Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT - QUAN ĐIỂM VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG LỜI TỰA CHO TP “ GÓP PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ ” CỦA C.MÁC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.96 KB, 12 trang )

QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG LỜI TỰA CHO TÁC PHẨM “ GÓP
PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ ” CỦA C.MÁC.
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời nhau, thống nhất
biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định, nhưng không phải lúc nào
chúng cũng tương hợp với nhau. Tính chất phức tạp của mối quan hệ này thể hiện ở chỗ:
trong quá trình vận động phát triển của chúng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Vì
thế, nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể là yêu cầu tất yếu để giải quyết mâu thuẫn của chúng. Với
nước ta hiện nay, việc tìm hiểu mối quan hệ này đang là một đòi hỏi cấp bách để tìm ra
những hình thức, bước đi thích hợp trên con đường đổi mới phát triển đất nước, nhằm đưa
đất nước tiến nhanh đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát minh vĩ đại của C.Mác – là nội
dung cơ bản cốt lõi nhất để tạo ra diện mạo mới trong triết học Mác. Vượt qua tất cả các
nhà triết học trước đó, bằng phương pháp tiếp cận khoa học, C.Mác đã phát hiện ra những
quy luật của lịch sử từ một sự thật tưởng như đơn giản: đó là: “ con người trước hết cần
phải ăn, uống, ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo …
”1
Khi mà, nước Đức đã trở thành trung tâm kinh tế xã hội, khi mà phong trào công nhân
đang phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi được trang bị lý luận cách mạng khoa học, khi mà trên
lĩnh vực lý luận xuất hiện nhiều quan điểm, tư tưởng sai trái, tấn công xuyên tạc chủ nghĩa
Mác. Chính những yêu cầu bức thiết đó, đã thôi thúc C.Mác “ lần đầu tiên ” nghiên cứu
những vấn đề kinh tế xã hội “ để rút khỏi vũ đài xã hội và trở về phòng nghiên cứu của
mình ” và để dẫn đến kết quả là: “ không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng
như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của
con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những
quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất.” 2

1


2

C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập, Nxb ST, HN, 1983, tập 6, tr 662.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1993, tập 13, tr 14.


Lời tựa cho tác phẩm “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị ” được C.Mác viết trong
khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1858 đến tháng 2 năm 1859
và được xuất bản thành sách tháng 5 năm 1859. Lời tựa chỉ vẻn vẹn có năm trang sách
song đó là sản phẩm tích luỹ của 15 năm nghiên cứu với một số lượng tài liệu đồ sộ và
trong đó C.Mác đã thâu tóm toàn bộ những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đó là quan điểm duy vật biện chứng về sản xuất vật chất; về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất là nền tảng quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội; về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; về cách mạng xã
hội … Đặc biệt trong tác phẩm lần đầu tiên C.Mác đề cập đến cái gọi là “ xiềng xích của
các lực lượng sản xuất.” Tuy nhiên không phải đến đây C.Mác mới có những tư tưởng về
chủ nghĩa duy vật lịch sử mà đây chỉ là sự phát triển tiếp tục của những tư tưởng của ông
trước đó. Năm 1846, trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức ” toàn bộ những tư tưởng duy vật
lịch sử đã được C.Mác phác thảo trên những nét cơ bản, chính những tư tưởng cơ bản đó
đã tạo nên bước ngoặt cách mạng trong sự phát triển triết học Mác và đến năm 1865 thì
những tư tưởng về chủ nghĩa duy vật lịch sử đã được hoàn tất và nó trở thành vũ khí khoa
học, trở thành công cụ để giải phẫu xã hội tư bản, từ đó tìm ra quy luật phát sinh, phát
triển, diệt vong của nó. Với luận điểm nổi tiếng của C.Mác là: “ Tôi coi sự phát triển của
các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên ” 1 đã chứng minh cho sự phát
triển hoàn thiện của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong lời tựa cho tác phẩm “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị ” C.Mác đã
nêu lên lý do thôi thúc ông đi đến nghiên cứu lý giải những vấn đề xã hội đặt ra, đó là “
việc giải phẫu xã hội công dân này thì phải tìm ở trong khoa kinh tế chính trị ” và công
việc đó đã tiêu tốn khá nhiều thời gian của ông để rồi dẫn đến một “ kết quả chung mà tôi
đã đạt được và đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của tôi ” 2 và “ các

quan điểm của tôi, dù có bị người ta xét đoán như thế nào chăng nữa và cho dù chúng có ít
nhất trí như thế nào chăng nữa với những thiên kiến tự tư tự lợi của các giai cấp thống trị, thì chúng vẫn là kết quả của những sự nghiên cứu trung thực trong nhiều năm.”

