Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.37 KB, 53 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại Học Tài Nguyên
và Môi Trường Hà Nội được sự nhiệt tình, quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ
của các Thầy, Cô giáo, Giảng Viên Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi
Trường Hà Nội nói chung và khoa quản lý đất đai nói riêng đã trang bị cho
chúng em hành trang vức chắc và những lời góp ý, ý kiến đáng giá để em có
thể hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này.
Xuất phát từ lòng biết ơn sâu sắc em xin được gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới Cô giáo - Th.S Nguyễn Thị Nga đã giúp đỡ tận tình và trực tiếp
hướng dẫn em hoàn thành báo cáo tốt nghiệp theo đúng nội dung, kế hoạch
được giao trong suốt thời gian em thực hiện báo cáo.
Em xin cảm ơn sự dạy dỗ, chỉ bảo ân cần của các Thầy, Cô giáo trong
khoa Quản lý đất đai - Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội
trong suốt thời gian em học tập.
Thân gửi lời cảm ơn sâu sắc ban lãnh đạo, Ban Địa Chính - UBND xã
Thanh Luông,huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên và các hộ nông dân trên địa
bàn xã đã trực tiếp giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu làm đề tài tại địa
bàn.
Do thời gian và trình độ có hạn nên trong báo cáo không tránh khỏi sự
thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của Thầy, Cô
giáo để báo cáo được hoàn thiện hơn. Đây cũng là bài học kiến thức bổ ích
cho em sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Điện Biên, ngày 24 tháng 04 năm 2015
Sinh viên

Khúc văn Vũ



2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CPSX

: Chi phí sản xuất

CPTG

: Chi phí trung gian

FAO

: Tổ chức nông lâm thế giới

GTSX

: Giá trị sản xuất

GTGT

: Giá trị gia tăng

LUT

: Loại hình sử dụng đất

LX-LM


: Lúa xuân-lúa mùa

LX-LM-CVĐ

: Lúa xuân-lúa mùa-cây vụ đông



: Lao động

NCLĐ

: Nhân công lao động

NTS

: Nuôi trồng thủy sản

TNHH

: Thu nhập hỗn hợp

VAC

: Vườn-ao-chuồng

UBND

: Ủy ban nhân dân


TP

: Thành phố


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC BẢNG


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt
động kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp,
đất là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất đất nông
nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra những lương thực
thực phẩm nuôi sống con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững
đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất
của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực và thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã

hội. Con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thảo mãn những
nhu cầu ngày càng tăng đó. Như vậy đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có
hạn về diện tích nhưng lại có nguy cơ bị suy thoái dưới tác động của thiên
nhiên và sự thiếu ý thức của con người trong quá trình sản xuất. Đó còn chưa
kể đến sự suy giảm về diện tích đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa đang
diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả năng khai hoang đất mới lại rất hạn chế. Do
vậy, việc đánh giá hiệu quả để sử dụng hợp lý theo quan điểm sinh thái và
phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu đang được
các nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Đối với một nước có nền kinh tế
nông nghiệp chủ yếu như ở Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên một thực tế hiện nay đó là diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp do chuyển sang các loại hình sử dụng đất khác như: đất ở, đất
sản xuất kinh doanh, đất phi nông nghiệp... Mặt khác dân số không ngừng


6

tăng, nhu cầu của con người về các sản phẩm từ nông nghiệp ngày càng đòi
hỏi cao về cả số lượng và chất lượng. Đây thực sự là một áp lực lớn đối với
nghành nông nghiệp.
Xã Thanh Luông là một xã thuộc vùng miền núi Tây Bắc có tổng diện
tích tự nhiên là 3615,94 ha, với diện tích đất nông nghiệp 3122,97 ha, chiếm
86,37% tổng diện tích tự nhiên toàn xã. Vì vậy, việc định hướng cho người
dân trong huyện khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả đất nông nghiệp là
một trong những vấn đề hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Để giải quyết vấn đề này thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất. Để giải quyết
vấn đề này thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm đề xuất
hướng sử dụng đất và loại hình sử dụng rất thích hợp là việc rất quan trọng.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất trên địa bàn xã,

được sự đồng ý của Khoa Quản Lý Đất Đai và sự hướng dẫn của Giáo Viên
Th.S Nguyễn Thị Nga em tiến hành nghiên cứu đề tài : “Đánh giá hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp tại xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên”
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến nông
nghiệp.
- Xác định được các loại hình sử dụng đất chính của xã Thanh Luông từ
đó đánh giá được hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của các loại hình sử
dụng đất.
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao hơn để đưa ra áp
dụng đại trà.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp tại xã Thanh Luông.


