Tải bản đầy đủ (.pptx) (37 trang)

Tòa Công lý Châu Âu vừa là Tòa án quốc tế vừa là Tòa án quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.42 KB, 37 trang )

Lớp N04 – TL2 – nhóm 5


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

THUYẾT TRÌNH BÀI TẬP NHÓM

PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU


ĐỀ BÀI

Trên cơ sở phân tích một số án lệ, chứng minh rằng thẩm quyền của tòa công lý Châu Âu là sự kết hợp giữa tòa án Quốc tế
và tòa án Quốc gia


NỘI DUNG

I

Một số kiến thức cơ bản về Liên minh châu Âu (EU) và Tòa Công lý châu Âu

II

Một số án lệ

III

Chứng minh thẩm quyền của Tòa công lý Liên minh châu Âu là sự kết hợp giữa Tòa án quốc tế và Tòa án quốc gia



I. MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ TÒA ÁN CÔNG LÝ CHẤU ÂU

1.

Liên minh Châu Âu (EU)
Liên minh châu Âu (EU) là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 28 quốc gia thành viên thuộc châu Âu, được thành lập bởi Hiệp ước

Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu dân, Liên minh châu Âu chiếm khoảng 22%
(16,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP danh nghĩa và khoảng 17% (19,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP sức mua tương đương của thế
giới (PPP).
Có nguồn gốc từ Cộng đồng Than Thép châu Âu từ 6 quốc gia thành viên ban đầu vào năm 1951. Từ đó cho đến nay, Liên minh châu Âu
đã lớn mạnh hơn về số lượng cũng như chất lượng thông qua việc tăng cường thẩm quyền của EU.


SỜ ĐỒ CÁC NƯỚC LIÊN MINH CHÂU ÂU

6 nước Liên minh Châu Âu đầu tiên

Các nước Liên minh Châu Âu tính đến năm 2013


2. Tòa Công lý Châu Âu

Tòa án Công lý châu Âu là tòa án tối cao của EU giải quyết những vấn đề liên quan đến luật pháp của tổ chức này và là một thể chế quan
trọng của EU. Tòa án công lý châu Âu được thành lập năm 1952 thông qua Hiệp ước Paris 1951, là một bộ phận của Cộng đồng than thép châu
Âu. Tòa án Công lý châu Âu bao gồm Tòa công lý châu Âu, Tòa án chung châu Âu.
Tòa công lý châu Âu gồm 28 thẩm phán và 11 công tố viên với chức năng: giải thích pháp luật, xét xử các vụ việc liên quan đến việc không
thực hiện nghĩa vụ của quốc gia thành viên, bãi bỏ một quy định, quyết định, chỉ thị thông qua bởi một thiết chế EU, đảm bảo pháp luật EU được
thực thi, giải quyết các kháng cáo đối với phán quyết Tòa án chung châu Âu, xem xét lại phán quyết của Tòa án Công vụ.



II. MỘT SỐ ÁN LỆ

1. Án lệ thứ nhất
a) Các bên liên quan trong vụ việc
- Nguyên đơn: Cộng hòa Hungary.
- Bị đơn: Cộng hòa Slovakia.
b) Nội dung vụ việc
Vào ngày 21/08, Cộng hòa Slovakia đã không cho phép Tổng thống của Cộng hòa Hungary là Laszlo Solyom nhập cảnh khi ông này tới
thăm một thị trấn ở biên giới Cộng hòa Slovakia có đông người Hungary sinh sống.
Một công hàm ngoại giao đã được gửi đến cho Đại sứ Hungary tại Bratislava, theo đó Chính phủ Slovakia thông báo là ông Solyom không
được nhập cảnh vào Slovakia và ông này sẽ được chào đón vào một dịp khác.