3

Kết quả

sự nghiên cứu của C.Mác về lịch sử xã hội đã làm cho triết học Mác trở nên hoàn bị, khoa
học và cách mạng, nó là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Đúng như Ph.Ăng-ghen nhận
xét: tác phẩm của C.Mác là thành tựu phương pháp xuất sắc của các Đảng Cộng Sản, là
1
2
3

C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 23, tr 21.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1993, tập 13, tr 14.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1993, tập 13, tr 18.


bước quan trọng trong sự nghiệp khởi thảo thế giới quan của phương pháp khoa học của
giai cấp vô sản trong việc tiếp cận và nghiên cứu lịch sử xã hội.
Biện chứng của quá trình phát triển giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã
được C.Mác phân tích trong những điều kiện lịch sử - xã hội khác nhau, nhưng nó có ý
nghĩa phổ biến cho tiến trình vận động của lịch sử xã hội loài người. Trong lời tựa cho tác
phẩm “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị,” C.Mác viết: “ Về đại thể, có thể coi các
phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến
triển dần dần của hình thái kinh tế - xã hội. Các quan hệ sản xuất tư sản là hình thức đối
kháng cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội, đối kháng không phải với ý nghĩa là đối
kháng cá nhân, mà với ý nghĩa là đối kháng nảy sinh từ những điều kiện sinh hoạt xã hội
của cá nhân; nhưng những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản đồng thời

cũng tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết đối kháng ấy. Cho nên, với hình thái xã
hội tư sản, thời kỳ tiền sử của xã hội loài người đang kết thúc.” 1
Khi phân tích quá trình phát triển sản xuất của xã hội loài người, C.Mác đã đưa ra
kết luận: phương thức sản xuất vật chất quy định các quá trình chính trị, tinh thần, xã hội
của đời sống nói chung. Theo ông, trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, hay
nói cách khác, trong mỗi chế độ xã hội nhất định con người tiến hành sản xuất theo những
phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là một tổng thể thống nhất của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Điều đó có nghĩa là lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt gắn bó mật thiết không tách rời trong một phương thức sản xuất nhất định.
Trong đó mỗi mặt đều lấy mặt kia làm tiền đề, chúng tác động qua lại biện chứng lẫn nhau
làm cho sản xuất phát triển. Điều này đã được C.Mác khái quát, đó là: “ trong sự sản xuất
xã hội ra đời sống của, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc
vào ý muốn của họ – tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết
định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của
con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của
họ.” 2
1
2

C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1993, tập 13, tr 16.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1993, tập 13, tr 14 – 15.


Lao động sản xuất là đặc trưng riêng có của con người. Trong quá trình sản xuất,
con người luôn phải đồng thời tham gia vào hai mối quan hệ cơ bản mà C.Mác gọi là “ mối
quan hệ song trùng.” Để tiến hành sản xuất, con người phải quan hệ với giới tự nhiên, tác

động, cải tạo giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu của mình. Lực
lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên trong quá trình tạo ra
của cải vật chất. Đồng thời, con người không thể sản xuất có kết quả nếu tiến hành hoạt
động một cách đơn lẻ, riêng rẽ, mà phải liên kết với nhau, quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất. Thiếu một trong hai mối quan hệ này sản xuất sẽ không thể
tiến hành và phát triển được.
Mối quan hệ biện chứng gắn bó, thống nhất không tách rời của lực lượng sản xuất
với quan hệ sản xuất như hai mặt của một quá trình xã hội là do tính thống nhất của các
mối quan hệ của chủ thể sản xuất quyết định. Tuy nhiên, trong mối quan hệ đó lực lượng
sản xuất luôn giữ vai trò quyết định. Bởi vì thực chất, lực lượng sản xuất là kết quả hoạt
động trao đổi của con người với tự nhiên, là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Do đó, nó cũng quyết định các mối quan hệ của con người. Quan hệ sản
xuất bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng đến lượt nó quan hệ sản xuất có sự tác
động trở lại lực lượng sản xuất theo hai chiều hướng, hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Ở đây, chúng ta nhận thấy rằng: cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều là
kết quả hoạt có ý thức, có mục đích của con người, song bản thân chúng và mối quan hệ
của chúng lại không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà tuân theo quy luật
khách quan. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất - đây là quy luật cơ bản nó vận động ở mọi hình thái kinh tế xã hội,
nó chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong học thuyết hình thái kinh tế xã hội, nó là
chìa khoá để nhận thức quá trình vận động phát triển của lịch sử xã hội, là chìa khoá để
nhận thức nền sản xuất xã hội.
Đến đây, một vấn đề đặt ra là, thế nào là phù hợp và tại sao quan hệ sản xuất lại
phải phù hợp với lực lượng sản xuất? Để trả lời câu hỏi này, hiện nay có rất nhiều cách
hiểu khác nhau. Nhưng theo quan điểm Mác xít, sự phù hợp ở đây là sự phù hợp biện
chứng, nghĩa là trong phù hợp bao hàm cả sự không phù hợp, phù hợp được xem là nguyên
tắc của sự phát triển và đây chính là sự thích ứng của hai mặt đối lập trong một phương
thức sản xuất, nhưng sự thích ứng này không loại trừ mâu thuẫn; phù hợp là sự tương ứng,