7

2.2. Yêu cầu
- Số liệu, tài liệu phải đầy đủ, kịp thời, chính xác
- Quá trình đánh giá phải đúng, trung thực, khách quan về hiệu quả của
mỗi loại hình sử dụng đất.
- Đề xuất ra hướng giải quyết phải mang tính khả thi cao nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã.


8

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1 Khái niệm đất và đất nông nghiệp
* Khái niệm về đất
Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là
đá và khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp mặt
tươi xốp của lục địa có khả năng sản sinh ra sản phẩm của cây trồng. Đất là
lớp phủ thổ nhưỡng là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của
thể tự nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch
quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn
quyển trên và thổ quyển có tính thường xuyên và cơ bản.
Theo nguồn gốc phát sinh, tác giả Docutraiep coi đất là một vật thể tự
nhiên được hình thành do sự tác động tổng hợp của năm yếu tố là: Khí hậu, đá
mẹ, địa hình, sinh vật và thời gian. Đất xem như một thể sống nó luôn vận
động và phát triển. (Nguyễn Thế Đặng – Nguyễn Thế Hùng,1999, giáo trình
đât, Nhà xuất bản Nông nghiệp)
Theo C.Mac: “ Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất
của sản xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và
tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”
Theo các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng:
“ Đất đai là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể
mọc được”
Và đất đai được hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một phần diện tích cụ
thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường
sinh thái ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa


9

hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng

sản trong lũng đất, động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết
quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại”.
Vì thế đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng
khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là khoảng không gian có giới hạn,
theo chiều thẳng đứng bao gồm: Khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ
nhưỡng, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm
và khoáng sản trong lòng đất; Theo chiều ngang, trên mặt đất là sự kết hợp
giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn, thảm thực vật với các thành phần khác,
nó tác động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản
xuất cũng như cuộc sống xã hội của loài người.
* Khái niệm về đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục
đích bảo vệ, phát triển rừng: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất sản xuất nông nghiệp
khác. (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2004)
1.1.2. Phân loại đất nông nghiệp
Theo Luật đất đai 2003, nhóm đất nông nghiệp được phân thành các
loại sau:
- Đất trồng cây hàng năm là loại đất dùng trồng các loại cây ngắn ngày,
có chu kỳ sinh trưởng không quá 1 năm.
Ngoài ra đất trồng cây hàng năm còn phân theo các tiêu thức khác và
được chia thành các nhóm đất chuyên trồng lúa, đất chuyên trồng màu...
- Đất trồng cây lâu năm gồm: đất dùng để trồng các loại cây có chu kỳ
sinh trưởng kéo dài trong nhiều năm, phải trải qua thời kỳ kiến thiết cơ bản
mới đưa vào kinh doanh, trồng 1 lần nhưng thu hoạch trong nhiều năm.


10


- Đất rừng sản xuất là diện tích đất được dùng để chuyên trồng các loại
cây rừng với mục đích sản xuất.
- Đất rừng phòng hộ: là diện tích đất để trồng rừng với mục đích
phòng hộ.
- Đất rừng đặc dụng: là diện tích đất được nhà nước quy hoạch đưa vào
sử dụng với mục đích riêng.
- Đất nuôi trồng thủy sản là diện tích đất dùng để nuôi trồng thủy sản:
tôm, cá...
- Đất làm muối: là diện tích đất được dùng để phục vụ trong quá trình
sản xuất muối.
1.1.3. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
* Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội
Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn
tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những
hàng hoá có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có
được thông qua hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi, hay nói cách khác
là thông qua quá trình sản xuất nông nghiệp
*Nông nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc
đẩy sản xuất công nghiệp và khu vực thành thị phát triển
- Nông nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến.
- Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là
khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, các ngành
kinh tế quốc dân khác và đô thị.
- Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hoá công nghiệp
và các ngành kinh tế khác.
*Nông nghiệp là nguồn thu ngân sách quan trọng của Nhà nước