Để biện minh cho hành động này, đầu tiên công hàm trên đã dựa vào các quy định trong Chỉ thị 2004/38 cũng như các quy định của
pháp luật trong nước về quản lí người nước ngoài cư trú. Thứ hai, ngày 21/08 là một ngày nhạy cảm ở Slovakia khi mà đúng ngày này năm
1968, lực lượng vũ trang của năm nước thuộc hiệp ước Warsaw, trong đó có Hungary, đã xâm lược nước Cộng hòa dân chủ Tiệp Khắc.
Sau đó, tổng thống Solyom đã hủy bỏ chuyến thăm và tổ chức một cuộc họp báo vào buổi tối cùng ngày ngay bên cầu sông Danube
nối Hungary với Slovakia. Ông đã chỉ trích quyết định cấm nhập cảnh của Chính phủ Slovakia là “một hành động chưa hề có tiền lệ và
không thể lý giải được” giữa các đồng minh cùng thuộc Liên minh Châu Âu (EU) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).


Ngọai trưởng của Hungary là Peter Balazs cho biết chuyến thăm này đã được lên kế hoạch từ trước và đã thông báo cho Bộ Ngoại giao
Slovakia.Đồng thời cũng nói rằng sẽ thông báo vấn đề này cho EU.Trong khi đó, phía Slovakia đã triển khai lực lượng lớn cành sát ở biên
giới với Hungary.

Ngay sau đó, Hungary đã bắt đầu thủ tục tố tụng trước Tòa án với bản cáo buộc chống lại Slovakia (dựa trên điều 259 TFEU), cáo buộc
Slovakia vi phạm điều 21 TFEU và Chỉ thị 2004/38 khi từ chối Tổng thống Hungary nhập cảnh vào lãnh thổ của Slovakia. Đặc biệt,
Hungary tuyên bố Chỉ thị 2004/38 áp dụng cho tất cả công dân của Liên minh, bao gồm cả người đứng đầu quốc gia là Tổng thống, và áp
dụng với mọi chuyến thăm, dù là chính thức hay mang tính chất cá nhân.



Yêu cầu của Cộng hòa Hungary như sau:

+ Cộng hòa Slovakia đã vi phạm Chỉ thị 2004/38/EC của Nghị viện Châu Âu và của Hội đồng ngày 29/04/2004 về các quyền của công dân
Liên minh và các thành viên trong gia đình họ trong việc di chuyển và cư trú một cách tự do trong phạm vi lãnh thổ của các nước thành viên.
Theo đó, Công hàm của Slovakia ngày 21/08/2009 được ban hành dựa trên Chỉ thị 2004/38 nhưng không đúng với các quy định bên trong
Chỉ thị này.
+ Xác nhận hành vi bất hợp pháp như vậy có thể tái xuất hiện, gây xung đột với pháp luật của Liên minh đặc biệt là Điều 3 và Điều 21
TFEU.
+ Tuyên bố rằng Cộng hòa Slovakia đã áp dụng sai quy định của Liên minh khi không cho phép Tổng thống Solyom nhập cảnh vào lãnh
thổ của Slovakia vào ngày 21/08/2009.


c) Lập luận của hai bên liên quan đến vụ việc
*** Hungary: Phía nguyên đơn là Hungary cho rằng Cộng hòa Slovakia đã vi phạm điều 21 TFEU và Chỉ thị 2004/38 khi từ chối cho Tổng
thống của Hungary nhập cảnh vào lãnh thổ nước này và trường hợp này cũng không thuộc bất kì trường hợp ngoại lệ nào của quy định. Cụ thể
như sau:
- Thứ nhất, ông Solyom không đe dọa cho bất kỳ lợi ích căn bản nào của xã hội.
- Thứ hai, không có thông báo nào được gửi đến cho ông Solyom để thông báo với ông về căn cứ ra quyết định cấm nhập cảnh cũng như
các biện pháp khắc phục sự cố.