thích ứng thường xuyên với nhau trong từng bước đi; phù hợp là sự thúc đẩy nhau phát
triển trong đó lực lượng sản xuất luôn tạo ra kẽ hở buộc quan hệ sản xuất phải tuân theo;
phù hợp là quá trình được bắt đầu từ phù hợp đến không phù hợp và lại trở về phù hợp và
đây chính là lô gíc nội tại trong sự phát triển của phương thức sản xuất. Hay có thể nói, sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là tác động qua lại một cách hợp lý
giữa chúng để đem lại sự kết hợp tối ưu các yếu tố của quan hệ sản xuất với các yếu tố của
lực lượng sản xuất, giữa người lao động với tư liệu sản xuất, làm cho quá trình sản xuất
phát triển nhanh chóng.
Như vậy, khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, còn trái lại không phù hợp sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của
lực lượng sản xuất. C. Mác viết: “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó – mâu thuẫn với những quan
hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích
của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.” 1
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất. Nó là yếu tố động, luôn luôn phát triển và lớn lên không ngừng, do
đó con người ở mỗi thế hệ luôn kế thừa lực lượng sản xuất của các thế hệ đi trước và phát
triển nâng cao chúng lên. Còn quan hệ sản xuất luôn có xu hướng duy trì sự ổn định, nên
thường phát triển chậm hơn lực lượng sản xuất. Ở đây, chúng ta cần nhận thức rõ rằng:
quan hệ sản xuất chỉ phát triển chậm hơn chứ không phải là không phát triển.
Chính vì sự phát triển không đồng bộ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
khiến cho đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “ hiện có ” sẽ trở nên lạc hậu, trở thành “
xiềng xích,” mâu thuẫn và kìm hãm các lực lượng sản xuất vốn trước đó được nó tạo điều
kiện và thúc đẩy. Lực lượng sản xuất lớn mạnh không ngừng sẽ tất yếu phá vỡ quan hệ sản
xuất đã trở nên không còn phù hợp với nó để thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn.
Song giữa chúng cũng bắt đầu nẩy sinh những mâu thuẫn mới, để rồi đến một lúc nào đó

quan hệ sản xuất mới này lại bị thay thế bởi một quan hệ sản xuất mới khác phù hợp với
trình độ mới của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cứ như thế, sự
thống nhất, phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là tạm thời và mang tính
1

C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1993, tập 13, tr 15.


đứt đoạn. Còn mâu thuẫn giữa chúng là liên tục và xuyên suốt quá trình sản xuất xã hội.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa chúng là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển không
ngừng. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương
thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời. Vì thế, sự phát triển, thay thế kế
tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Rõ ràng, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản xuất,
không loại trừ một quốc gia, dân tộc nào. Nó chi phối sự vận động, phát triển của toàn bộ
tiến trình lịch sử nhân loại. Điều đó, đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước thì
phải nhận thức đúng để hành động phù hợp với quy luật khách quan.
Trước đây, trong một thời gian dài với cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao
cấp, đã có lúc chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ sản xuất cao hơn đi
trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Song kết quả diễn ra lại trái với mong
muốn của chúng ta. Đó là lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài,
hàng hoá sản xuất ra kém chất lượng, giá thành cao không thể cạnh tranh với hàng ngoại,
lại khan hiếm không đủ để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn.
Tình hình trên đây là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp đặt chủ quan một
quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất. Trong điều kiện lực lượng sản
xuất còn ở trình độ thấp kém, phổ biến là sản xuất nhỏ nhưng vì muốn tiến nhanh lên chủ
nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức tới

quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối trao đổi. Từ đó, đã dẫn đến việc mở rộng ồ
ạt hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, các thành phần kinh tế khác bị ngăn cấm hoặc
xoá bỏ để chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể qua các đợt cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế hành chính, tập trung,
quan liêu, bao cấp và kèm theo nó là sự phân phối bình quân, lợi ích cá nhân chưa được
quan tâm đúng mức đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội. Các thành phần kinh tế tư nhân,
tư bản nhà nước chưa được phát huy tác dụng. Động lực sản xuất bị suy giảm, người lao
động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các kế hoạch sản xuất của tập thể và nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã chứng minh rằng: quan
hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ khi nó trở nên lạc hậu,


mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với lực lượng sản xuất, một lần
nữa quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất lại thể hiện rõ tính phổ biến và tính tất yếu mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý
muốn chủ quan của con người. Dù mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy
luật, mà trái lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong
những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ
rõ.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đường lối chủ
đúng đắn kịp thời. Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư ngày 13-1-1981 về khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm và người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên
trong tiến trình đổi mới. Nhưng cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu
sắc nền kinh tế xã hội là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm
1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế hành
chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới, động

viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Sự nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này của Đảng ta ngày càng
sâu sắc hơn, toàn diện hơn, khi sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước phát triển cả bề
rộng và chiều sâu. Chính sự nhận thức, vận dụng trên cơ sở tôn trọng và hành động theo
đúng quy luật khách quan, vào điều kiện cụ thể nền kinh tế nước ta của Đảng đã đem lại
những kết quả đáng khích lệ. Nền kinh tế từng bước tăng trưởng ổn định và vững chắc, lực
lượng sản xuất được mở đường và không ngừng phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong xác
định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã đề cập đặc trưng về lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là: “ có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.” 1 Từ thực tế của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và các bài học được đúc rút trong thực tiễn, Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo quy luật này ngay từ thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới. Đai hội đại biểu

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Nxb ST
HN,1991, tr 8.
1


toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã
hội và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội chỉ rõ
vấn đề phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa: “ Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết
cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây
dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp.”

1

Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là


nhằm phát triển lực lượng sản xuất; phát triển kinh tế nhiều thành phần để tạo ra sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Kế thừa tư duy của Đại hội VIII, Đại hội
IX khẳng định đường lối và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là: “ ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.” 2 Và được cụ thể hoá ở phương hướng, đó là: “ phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và
phân phối.”

3

Kế thừa tư duy Đại hội IX, Nghị quyết Đại hội X thể hiện bước tiến mới

trong nhận thức và vận dụng quy luật vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong xác
định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, có một đặc trưng quan trọng
được xác định, là: “ có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.” 4 Cần thấy rằng,
luận điểm trên của Đảng đã được khẳng định về mặt lý luận và được thực tế của hơn 20
năm đổi mới kiểm nghiệm là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt
Nam. Như vậy, sự nhận thức và vận dụng quy luật này của Đảng ta là kiên định nhất quán,
là sự tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan, để không ngừng phát triển sản xuất
xã hội, nâng cao năng suất lao động, giải phóng sức sản xuất, phát triển toàn diện đất nước.
Đường lối đổi mới của Đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao
động phấn khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền kinh tế phát
triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi
mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định,
đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Sở dĩ có sự chuyển biến theo hướng đi lên vững
chắc như vậy là nhờ chúng ta đã từng bước đổi mới quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai thác

1

2
3
4

Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, HN, 1996,
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN, 2001, tr
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN, 2001, tr
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN, 2006, tr 6


được các tiềm năng cả ở bên trong và bên ngoài, làm cho lực lượng sản xuất nước ta có
những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Việc giải phóng lực lượng sản xuất có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong tiến
trình đổi mới nền kinh tế nước ta, và nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà xu thế toàn
cầu hoá đang diễn ra rất nhanh chóng, mau lẹ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
mà đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về sự giải
phóng của lực lượng sản xuất, bởi vì:
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta còn kém phát triển do điểm xuất phát thấp, đang ở
trạng thái đan xen của nhiều loại hình và nhiều thành phần kinh tế ở những trình độ rất
khác nhau như phân tán và tập trung, thủ công và hiện đại, lạc hậu và tiên tiến …Trong
tình hình đó, nếu không kiến tạo được những hình thức quan hệ sản xuất đa dạng thích
ứng với trình độ lực lượng sản xuất ở tất cả các thành phần kinh tế hiện có, chúng ta sẽ
không thể khai thác được tiềm năng to lớn của những thành phần kinh tế đó. Vì vậy, thừa
nhận sự tồn tại lâu dài và thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần là giải pháp quan trọng nhất để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta,
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền sản xuất xã hội hiện nay ở
nước ta hiện nay.
Thứ hai, khi lực lượng sản xuất được giải phóng sẽ tạo ra động lực để khai thác và
sử dụng có hiệu quả tất các nguồn lực hiện có như nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, các
nguồn vốn hỗ trợ, đầu tư từ bên ngoài, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nhân lực lao động