11


Nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất của nước ta.
Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25% tông
thu ngân sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp
được thực hiện dưới nhiều hình thức: thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh
doanh khác…Hiện nay xu hướng chung tỷ trọng GDP của nông nghiệp sẽ
giảm dần trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
*Nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo
nông thôn
Nước ta với hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đã đáp ứng
được nhu cầu cấp thiết hàng ngày của người dân.
1.2. Hiệu quả về sử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để phát
triển một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên
thế giới.
Nói một cách chung nhất thi hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của
việc làm mang lại.
Làm rõ bản chất của hiệu quả cần phân định làm rõ sự khác nhau và
mối liên hệ giữa kết quả và hiệu quả. Kết quả, là kết quả hữu ích, là một đại
lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu hiện bằng những
chỉ tiêu do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu
tăng lên của con người mà ta phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế
nào? Chi phí bỏ ra là bao nhiêu? Có đem lại kết quả hữu ích hay không?
Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả của hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại
ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng công tác họa động
sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó.
Trên phạm vi toàn xã hội, các chi phí bỏ ra dể thu được kết quả phải là



12

chi phí lao động xã hội. Vì thế, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả lao
động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích
thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối
đa hóa kết quả và tối thiểu hóa chi phí trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên
hữu hạn.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố
trí cơ cấu cây trồng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết
các nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa
học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn
là sự mong muốn của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất nông nghiệp.
Sử dụng đất đai có hiệu quả là các hệ thống, các biện pháp nhằm điều
hòa mối quan hệ người - đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và
môi trường.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng
trên cở sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên
cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao,
đó là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển được nền nông
nghiệp có tính ổn định, bền vững đồng thời phát huy tối đa công dụng của đất
nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao nhất.
1.2.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững:
Từ khi biết sử dụng đất đai vào mục đích sinh tồn của mình, đất đai đã trở
thành cơ sở cần thiết cho sự sống và cho tương lai phát triển của con người.
Khi dân số còn ít để đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm của
mình thì con người đã khai thác từ đất khá dễ dàng và không gây ra những
ảnh hưởng lớn đến đất đai. “Nhưng ngày nay, mật độ dân số ngày càng tăng,



13

đặc biệt là ở các nước đang phát triển thì vấn đề đảm bảo lương thực cho sự
gia tăng dân số đã trở thành sức ép ngày càng mạnh mẽ lên đất đai. Diện tích
đất đai thích hợp cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, con người
đã phải mở mang thêm diện tích đất nông nghiệp trên những vùng đất không
thích hợp cho sản xuất, hậu quả đã ngây ra quá trình thoái hoá đất diễn ra một
cách nghiêm trọng” (Smyth & Julian Dumaski, 1993).
Tác động của con người đã làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng bị
suy giảm và dẫn đến thoái hoá đất, lúc đó khó có thể phục hồi lại độ phì nhiêu
của đất nếu muốn phục hồi lại thì cần phải chi phí rất lớn. Đất có những chức
năng chính là: “Duy trì vòng tuần hoàn sinh hoá học và địa hoá học, phân
phối nước, tích trữ và phân phối vật chất, mang tính đệm và phân phối năng
lượng” (Dekimpe & Warkentin, 1998) [16], các chức năng trên của đất là
những trợ giúp cần thiết cho các hệ sinh thái. Sử dụng đất đai một cách hiệu
quả và bền vững luôn là mong muốn cho sự tồn tại và tương lai phát triển của
con người. Vì vậy tìm kiếm những biện pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững
đã được nhiều nhà khoa học và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ “sử
dụng đất bền vững” (Sustainable land use) đã trở lên thông dụng trên thế giới
như hiện nay.
Nông nghiệp bền vững không có nghĩa là khước từ những kinh nghiệm
truyền thống mà phối hợp, lồng ghép những sáng kiến mới từ các nhà khoa
học, từ nông dân hoặc cả hai. Điều trở nên thông thường với những người
nông dân, bền vững là việc sử dụng những công nghệ và thiết bị mới vừa
được phát kiến, những mô hình canh tác tổng hợp để giảm giá thành đầu vào.
Đó là những công nghệ về chăn nuôi động vật, những kiến thức về sinh thái
để quản lý sâu hại và thiên địch (Cao Liêm và CTV, 1996) .
Theo Lê Văn Khoa, 1993 , để phát triển nông nghiệp bền vững cũng
loại bỏ những ý nghĩ đơn giản rằng: Nông nghiệp, công nghiệp hoá sẽ đầu tư



