phù hiệu chủ quan của con người tạo ra để giải thích
sự vật và hiện tượng. Lênin khẳng định, quy luật là "mối quan hệ của những
bản chất hay giữa những bản chất". Về quy luật, Lênin cho rằng: "Khái niệm
quy luật là một trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính
thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá
trình thế giới"3.
Những quy luật cơ bản của phép biện chứng
Trong “Bút ký triết học”, Lênin bàn đến ba quy luật cơ bản: Quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật lượng đổi dẫn đến chất
đổi và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định. Ba quy luật này có mối liên
hệ mật thiết với nhau, Lênin coi quy luật mâu thuẫn là hạt nhân và thực chất
của phép biện chứng duy vật.
Về quy luật mâu thuẫn: Nội dung quy luật mâu thuẫn đã được Mác và
Ăngghen đề cập đến trong hệ thống của triết học Mác nhất là trong hai tác
phẩm “Chống Đuyrinh” và “Biện chứng của tự nhiên” của Ăngghen. Mác và
Ăngghen đều cho rằng: “mâu thuẫn tồn tại một cách khách quan ở trong bản
thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra dưới một hình thức hữu
1

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr161
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr163

3
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr159-160
2


hình”4 và “Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật như là đứng im và không
có sinh khí, cái nào riêng cho cái ấy, cái này bên cạnh cái kia và cái này nối
tiếp cái kia, thì chắc chắn là chúng ta không thấy được một mâu thuẫn nào
trong các sự vật cả”2
Lênin cho rằng quy luật mâu thuẫn đã giải thích được căn nguyên của sự
vận động. Vấn đề này trong lịch sử triết học đã được đề cập đến, song những
nhà triết học siêu hình thì cho căn nguyên của vận động là một sức mạnh ở
bên ngoài thế giới vật chất và thường đi đến thần hay là Thượng đế. Những
nhà triết học duy tâm thì cho tinh thần là căn nguyên của vận động. Ngay
Hêghen là nhà triết học có tư tưởng biện chứng, song vì dựa trên lập trường
duy tâm khách quan nên không thể giải thích đúng đắn được căn nguyên của
sự vận động. Chỉ có phép biện chứng duy vật mới thực sự giải quyết được vấn
đề này. Trong tác phẩm “Bút ký triết học”, Lênin quan tâm và giải thích một
cách sâu sắc về căn nguyên của sự vận động đó là mâu thuẫn của sự vật và
hiện tượng, là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Lênin trích dẫn một đoạn của
Hêghen nói về mối quan hệ giữa vận động và mâu thuẫn: Mâu thuẫn, "nó là
cái phủ định trong sự quy định bản chất của nó, là nguyên tắc của mọi sự tự
vận động, mà sự tự vận động này không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu
hiện nào đấy của mâu thuẫn... Vận động là bản thân mâu thuẫn đang tồn tại"3.
Cũng với tinh thần mâu thuẫn là căn nguyên của vận động, Lênin viết:
""Nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau" - đó là lôgích bên trong khách
quan của sự tiến hoá và của sự đấu tranh của những sự khác nhau, của các
cực"4.
Trong tác phẩm, Lênin đã chỉ ra chỉ có tư duy biện chứng mới nắm được
mâu thuẫn, do đó mà giải thích được quá trình vận động tự thân của mọi sự

vật, hiện tượng. Ông viết: "Lý tính (trí tuệ) đang tư duy mài sắc sự khác nhau
1

C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, HN.1994, tr21
C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, HN.1994, tr201
3
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr148-149
4
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr106
2