và trí tuệ con người.
Thứ ba, chỉ khi lực lượng sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng sản xuất được
gợi mở, khơi thông, chúng ta mới có thể thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài để tranh
thủ vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và tri thức kinh nghiệm quản lý tiên tiến nhằm thúc
đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
Giải phóng lực lượng sản xuất thực chất là giải toả, tháo gỡ những lực cản kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất là hai quá
trình diễn ra đồng thời và có tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau. Đó chính là quá trình giải
phóng để phát triển và phát triển là để mở đường giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền sản
xuất xã hội phát triển không ngừng.
Quá trình phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên đổi mới
quan hệ sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có thể có, cả nguồn lực


bên trong và bên ngoài. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của nhiều quốc gia trên thế giới phát triển nhanh
chóng và ngày càng mang tính quốc tế hoá cao. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà
khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức đóng vai trò
chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Do đó, giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay đang
diễn ra xu hướng vừa cạnh tranh gay gắt vừa giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa
học, công nghệ … Bất cứ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải hoà nhập vào
xu thế chung đó. Đối với nước ta, để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước
xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định
hướng xã hội chủ nghĩa thì nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian
tới là phải thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu về khoa học công nghệ để phát triển nhanh chóng
mọi mặt sức sản xuất xã hội. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường mở rộng quan hệ
hợp tác trên nhiều lĩnh vực với tất cả các nước, các khu cực trên thế giới. Để giải phóng và
phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Phải “ đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” và “ tranh thủ cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.” Luận điểm trên đã bắt nhịp kịp thời xu hướng phát triển khách quan của
thời đại, đồng thời đáp ứng đòi hỏi của chính công cuộc đổi mới trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa thừa nhận sự
phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó không phải là một nghịch lý,
vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta sẽ sử dụng chủ nghĩa tư bản như thế nào để nhanh chóng
phát triển lực lượng sản xuất mà vẫn xây dựng được đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Hơn 70 năm trước đây, chính sách kinh tế mới được V.I.Lênin đề ra cùng với sự
thừa nhận, “ toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản ”
đã cứu vãn kinh tế nước Nga Xô viết trẻ tuổi khỏi sụp đổ. Đó là quan điểm từ bỏ nền kinh
tế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, mở rộng trao đổi, thực
hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước, theo V.I.Lênin là cao hơn rất
nhiều so với nền sản xuất nhỏ, rằng: “ chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, ( nhất là


bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước ) làm mắt xích trung gian
giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên.” 1
Chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không xây dựng
được nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiểu nông,
con đường phát triển mang tính tự phát sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản, song để tránh cho
nhân dân khỏi những đau khổ mà chế độ tư bản chủ nghĩa có thể gây ra, Đảng ta dứt khoát
lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, chúng ta cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu,
bắt nhà tư bản phải “ cày trên mảnh đất vô sản,” biến thành phần kinh tế tư bản tư nhân
thành “ một trợ thủ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội.”

Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi một tư duy mềm dẻo năng động,
nhạy bén và sáng tạo, phải biết vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của V.I.Lênin về Chính sách kinh tế
mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang
trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội một cách vững chắc.
Lời tựa cho tác phẩm “ Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị ” ra đời cách đây
gần 150 năm, đã đánh dấu một nấc thang quan trọng trong tư duy của C.Mác về chủ nghĩa
duy vật lịch sử, nó “ đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của tôi,” nó
đã hoàn thiện nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử và cũng đã giải đáp được những vấn
đề lý luận và thực tiễn trong thời điểm đó, hơn thế nữa nó đã đặt cơ sở lý luận cho sự ra đời
“ Bộ tư bản.” Hiện nay những tư tưởng của nó vẫn mang tính thời sự sâu sắc, vẫn giữ
nguyên giá trị của thời đại. Nó là cơ sở để giải thích nội dung thời đại ngày nay, là cơ sở để
phê phán các quan điểm phản động về thời đại ngày nay. Đặc biệt với các Đảng Cộng Sản,
đây là cơ sở để định ra đường lối chiến lược và sách lược.

1 V.I.Lênin, Toàn

tập, Nxb TB, M, 1978, tập 45, tr 267.




×