14

từ bên ngoài vào. Phạm Chí Thành, 1996 cho rằng có 3 điều kiện để tạo nông
nghiệp bền vững đó là công nghệ bảo tồn tài nguyên, những tổ chức từ bên
ngoài và những tổ chức về các nhóm địa phương. Tác giả cho rằng xu thế phát
triển nông nghiệp bền vững được các nước phát triển khởi xướng và hiện nay
đã trở thành đối tượng mà nhiều nước nghiên cứu theo hướng kế thừa, chắt
lọc cái tinh tuý của nền nông nghiệp chứ không chạy theo cái hiện đại để bác
bỏ những cái thuộc về truyền thống. Trong nông nghiệp bền vững việc chọn
cây gì, con gì trong một hệ sinh thái tương ứng không thể áp đặt theo ý muốn
chủ quan mà phải điều tra nghiên cứu để hiểu biết tự nhiên.
Không ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính
những người sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng nông nghiệp bền vững
nhất thiết cần phải có sự tham gia của người dân trong vùng nghiên cứu. Phát
triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên tự nhiên, định
hướng những thay đổi công nghệ thể chế theo một phương thức sao cho đạt
đến sự thỏa mãn một cách liên tục nhu cầu của con người, của những thế hệ
hôm nay và mai sau (FAO, 1976) .
Theo Festry “Sự phát triển nông nghiệp bền vững chính là sự bảo tồn
đất, nước, các nguồn động thực vật, không bị suy thoái môi trường, sinh lợi
kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội” (FAO, 1994) [18]. FAO đã đưa ra
được những chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
- Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản cho thế hệ về số lượng, chất
lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống tốt cho
những người trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài
nguyên thiên nhiên, khả năng tái sản xuất của các tài nguyên tái tạo được

không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự


15

nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa – xã hội của cộng đồng sống ở nông
thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng
tin cho nông dân.
Những nguyên tắc được coi là trụ cột trong sử dụng đất đai bền vững
và là những mục tiêu cần đạt được:
“- Duy trì, nâng cao sản lượng (Hiệu quả sản xuất);
- Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất (An toàn);
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa đất, nước;
- Có hiệu quả lâu dài;
- Được xã hội chấp nhận” (Hội khoa học đất Việt Nam, 2000)
Thực tế nếu diễn ra đồng bộ với những mục tiêu trên thì khả năng bền
vững sẽ đạt được, nếu chỉ đạt được một hay vài mục tiêu mà không phải tất cả
thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Vận dụng các nguyên tắc đã nêu ở trên, ở Việt Nam một loại hình được
coi là bền vững phải đạt được 3 yêu cầu:
- Bền vững về kinh tế: Cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt,
được thị trường chấp nhận.
- Bền vững về mặt xã hội: Nâng cao được đời sống nhân dân, thu hút
được lao động, phù hợp với phong tục tập quán của người dân.
- Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được
độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh thái
đất (Nguyễn Ngọc Nông và CS, 2007) .
Ba yêu cầu trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất ở
thời điểm hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên

để có những định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng.


16

Tóm lại: Đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững chỉ
đạt được trên cơ sở suy trì các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng
sản xuất của cây trồng một cách ổn định, không làm suy giảm đối với tài
nguyên đất đai theo thời gian và việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu
đến hoạt động sống của con người.
1.3. Các vấn đề liên quan tới hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.3.1. Hiệu quả về mặt kinh tế
Theo Cac Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động
theo các ngành sản xuất khác nhau. Theo nhà khoa học Samuelson Nodhuas
“Hiệu quả có nghĩa là không lãng phí”. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét
đến chi phí cơ hội. “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản
lượng hàng hóa khác” (Vũ Phương Thụy, 2000) . Hiệu quả kinh tế là một chỉ
tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức
tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp
phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội.
Hiệu quả kinh tế phải đạt được ba vấn đề sau:
- Một là: Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quy luật tiết
kiệm thời gian
- Hai là: Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý thuyết
hệ thống.
- Ba là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường nguồn lực sẵn có phục vụ
cho lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết

quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra


17

là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan cần xét cả phần so
sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả
kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá
trị đều tính đến khi xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu
đạt được một trong 2 yếu tố hiệu quả kỹ thuật và phân bổ thì khi đó hiệu quả
sản xuất mới đạt được hiệu quả kinh tế.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của hiệu quả kinh tế
sử dụng đất là: Trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng
của cải vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao
động thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
Xuất phát từ vấn đề này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải
chỉ ra được loại hình sử dụng đất hiệu quả kinh tế cao.
1.3.2. Hiệu quả về mặt xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông
nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một dơn vị
diện tích đất nông nghiệp.
Từ những quan niệm trên cho thấy giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một
phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi
ích xã hội mà nó mang lại. Trong giai đoạn hiên nay, việc đánh giá hiệu quả
xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà

khoa học quan tâm.