Ngoài ra, Hungary cho rằng Slovakia đã “lạm dụng quyền” khi đưa ra khái niệm và “lạm dụng quyền” theo quy định của Tòa án lệ vì trên thực
tế, Slovakia đưa ra việc dẫn này vì mục đích chính trị


***

Slovakia: Bên phía bị đơn là Cộng hòa Slovakia thì lại cho rằng chuyến thăm của Tổng thống Hungary không đơn thuần chỉ là một


chuyến thăm của một công dân Liên minh mà là của một nguyên thủ quốc gia. Vì vậy, Tòa án không có thẩm quyền lắng nghe và giải quyết
tranh chấp này vì luật pháp của EU không áp dụng cho tình huống này. Cụ thể: phía Slovakia cho rằng các điều 3,4 và 5 TFEU không áp dụng
cho quan hệ ngoại giao song phương giữa các nước thành viên trong Liên minh. Hơn nữa cũng không có quy định nào trong các Điều ước
quốc tế quy định một cách rõ ràng việc trao thẩm quyền cho Liên minh trong việc điều chỉnh các mối quan hệ ngoại giao giữa các nước thành
viên với nhau.

Hơn nữa, nếu luật pháp EU áp dụng cho trường hợp này thì nguyên thủ quốc gia sẽ được hưởng quyền ưu đãi dựa trên pháp luật của nước
đó.


Như vậy, nghĩa là trong mọi trường hợp thì Slovakia đều phủ nhận việc áp dụng pháp luật của Liên minh và đặc biệt là Chỉ thị 2004/38.Đồng
thời Công hàm ngày 21/08/2009 chỉ là một phần trong trao đổi ngoại giao liên quan đến chuyến thăm Slovakia của Tổng thống Hungary nên
không được coi là một quyết định.

Vậy thì, vấn đề ở đây là liệu luật của EU có được áp dụng trong trường hợp này và Slovakia có vi phạm các quy định của pháp luật EU hay
không?


d) Lập luận của Tòa công lý Châu Âu

Đầu tiên, việc có áp dụng luật EU hay không là thuộc thẩm quyền của Tòa án. Đồng thời, chiếu theo Điều 259 TFEU, Tòa án sẽ quyết định
việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong tranh chấp này hay không. Nên yêu cầu của phía Slovakia cho rằng Tòa án không có thẩm quyền
trong việc lắng nghe và giải quyết tranh chấp bị từ chối.


Thứ hai, Điều 20 và 21 TFEU ghi nhận công dân Liên minh có địa vị pháp lý cơ bản của công dân ở các nước thuộc EU và quyền đi lại,
cư trú tự do trên lãnh thổ các các nước thành viên EU. Đồng thời, cần phải xác định ông Solyom thực hiện chuyến thăm đến thị trấn đó là với
vai trò của một nguyên thủ quốc gia, khi đó ông này phải có nghĩa vụ tuân theo việc hạn chế quyền tự do đi lại theo TFEU và được hưởng
quyền ưu đãi, miễn trừ cũng như hưởng sự bảo hộ theo pháp luật quốc tế theo Điều 1 của Công ước NewYork ngày 14/12/1973. Như vậy,
nghĩa là, khi một nguyên thủ quốc gia ở trên lãnh thổ của một quốc gia khác có nghĩa vụ tuân theo các yêu cầu của quốc gia đó để đảm bảo

việc bảo hộ được thực hiện. Từ đây, có thể kết luận rằng, cả Điều 21 TFEU và Chỉ thị 2004/38 đều không bắt buộc Slovakia bảo đảm việc
nhập cảnh của Tổng thống Hungary nên yêu cầu của phía Hungary là không có căn cứ.