đã cùn đi của cái khác nhau, tính nhiều vẻ đơn giản của những biểu tượng
thành một sự khác nhau bản chất, một sự đối lập. Chỉ khi nâng lên đến chóp
đỉnh của mâu thuẫn thì những cái nhiều hình nhiều vẻ mới trở nên động và
sống đối với nhau, - và mới chứa đựng một tính phủ định, tức là sự phốc động
bên trong của tự vận động và của sức sống"1.
Tiếp đến, trong bài Về vấn đề phép biện chứng, Lênin đã nói về quy luật
mâu thuẫn như sau: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ
phận mâu thuẫn của nó..., đó là thực chất... của phép biện chứng"2.
Lênin khẳng định, quy luật mâu thuẫn là thực chất và hạt nhân của phép
biện chứng duy vật. Sở dĩ như vậy là vì, quy luật mâu thuẫn là chìa khoá để
hiểu biết về các quy luật khác của phép biện chứng duy vật. Chính vì vậy mà
trong Bút ký triết học, Lênin đã hai lần nói rằng bản chất của phép biện chứng
là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Sau khi trình bày 16 yếu tố
của phép biện chứng, Lênin nói: "Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng
là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt
nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích
và một sự phát triển thêm"3.
Ở một chỗ khác Lênin lại viết: "Theo nghĩa đen, phép biện chứng là sự

nghiên cứu mâu thuẫn trong ngay bản chất của các đối tượng: không phải chỉ
riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những
giới hạn chỉ có tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế"4.
Quy luật thứ hai là quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại (gọi
tắt là quy luật lượng đổi, chất đổi). Khi phân tích, chứng minh quy luật
chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và
ngược lại để chống lại Đuyrinh, Ăngghen đã chỉ ra cách thức, con đường của
sự phát triển. Quá trình chuyển hoá từ chất này sang chất khác là sự đứt đoạn
1

V.I.Lênin Toàn tập,
V.I.Lênin Toàn tập,
3
V.I.Lênin Toàn tập,
4
V.I.Lênin Toàn tập,
2

Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr152
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr378
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr240
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr268


trong liên tục, là sự nhảy vọt về chất. Sự vật mới ra đời lại bao hàm sự thống
nhất mới về chất và lượng, ở đó lại tiếp tục diễn ra một quá trình biến đổi
mới… sự biến đổi về chất thành sự biến đổi về lượng.
Trong “Bút ký triết học”, Lênin nói về quy luật này như sau: "Phân biệt
bằng cách nào một sự chuyển hoá biện chứng với một sự chuyển hoá không
biện chứng? Bằng bước nhảy vọt. Bằng tính mâu thuẫn. Bằng sự gián đoạn

của tính tiệm tiến. Bằng tính thống nhất (đồng nhất) của tồn tại và không tồn
tại"1.
Lênin nhận xét sự trình bày quy luật này trong "Lôgích học" của Hêghen
như sau: "Sự chuyển hoá lượng thành chất, trong bản trình bày lý luận - trừu
tượng, thì tối nghĩa đến nỗi người ta không hiểu gì cả" 2. Hêghen phê phán
quan điểm cho rằng một sự vật mới ra đời là do quá trình tiệm tiến, theo
Hêghen, thì để cho sự vật mới ra đời phải có sự nhảy vọt về chất. Lênin chủ ý
trích dẫn câu nói của Hêghen: "Tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì
không giải thích được gì cả"3.
Trong khi nói về những yếu tố của phép biện chứng, Lênin đã nêu ra quy
luật này. Yếu tố thứ chín của phép biện chứng là: "Không phải chỉ là sự thống
nhất của các mặt đối lập, mà còn là những chuyển hoá của mỗi quy định, chất,
đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác [sang cái đối lập với nó?]" 4. Và
yếu tố thứ 15, Lênin nói đến sự biển đổi về chất là: "Đấu tranh của nội dung
với hình thức và ngược lại. Vứt bỏ hình thức, cải tạo nội dung"5.
Về quy luật phủ định của phủ định
Bàn về quy luật phủ định của phủ định, Ăngghen cho rằng: “Phủ định
của phủ định là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm
quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của
1

V.I.Lênin Toàn tập,
V.I.Lênin Toàn tập,
3
V.I.Lênin Toàn tập,
4
V.I.Lênin Toàn tập,
5
V.I.Lênin Toàn tập,
2


Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr303
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr127
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr133
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr239-240
Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr240


lịch sử và của tư duy”1 tr200. Bản chất của quy luật này thể hiện ở chỗ cái
mới dường như trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
Lênin quan tâm đến khái niệm phủ định biện chứng. Lênin đã nhận xét
về Hêghen khi Hêghen đánh giá Hêraclít: "Rất đúng và rất quan trọng: "cái
khác" như là cái khác của nó, sự phát triển thành cái đối lập của nó" 2. Ở đây,
Lênin nhấn mạnh phát triển là chuyển hoá sang mặt đối lập của nó. Chuyển
hoá sang mặt đối lập đó là quá trình phủ định, quá trình phủ định của phủ
định diễn ra thông qua hai lần phủ định, lần phủ định thứ nhất sẽ dẫn đến tạo
điều kiện cho sự phủ định lần thứ hai. Sự phủ định biện chứng được Lênin
giải thích là: "Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định
không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng
không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện
chứng, - dĩ nhiên, phép biện chứng bao hàm trong nó nhân tố phủ định, và
thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của nó, - không, mà là sự
phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự
duy trì cái khẳng định, tức là không có một sự do dự nào, không có một sự
chiết trung nào"3. Trong các yếu tố của phép biện chứng, yếu tố thứ 13 và 14
đã nói về quy luật phủ định của phủ định: yếu tố thứ 13: sự lặp lại, ở giai đoạn
cao, của một số đặc trưng, đặc tính etc. của giai đoạn thấp và... yếu tố thứ 14:
sự quay trở lại dường như với cái cũ.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật
Trong tác phẩm này Lênin không định nghĩa nhưng đã nêu ra nhiều tư

tưởng về phạm trù. Phạm trù theo Lênin là một hình thức phản ánh giới tự
nhiên trong nhận thức của con người. Phạm trù là vòng khâu của nhận thức.
Phạm trù là những giai đoạn cao của nhận thức con người. Phạm trù là những
điểm nút của thế giới khách quan và nó thể hiện sự tách khỏi của con người
đối với thế giới khách quan. Lênin viết “ Con người bản năng, người man rợ
1

C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, HN.1994, tr200
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr278
3
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr245
2


không tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự
tách khỏi đó tức là của sự nhận thức thế giới. Chúng là những điểm nút của
màng lưới”1. Quan niệm của Lênin về tính khách quan và tính lịch sử của
phạm trù là đối lập với quan niệm duy tâm của Hêghen về phạm trù. Lênin đi
sâu phân tích cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Bởi đây là quan hệ phổ
biến nhất mà con người thường gặp phải ngay trong từng hoạt động đơn giản
nhất. Nếu không nắm được quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì con người
sẽ vấp phải một cách không tự giác trong từng bước đi của mình. Lêni cho
rằng: “ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng” 2 ngược lại “
cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”3.
Ngoài ra, trong “Bút ký triết học” Lênin còn đề cập và làm rõ mối quan
hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung
và hình thức, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực.
Những yếu tố của phép biện chứng
Trong bản tóm tắt và phân tích “Lô-gích học” của Hêghen, Lênin đã
đánh giá các định nghĩa của Hêghen về phép biện chứng là những định nghĩa

sâu sắc, thể hiện được thực chất của phép biện chứng với tính cách là khoa
học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Với việc đưa ra 16 yếu tố của
phép biện chứng, Lênin đã phê phán cơ sở thế giới quan và tính không triệt để
của Hêghen và làm sáng tỏ phép biện chứng như là một khoa học triết học.
Yếu tố thứ nhất của phép biện chứng: “tính khách quan của sự xem xét
(không phải thí dụ, không phải dài dòng, mà bản thân sự vật tự nó)”. Lênin
đòi hỏi khi xem xét sự vật phải đặt nó trong tổng thể các quan hệ đa diện, đa
chiều của chính nó, điều kiện khách quan của việc hình thành và phát triển lô-gích khách quan của sự thay đổi.
Yếu tố thứ hai của phép biện chứng: Xem xét sự vật trong “tổng hoà
những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với sự vật khác”. Muốn hiểu được bản
1