18

1.3.3. Hiệu quả về mặt môi trường
Hiệu quả môi trường là xem xét sự phản ứng của môi trường đối với
hoạt động sản xuất. Từ các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp đều ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Đó có thể là ảnh hưởng
tích cực đồng thời có thể là ảnh hưởng tiêu cực. Thông thường, hiệu quả kinh
tế thường mâu thuẫn với hiệu quả môi trường. Chính vì vậy khi xem xét cần
phải đảm bảo tính cân bằng với phát triển kinh tế, nếu không thường sẽ bị
thiên lệch và có những kết luận không tích cực.
Xét về khía cạnh hiệu quả môi trường, đó là việc đảm bảo chất lượng
đất không bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác.
Bên cạnh đó còn có các yếu tố như độ che phủ, hệ số sử dụng đất, mối quan
hệ giửa các hệ thống phụ trợ trong sản xuất nông nghiệp như chế độ thủy
văn, bảo quản chế biến, tiêu thụ hàng hóa.
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
Mục đích đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là để
tính toán, so sánh và phân loại mức độ thích hợp của các chỉ tiêu kinh tế, xã
hội và môi trường với các loại hình sử dụng đất nông nghiệp ở địa phương.
Các chỉ tiêu cần tính toán thường thường quy về đơn vị 1 ha cho từng loại
hình sử dụng đất nông nghiệp.
1.4.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
- Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ
được tạo gia trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm).
GTSX = Sản lượng sản phẩm x giá bán sản phẩm
- Chi phí trung gian (CPTG): là toàn bộ chi phí vật chất được sử dụng
trong quá trình sản xuất, như chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi phí

dịch vụ phục vụ cho sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT): là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh tổng giá trị sản


19

phẩm vật chất và dịch vụ xã hội được tạo ra thêm trong một thời gian nhất
định (thường tính theo 1 năm).
GTGT = GTSX – CPTG
- Thu nhập hỗn hợp (TNHH): là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh thu nhập
thuần tuý của người sản xuất bao gồm cả lao động và lợi nhuận sản xuất.
TNHH = GTGT – T
Trong đó: T: Thuế
- Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTGT/CPTG):
đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử dụng các chi phí
biến đổi và thu dịch vụ.
- Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có
(GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng
kiểu sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội
của người lao động.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Đánh giá hiệu quả xã hội là chỉ tiêu khó định lượng, trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn này, do thời gian có hạn chúng tôi chỉ đề cập đến
một số chỉ tiêu sau:
- Hiệu quả giải quyết việc làm;
- Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;
- Mức độ chấp nhận của người dân thể hiện ở mức độ đầu tư, khả năng
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của nông hộ;
- Khả năng phát triển về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
- Giá trị ngày công lao động

Để đánh giá các chỉ tiêu này chúng tôi sử dụng phương pháp đánh giá
có sự tham gia của người dân địa phương để đưa ra hiệu quả xã hội của từng
loại hình sử dụng đất.


20

1.4.3. Các chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong quản lý sử dụng đất bền
vững ở vùng nông nghiệp được tính là (Đỗ Nguyên Hải 1999) :
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất
và bảo vệ cây trồng;
+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích nghi của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
+ Lượng phân bón đối với các loại cây trồng so với tiêu dùng
1.5. Thực trạng vấn đề sử dụng đất nông nghiệp Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có diện tích tự nhiên nhỏ. Bình
quân diện tích tự nhiên trên đầu người là 0,38 ha/người, đứng thứ 203 trong
số hơn 218 nước trên thế giới. Bình quân đất nông nghiệp 0,11 ha/người,
đứng thứ 205 trong số 218 nước. Đặc biệt là trong số đất đó có tới 2/3 diện
tích là đất đồi núi dốc, còn lại 1/3 là đồng bằng.
Theo Luật đất đai năm 2003, đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục
đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, làm muối và mục đích bảo vệ và phát triển rừng.
Tổng diện tích tự nhiên nước ta là 331.212 km² (theo số liệu của Tổng
cục thống kê năm 2014), dân số là 90,7 triệu người, mật độ dân số là 260