Thứ ba, không có đủ cơ sở để chứng minh có sự lạm quyền vì Tòa án cho rằng bằng chứng của hành vi lạm dụng đòi hỏi, đầu tiên, một
sự kết hợp của hoàn cảnh khách quan, sau đó là yếu tố chủ quan là tạo ra một cách giả tạo các điều kiện quy định để đạt được lợi thế từ các
quy định của Liên minh châu Âu. Kể từ khi có công hàm ngày 21/08/2009 thì không có thêm một phán quyết nào từ cơ quan có thẩm quyền
của Slovakia, một điều nữa là, thông báo gửi đến ông Solyom cũng phù hợp với Điều 30 Chỉ thị 2004/38.
Với những điều trên thì khiếu nại của Hungary về việc Slovakia lạm dụng quyền là không có cơ sở.
Thứ tư, mục đích của TFEU là loại bỏ những hành vi vi phạm thực tế của các nước thành viên trong Liên minh và hậu quả của nó nên việc
khiếu nại về hành vi vi phạm có thể tái diễn trong tương lai hay về việc giải thích luật của EU là không được chấp nhận.


Phán quyết của Tòa:





Bác bỏ đơn kiện.
Nộp lệ phí đối với những yêu cầu của Hungary.
Nộp lệ phí đối với những yêu cầu của Slovakia.


2. Án lệ thứ hai
Case C89/11 về việc E.ON energie AG kháng cáo đối với bản án của tòa án chung về quyết định xử phạt của EC đối với hành vi phá dỡ
dấu niêm phong trong quá trình điều tra vụ việc cạnh tranh.

a) Các bên liên quan trong vụ việc
- Nguyên đơn: Công ty E.ON energie AG, thành lập tại Munich (Đức), đại diện bởi A. Rohling, F.Dietrich và R. Pfromm, Rechtsanwalte.

- Bị đơn: Ủy ban châu Âu, đại diện bởi A. Bouquet, V. Bottka và R. Sauer.


b) Nội dung vụ việc

Vào năm 2006, Ủy ban châu Âu (EC) tiến hành một cuộc kiểm tra tại các cơ sở thương mại của Công ty E.ON energie AG tại Munich
(Đức) để xác nhận những nghi ngờ của mình về việc công ty này đã tham gia vào các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do việc khám xét không
thể hoàn thành trong cùng một ngày mà phải kéo dài thời gian làm việc sang đến ngày hôm sau nữa. Toàn bộ các tài liệu được cho là có liên
quan và cần được xem xét kĩ đã được lực lượng khám xét tập hợp lại và lưu giữ trong một căn phòng được công ty này trao quyền sử dụng
cho EC. Sau khi kết thúc ngày làm việc đầu tiên, cửa của văn phòng chứa tài liệu đã được khóa và được người của EC đóng dấu niêm
phong.Dấu niêm phong mà EC đã sử dụng được làm từ một loại chất dẻo tự kết dính. Nếu niêm phong bị bóc ra hay bị một lực tác động đến
tuy không rách nhưng sẽ để lại dấu vết là những vết khuyết rỗng xuất hiện ở cả mặt trước và mặt sau của niêm phong mà không thể che dấu
được.


Khi nhóm điều tra viên trong vụ việc tranh chấp trở lại vào sáng ngày hôm sau đã phát hiện ra rằng các dấu vết để lại rõ ràng trên bề mặt
của niêm phong cho thấy niêm phong đã bị phá dỡ. Vì vậy, bằng Quyết định ngày 30/2008, EC đã tuyên phạt công ty trên số tiền là 38 triệu
euro do có hành vi phá dỡ dấu niêm phong trong quá trình điều tra.
Không đồng ý với quyết định xử phạt, công ty này đã khiếu nại đối với quyết định này và đưa vụ việc ra Tòa sơ thẩm châu Âu (CFI), nhưng
ngày 15/12/2010, Tòa sơ thẩm đã ra phán quyết bác bỏ kháng cáo. Và trong khiếu nại gửi lên Tòa sơ thẩm, mặc dù bên khiếu nại không thừa
nhận hành vi phá dỡ dấu niêm phong nhưng lại không thể viện dẫn được những chứng cứ để chứng minh. Sau đó thì công ty này tiếp tục kháng
cáo lên Tòa Công lý châu Âu đối với phán quyết của Tòa án sơ thẩm châu Âu. Nội dung kháng cáo có kiến nghị giảm mức tiền phạt xuống vì
công ty cho rằng đã không có đủ các bằng chứng để chứng minh việc cửa của căn phòng chứa tài liệu kia được niêm phong đã bị mở hoặc là
những tài liệu có bên trong phòng đã bị lấy đi.