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TBM. 1981. Tập 29. tr102
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr381
3
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr381
2


chất của sự vật, hiện tượng cần phải tính đến các mối quan hệ đa dạng của
chúng. Không nghiên cứu các mối liên hệ và quan hệ mọi mặt của từng sự vật
thì không nắm bắt được tính phức tạp trong cơ cấu của nó, tính phụ thuộc
nhân quả của các sự vật, hiện tượng. Các đặc tính, tính chất, khía cạnh của sự
vật bộc lộ ra thông qua những tác động, chi phối nhau giữa chúng. Vì thế,
trong quá trình tìm hiểu, phân tích sự vật cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện và
nguyên tắc thứ hai được rút ra: nguyên tắc lịch sử - cụ thể, hay nguyên tắc
tính cụ thể.
Các nguyên tắc toàn diện và lịch sử - cụ thể nằm trong sự thống nhất như
hai mặt của một tổng thể. Xem nhẹ các nguyên tắc này khó tránh khỏi tính
phiến diện siêu hình, chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện.

Yếu tố thứ ba của phép biện chứng đề cập đến nguyên lý về sự phát triển:
“sự phát triển của sự vật ấy (cũng như của hiện tượng), sự vận động của chính
nó, đời sống của chính nó”. Cần phải xem xét các sự vật trong sự vận động,
sự phát triển của chúng. Lênin chú trọng đến tính quy định khách quan của
quá trình phát triển. Trong quá trình phát triển luôn thể hiện các lực bên trong,
các khuynh hướng của sự vật, triển khai nhiều mặt ngày càng mới, khám phá
thêm các hình thức liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Điều quan trọng là phải
vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Sự đối lập có tính
nguyên tắc giữa phép biện chứng và phép siêu hình chính ở chỗ này.
Yếu tố thứ tư của phép biện chứng: “những khuynh hướng (và # những
mặt) mâu thuẫn bên trong của sự vật ấy”. Mâu thuẫn bên trong của các sự vật,
hiện tượng - đó là đặc tính phổ biến trong thực tiễn. Lênin viết: “bất cứ một
cái gì cụ thể cũng nằm trong những mối quan hệ khác nhau và thường là mâu
thuẫn với tất cả cái còn lại, ergo, nó là bản thân nó và là cái khác” 1. Lênin dẫn
lại quan điểm của Hêghen, theo đó mọi sự vật đều mâu thuẫn bên trong; “mâu
thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống; chỉ
1

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr146-147


trong chừng mực một sự vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì
nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động”1.
Yếu tố thứ năm của phép biện chứng: “sự vật (hiện tượng etc,.) coi là
tổng số # và sự thống nhất của các mặt đối lập”. Đó cũng là đặc trưng cơ bản
của phép biện chứng. Sự thống nhất của các mặt đối lập phản ánh quá trình
vận động và phát triển của sự vật. Khi xem xét các sự vật thực tế nằm ở hệ
thống này hay hệ thống khác của các mối liên hệ, cần phân tích những mặt
khác nhau của sự thống nhất của các mặt đối lập - sự thống nhất bên trong và
bên ngoài, hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất. Căn cứ vào đặc

trưng của sự thống nhất ấy mà chúng ta có thể phân loại các dạng mâu thuẫn
khác nhau.
Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một
cách cụ thể, xem xét những mối quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự
đồng nhất mang tính biện chứng, sự đồng nhất có chứa đựng các yếu tố khác
biệt.
Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập,
Lênin đưa ra một định nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn
tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như
thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có
những sự giải thích và một sự phát triển thêm”2.
Yếu tố thứ sáu của phép biện chứng: “sự đấu tranh respective* sự triển
khai của các mặt đối lập ấy, của những khuynh hướng mâu thuẫn etc. Yếu tố
này chỉ là quá trình triển khai các mặt đối lập, sự thâm nhập nhau của chúng.
Ngay cả các khái niệm phản ánh bản chất của sự thống nhất và tác động lẫn
nhau của các mặt đối lập cũng phải được mài sắc, gọt dũa, làm mềm dẻo, linh
hoạt, tương đối, liên hệ với nhau, thống nhất trong các đối lập, để có thể bao
quát thế giới. Nhận thức biện chứng cần phản ánh sự triển khai toàn bộ các
1
2