người/km2. Bình quân diện tích đất tự nhiên 3.848m 2/người, đứng thứ 9 trong
khu vực. Trong đó đất nông nghiệp 25.127,3 nghìn ha (chiếm 75,90% diên
tích đất tự nhiên). Bình quân diện tích đất nông nghiệp trên người là
2.921m2/người. Đất sản xuất nông nghiệp là 9.598,8 nghìn ha.


21

Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp được sử dụng chủ yếu vào các mục
đích như trồng cây hàng năm và cây lâu năm. Sơ bộ năm 2009, đất trồng cây
hàng năm có diện tích là 11188,6 ha, trong đó: đất trồng cây lương thực có hạt
là 8528,4 nghìn ha, cây công nghiệp hàng năm là 758,6 nghìn ha. Diện tích
đất trồng cây lâu năm là 2760,6 nghìn ha, trong đó diện tích cây ăn quả là
774,0 nghìn ha, cây công nghiệp lâu năm 1936,2 nghìn ha .
Ở Việt Nam hiện có 15,7 triệu ha đất bi xói mòn, rửa trôi mạnh, chua, 9
triệu ha đất có tầng mỏng và độ phì thấp, 3 triệu ha đất thường bị khô hạn và
sa mạc hoá, 1,9 triệu ha đất bị phèn hoá, mặn hoá. Ngoài ra còn các tình trạng
ô nhiễm do phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, chất thải, nước thải đô thị,
khu công nghiệp, làng nghề, sản xuất dịch vụ, chất độc hoá học để lại sau
chiến tranh …Đây thực sự là những vấn đề đáng lo ngại và thách thức lớn với
một nước nông nghiệp như nước ta hiện nay.
Vì vậy đối với đất nông nghiệp nước ta hiện nay khi sử dụng cần đảm
bảo các nguyên tắc đã được nêu tại Luật Đất Đai năm 2013. Ngoài những
nguyên tắc đó cần thêm các nguyên tắc “Đầy đủ, hợp lý, hiệu quả và bền
vững” và phải có các quan điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương để làm cơ sở cho việc sử
dụng đất nông nghiệp có hiệu quả về cả mặt kinh tế, xã hội, môi trường.
Sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay cần hướng tới mục tiêu
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, thực
phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử

dụng đất nông nghiệp dựa trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội, tận dụng tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm
ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để
đảm bảo cho khai thác và sử dụng bến vững tài nguyên đất đai.


22

CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Đất nông nghiệp và các loại hình sử dụng đất nông nghiệp tại xã Thanh
Luông, Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên
2.1.2. Phạm vi
Phạm vi không gian: xã Thanh Luông, Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện
Biên.
Thời gian: từ 09/02/2015 đến 24/04/2015
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu
2.2.2. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu
2.2.3. Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của xã
Thanh Luông
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu sơ cấp, thứ cấp
2.3.1.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu sơ cấp
- Khảo sát thực địa nhằm kiểm chứng các thông tin, số liệu đã thu thập
được qua điều tra.
- Điều tra bằng phương pháp truyền thống (bộ câu hỏi) theo mẫu phiếu

điều tra phỏng vấn trực tiếp các nông hộ.
2.3.1.2. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu thứ cấp
Thu thập tài liệu có sẵn, tài liệu thu nhập từ các cơ quan quản lý chuyên
môn như: Phòng Tài nguyên môi trường, phòng nông nghiệp, phòng thống


23

kê... của huyện. Tiến hành điều tra bổ sung ngoài thực địa để điều chỉnh cho
phù hợp với thực tế và chuẩn hóa các số liệu.
2.3.2. Phương pháp kế thừa
Đây là phương pháp mà trong quá trình thực hiện nghiên cứu đã kế
thừa các phương pháp, các số liệu sẵn có của địa phương để làm tài liệu tham
khảo và nghiên cứu.
2.3.3. Phương pháp phân tích, tính toán và xử lý số liệu
Đây là phương pháp phân tích và xử lý các số liệu thô đã được thu nhập
để thiết lập các bảng biểu để so sánh được sự biến động và tìm ra nguyên
nhân của nó. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cần thực hiện. Số liệu thu
thập được xử lý bằng phần mềm Excel.
2.3.4. Phương pháp chuyên gia: Tham khảo các ý kiến của cán bộ địa chính,
cán bộ tài nguyên, các chủ hộ sản xuất, các chuyên gia trong lĩnh vực đánh
giá đất đai.
2.2.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
trong tương lai.