Tuy nhiên, ECJ xác định rằng việc có một ai đó có thực sự vào căn phòng đã bị niêm phong kia và lấy đi các tài liệu được lưu giữ hay không là
không liên quan đến sự việc. Theo đó, ECJ chỉ tập trung xem xét ba lí do được CFI đưa ra tại đoạn 294 của bản án đang được kháng cáo, cho ba
lí do giải thích quyết định của mình về số tiền phạt 38 triệu euro, đó là:


Thứ nhất, căn cứ vào tính chất đặc biệt ngiêm trọng của hành vi phá dỡ dấu niêm phong.

Thứ hai, dựa vào quy mô và doanh thu của công ty E.ON.

Thứ ba, là sự cần thiết phải đưa ra một mức xử phạt tương xứng sẽ có tác dụng ngăn chặn hiệu quả những dạng hành vi tương tự.


c) Phán quyết của Tòa công lý Châu Âu

Căn cứ vào khoản 2, điều 256 TFEU về thẩm quyền giải quyết kháng cáo đối với phán quyết của Tòa chung châu Âu của Tòa Công lý. Căn cứ
vào các điều khoản : Điểm d khoản 2 điều 20, điểm e khoản 1 điều 23, khoản 2 điều 23 quyết định số 1/2003 của Hội đồng châu Âu (EC) ngày
16/05/2002 về việc thực hiện các quy định về cạnh tranh.


Vào ngày 22/11/2012, Tòa Công lý châu Âu đã đưa ra phán quyết cuối cùng trong đó bác bỏ toàn bộ các luận điểm của công ty E.ON và
công nhận phán quyết của Tòa sơ thẩm châu Âu. Bên cạnh đó, tòa Công lý cũng đưa ra thông điệp EC có thể quyết định mức xử phạt lên đến
10% doanh thu một năm của công ty E.ON nếu có đủ chứng cứ chứng minh việc E.ON có hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Và mức xử
phạt 38 triệu euro do EC đưa ra đối với hành vi phá dỡ dấu niêm phong trong quá trình điều tra chỉ tương đương với 0,14% doanh thu một năm
của công ty và không phải là quá cao nếu xem xét đến việc phải đưa ra một mức xử phạt tương xứng có tác dụng ngăn chặn hiệu quả những
hành vi có dạng tương tự.

=>

Phán quyết của Tòa Công lý châu Âu cho thấy sự ủng hộ tuyệt đối đối với các quyết định của EC liên quan đến những hành vi vi phạm

thủ tục hành chính trong quá trình điều tra các vụ việc cạnh tranh. Điều này cũng có nghĩa là những hành vi vi phạm thủ tục hành chính được
xem xét và xử phạt tách biệt với hành vi vi phạm các quy định của Luật cạnh tranh.


III. CHỨNG MINH THẨM QUYỀN CỦA TÒA CÔNG LÝ CHÂU ÂU LÀ SỰ KẾT HỢP GIỮA TÒA ÁN QUỐC TẾ VÀ TÒA ÁN

QUỐC GIA

1.

Tòa công lý liên minh châu Âu là Tòa án quốc tế

Thứ nhất, trong hệ thống nguồn luật của EU, các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia thành viên được coi là luật gốc, điều
chỉnh tất cả các vấn đề pháp lý về hoạt động của EU như mục tiêu, cơ cấu tổ chức và phương pháp thực hiện, thẩm quyền hay hoạt động của
các thiết chế EU. Dưới góc độ quốc tế, những điều ước này chính là nguồn của luật tổ chức quốc tế.


×