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr147-148
V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr240


lĩnh vực của thực tiễn chứa đầy mâu thuẫn; cùng lúc cần tạo ra sự đổi mới kịp
thời về mặt lý luận, để nghiên cứu một cách hiệu quả mối quan hệ nhiều mặt
của nó. Thiếu điều này thì không thể hiểu được giai đoạn phát triển và giải
quyết mâu thuẫn biện chứng. Giải quyết mâu thuẫn là kết quả khắc phục mặt
đối lập này bằng mặt đối lập khác. Một mâu thuẫn được giải quyết lại xuất

hiện những mặt đối lập mới trong quan hệ với nhau, có nghĩa là những mâu
thuẫn mới.
Yếu tố thứ bảy của phép biện chứng: “sự kết hợp phân tích và tổng hợp sự phân tích những bộ phận riêng biệt và tổng hòa, tổng của những bộ phân
ấy”. Sự thống nhất (hay kết hợp theo cách diễn đạt của Lênin) phép phân tích
và phép tổng hợp thể hiện trên nhiều bình diện khác nhau. Phép phân tích và
phép tổng hợp nằm trong sự thống nhất, mặc dù phản ánh các mặt đối lập
nhau của quá trình nhận thức.
Yếu tố thứ tám của phép biện chứng: “những quan hệ của mỗi sự vật
(hiện tượng etc.) không những là muôn vẻ, mà còn là phổ biến, toàn diện. Mỗi
sự vật (hiện tượng, quá trình etc.) đều liên hệ với mỗi sự vật khác”. Yếu tố
này nhấn mạnh tính phổ biến của mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác.
Đặc điểm quan trọng của nhận thức lý luận là làm sáng tỏ các mối liên hệ phổ
biến, toàn diện có tính quy luật.
Yếu tố thứ chín của phép biện chứng chỉ ra đặc trưng của sự chuyển hoá
các mặt đối lập. Lênin viết: “không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối
lập, mà còn là những sự chuyển hoá của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt,
thuộc tính sang mỗi cái khác [sang cái đối lập với nó?]”.
Yếu tố thứ mười của phép biện chứng: “quá trình vô hạn của việc tìm ra
những mặt mới, những quan hệ mới etc.”. Yếu tố này làm rõ thêm tư tưởng
của Lênin về mối liên hệ phổ biến của tất cả các sự vật, các hiện tượng thực
tiễn, tính vô tận, tính phức tạp của bản thân chúng và các cơ cấu hợp thành.
Phép biện chứng thể hiện ở đây với tính cách là nhận thức sinh động, phức tạp


và đa dạng (số lượng các mặt không ngừng tăng lên), bao hàm vô số những
mặt riêng biệt trong cách quan sát đi gần tới hiện thực.
Yếu tố thứ mười một của phép biện chứng: “quá trình vô hạn của sự đi
sâu của nhận thức của con người về các sự vật, hiện tượng, quá trình v.v.,
nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất
sâu sắc hơn”. Một cách cô đọng có thể hiểu rằng yếu tố này của phép biện

chứng vạch ra quá trình đào sâu không ngừng của việc nhận thức bản chất của
sự vật. Vận động của nhận thức khoa học bắt đầu từ chỗ tìm thấy bản chất của
các sự vật, hiện tượng ở ngay thực tiễn.
Yếu tố thứ mười hai của phép biện chứng: “từ sự cùng tồn tại đến tính
nhân quả và từ một hình thức liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau này đến một hình
thức khác sâu sắc hơn, chung hơn”. Mối liên hệ nhân quả là quan hệ cơ bản
trong thế giới, dù không phải là quan hệ duy nhất.
Yếu tố thứ mười ba của phép biện chứng: “sự lặp lại của một số đặc
trưng, đặc tính của giai đoạn thấp ở giai đoạn cao”.
Yếu tố thứ mười bốn của phép biện chứng: “sự quay trở lại dường như
với cái cũ (phủ định của phủ định)”.
Lênin đã đưa ra hai khía cạnh quan trọng nhất của phát triển là lưu giữ
cái tích cực, phù hợp trong quá trình phủ định, lặp lại cái cũ ở nấc thang cao
hơn nhờ củng cố và phát huy cái tích cực.
Sự phát triển của khoa học và trình độ nhận thức chung của con người
hôm nay càng khẳng định tính đúng đắn của quan điểm của Lênin về các yếu
tố của phép biện chứng.
2.2. Ý nghĩa đối với việc bảo vệ, phát triển triết học Mác – Lênin hiện
nay
“Bút ký triết học” với những tư tưởng rất sâu sắc về phép biện chứng là
một trong những tác phẩm kinh điển tiêu biểu nhất của triết học Mác - Lênin,
góp phần phát triển phép biện chứng duy vật và tiếp tục giải quyết một cách