24

CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Thanh Luông là một xã biên giới Việt - Lào có đường biên giới dài
khoảng 8km, đồng thời cũng là một xã lòng chảo phía Tây huyện Điện Biên,
có vị trí tiếp giáp như sau:
- Phía Đông giáp TP. Điện Biên Phủ
- Phía Tây giáp nước CHDCND Lào
- Phía Bắc giáp xã Thanh Nưa
- Phía Nam giáp xã Thanh Hưng
Xã Thanh Luông có tổng diện tích tự nhiên là 3615,94 ha có vị trí địa
lý thuận lợi giáp với TP. Điện Biên Phủ nên có nhiều điều kiện để phát triển
kinh tế, xã hội.
3.1.2. Địa hình, địa mạo
3.1.2.1. Địa hình
Xã Thanh Luông là xã nằm trong khu vực lòng chảo bồn địa Điện Biên,
địa hình của xã được chia thành 2 vùng rõ rệt:
- Vùng Đồng bằng có độ cao khoảng 480 - 495m, địa hình tương đối
bằng phẳng.
- Vùng đồi núi có độ cao trên 495m.
3.1.2.2. Địa chấn
Cùng với các khu vực xã , phường khác trong tỉnh Điện Biên, xã Thanh
Luông chịu ảnh hưởng của vùng địa chấn thuộc hệ thống đứt gẫy á kinh tuyến
với:


25

- Chu kỳ động đất là 120 năm với cường độ chấn động trên mặt đất là
Lomax = 8.

- Cấp động đất Mmax = 5.1 - 5.5. độ Richter, độ sâu h = 10 - 15km.
3.1.3. Khí hậu, thời tiết
Là một xã thuộc vùng miền núi Tây Bắc nên xã chịu ảnh hưởng rõ rệt
của khí hậu vùng này. Được hình thành từ một nền nhiệt cao của đới chí tuyến
và sự thay thế của các hoàn lưu lớn theo mùa, kết hợp với các điều kiện địa
hình nên mùa khô từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau giá lạnh nhiệt
độ thấp, trời khô hanh có sương muối, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9 không
khí nóng ẩm và có mưa nhiều.
- Nhiệt độ trung bình năm là 21,8 o C, bình quân tháng nóng nhất là
35,5o C, nhiệt độ cao nhất lên tới 38o C, bình quân tháng lạnh nhất là 15,1o C,
nhiệt độ thấp nhất là - 0,4o C, biên độ chênh lệch ngày và đêm 11,1o C.
- Lượng mưa trung bình năm 1600 - 1700mm, cao nhất đạt 4960mm,
thấp nhất ở mức 856mm. Lượng mưa chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7, 8
chiếm 80% lượng mưa cả năm, số ngày mưa trung bình năm là 122 ngày.
- Tổng số giờ nắng trung bình là 2000 giờ/năm. Số ngày nắng trong các
tháng có sự chênh lệch rõ rệt, số giờ nắng tháng nhiều nhất là 206 giờ, tháng
ít nhất là 124 giờ.
- Độ ẩm không khí trung bình là 83%, cao nhất là 89% vào tháng 7 và
tháng 8, thấp nhất là 56% vào tháng 3. Độ ẩm tuyệt đối là 12%.
- Hướng gió: xã Thanh Luông luôn chịu ảnh hưởng bởi 2 hướng gió chính:
+ Gió mùa Đông bắc thổi vào mùa khô mang theo khí lạnh khô và
hanh. Thời gian này trong năm thường xảy ra hiện tượng mưa phùn, sương
muối, sương mù và đặc biệt có năm còn có hiện tượng băng giá ảnh hưởng
đến sản xuất và sinh hoạt của bà con nông dân.
+ Gió mùa Đông nam thổi vào mùa mưa mang theo không khí ẩm và
thường xuyên gây ra những trận mưa rào. Ngoài ra, các tháng 3, tháng 4 còn


×