sâu sắc, khoa học các vấn đề lý luận hết sức quan trọng như tính kế thừa trong
sự phát triển của triết học với tính cách là “tinh hoa về mặt tinh thần” của các
thời đại nối tiếp nhau. Những nội dung về phép biện chứng trong tác phẩm
“Bút ký triết học” có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệ và phát triển
triết học Mác- Lênin hiện nay.
Mặc dù là một tác phẩm khó đọc, nhưng trong đó chứa đựng rất nhiều tư

tưởng biện chứng duy vật có giá trị và có ý nghĩa lý luận to lớn. Trước hết, nó
trang bị cho các nhà triết học duy vật biện chứng cách xem xét, đánh giá lịch
sử, cụ thể ở đây là lịch sử tư tưởng triết học một cách trung thực và khoa học.
Cách xem xét, đánh giá đó là cơ sở cho chúng ta nhận định triết học Mác –
Lênin ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và là đỉnh cao của triết học nhân loại với
tính cách mạng, khoa học, sáng tạo, hoàn bị và triệt để nhất. Đồng thời là cơ
sở để những người mácxit chân chính có trách nhiệm bảo vệ và phát triển hệ
thống triết học đó trong giai đoạn hiện nay.
Phép biện chứng trong “Bút ký triết học” có ý nghĩa định hướng về thế
giới quan và phương pháp luận để bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin. Ở
bình diện thế giới quan, phép biện chứng của Lênin được trình bày trong tác
phẩm đã chỉ ra một cách cô đọng nhưng sâu sắc về những nội dung cơ bản
của phép biện chứng, nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm, vạch
ra mối liên hệ giữa nó với khả năng nhận thức của con người, chỉ rõ cơ sở xã
hội cho sự hình thành các phương án của chủ nghĩa duy tâm trong việc giải
thích thế giới, giới tự nhiên, con người. Cách đặt vấn đề của Lênin về đối lập
và “chuyển hoá” duy vật - duy tâm gợi cho người đọc một cách tiếp cận sinh
động, chứ không đơn điệu về các học thuyết triết học, dù đó là “duy tâm
thông minh”, hay “duy vật thô thiển, tầm thường”. Đó chính là những hiểu
biết cần thiết để chúng ta đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, cơ hội, xét
lại triết học Mác – Lênin hiện nay.


Ở bình diện phương pháp luận, phép biện chứng trong “Bút ký triết học”
một lần nữa đem lại cho người đọc “nghệ thuật” phân tích các sự vật, hiện
tượng tự nhiên, các quá trình lịch sử - xã hội, nhất là việc phân tích bối cảnh
lịch sử hiện nay để bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin. Tác phẩm gợi ra
cho người đọc “cách trình bày khác” về phép biện chứng duy vật trên cơ sở
lưu giữ nội dung cách mạng và khoa học của nó, linh hồn sống của chủ nghĩa

Mác. Trong cách trình bày của mình, Lênin nhấn mạnh đến phép biện chứng
như học thuyết về sự phát triển. Cách trình bày khác ấy của Lênin mở ra khả
năng phân tích các nguyên lý, các quy luật, các cặp phạm trù của phép biện
chứng không theo mô thức bất biến, không theo những khuôn mẫu định sẵn
và máy móc, mà theo bối cảnh, theo đòi hỏi của mục đích nghiên cứu, đi sâu
vào thực chất phép biện chứng. Đó là cơ sở để chúng ta thực hiện di chúc của
các nhà triết học mácxit không nên coi triết học của các ông là một cái gì đã
xong hoàn toàn mà phải luôn coi nó là một hệ thống mở cần phải có sự bổ
sung và phát triển. Tư tưởng về phép biện chứng của Lênin trình bày trong tác
phẩm cung cấp cho chúng ta phương pháp bảo vệ, phát triển triết học Mác –
Lênin một cách biện chứng linh hoạt, chống lại các quan điểm rập khuôn,
máy móc, siêu hình.
Phép biện chứng duy vật của Lênin trong “Bút ký triết học” mang đến
nhiều nội dung sâu sắc, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc luận chiến tư
tưởng, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phép biện chứng
duy vật mà Lênin phát triển trong Bút ký triết học có ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng để nghiên cứu các quy luật xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa, phục vụ cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, cơ hội, xét lại triết
học Mác – Lênin hiện nay.
Những bản tóm tắt, những đoạn trích, những ghi chú của Lênin về triết
học trong đó trọng tâm là phép biện chứng duy vật đã chỉ ra những con đường
phát triển hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và


lịch sử khoa học của triết học nhất là triết học Mác như Lênin đã từng viết:
"Sự kế tục sự nghiệp của Hêghen và của Mác phải là sự xây dựng một cách
biện chứng lịch sử của tư tưởng loài người, của khoa học và kỹ thuật"1.

Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát
triển của nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc và

triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Với bản chất
khoa học và cách mạng, phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung
cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự
khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói
chung. Vận dụng trung thành và sáng tạo triết học Mác - Lênin, đặc biệt là
phép biện chứng duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng
Sản và phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Việt Nam. Thực tiễn chứng
minh rằng, trải qua những bước thử thách khác nhau trong mọi hoàn cảnh,
phép biện chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ loài người, luôn có
ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Thực tiễn cũng luôn nảy sinh những vấn đề
hết sức phức tạp của từng nước, từng quốc gia, dân tộc và đặc điểm kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội...
Ngày nay, việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dưới sự xuyên tạc của
những kẻ thù tư tưởng của nó, cũng như việc thường xuyên nghiên cứu, phát
triển, hoàn thiện nó đều hết sức quan trọng. Muốn bảo vệ nhất thiết phải phân
tích, muốn phát triển phải bảo vệ bản chất khoa học cách mạng của phép biện
chứng duy vật. Thực tế khẳng định rằng, việc đó không chỉ là vấn đề thuần
tuý lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nóng bỏng hiện nay.
1

V.I.Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, HN.2005. Tập 29. tr156


KẾT LUẬN
Thông qua việc chứng minh mối liên hệ lẫn nhau của các quy luật phát
triển của thế giới khách quan và các quy luật của nhận thức, Lênin làm sâu
sắc thêm quan điểm về phép biện chứng như là một khoa học về sự phát triển
của thế giới khách quan, của tự nhiên, của xã hội và tư duy, xác định các yếu
tố của phép biện chứng, sự thống nhất giữa phép biện chứng - lý luận nhận
thức - lô-gích học. Từ góc độ phương pháp biện chứng, tác phẩm làm sáng tỏ

thêm quy luật kế thừa trong sự phát triển của tư duy triết học qua các thời đại.
Bút ký triết học được coi là tiêu điểm quy tụ những tư tưởng của Lênin
về lĩnh vực hết sức khác nhau của tri thức loài người. Lênin đã đề cập, phát
triển nhận thức về phép biện chứng, những quy luật và những phạm trù cơ
bản của nó, lịch sử hình thành và phát triển của chúng, ý nghĩa của chúng đối
với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, tính chất biện chứng của sự phát
triển xã hội.
Bút ký triết học có ý nghĩa phương pháp luận hết sức quan trọng để
trang bị cho những người mácxít vũ khí lý luận chống chủ nghĩa duy tâm,
giáo điều, xét lại, chủ nghĩa siêu hình và tôn giáo trong bảo vệ, phát triển triết
học Mác – Lênin hiện nay.


×